Tài liệu Đặt stent đường mật xuyên gan qua da trong tắc nghẽn đưỡng mật do bệnh lý tân sinh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
ĐẶT STENT ĐƯỜNG MẬT XUYÊN GAN QUA DA
TRONG TẮC NGHẼN ĐƯỜNG MẬT DO BỆNH LÝ TÂN SINH
Lê Công Khánh*, Nguyễn Đình Song Huy*, Nguyễn Đình Tam*, Trần Phùng Dũng Tiến*
TÓM TẮT
Tắc nghẽn đường mật do bệnh lý tăng sinh tương đối thường gặp, nếu kéo dài sẽ dẫn đến suy chức năng
gan, hội chứng gan thận, rối loạn đông máu. Đặt stent đường mật theo đường xuyên gan qua da là một biện
pháp cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân và khắc phục được những bất lợi mà catheter dẫn lưu đường
mật có thể gây ra. Từ tháng 11/2003 đến tháng 7/2004 tại khoa Ngoại Gan-Mật-Tụy BV Chợ Rẫy, chúng tôi đã
thực hiện đặt stent đường mật xuyên gan qua da cho 4 trường hợp tắc mật do nguyên nhân ác tính. Tỉ lệ giảm
bilirubin huyết thanh trung bình 3 ngày sau đặt stent là 35% và 1 tháng sau đặt stent là 100%. ...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặt stent đường mật xuyên gan qua da trong tắc nghẽn đưỡng mật do bệnh lý tân sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
ĐẶT STENT ĐƯỜNG MẬT XUYÊN GAN QUA DA
TRONG TẮC NGHẼN ĐƯỜNG MẬT DO BỆNH LÝ TÂN SINH
Lê Công Khánh*, Nguyễn Đình Song Huy*, Nguyễn Đình Tam*, Trần Phùng Dũng Tiến*
TÓM TẮT
Tắc nghẽn đường mật do bệnh lý tăng sinh tương đối thường gặp, nếu kéo dài sẽ dẫn đến suy chức năng
gan, hội chứng gan thận, rối loạn đông máu. Đặt stent đường mật theo đường xuyên gan qua da là một biện
pháp cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân và khắc phục được những bất lợi mà catheter dẫn lưu đường
mật có thể gây ra. Từ tháng 11/2003 đến tháng 7/2004 tại khoa Ngoại Gan-Mật-Tụy BV Chợ Rẫy, chúng tôi đã
thực hiện đặt stent đường mật xuyên gan qua da cho 4 trường hợp tắc mật do nguyên nhân ác tính. Tỉ lệ giảm
bilirubin huyết thanh trung bình 3 ngày sau đặt stent là 35% và 1 tháng sau đặt stent là 100%. Không ghi nhận
biến chứng nào liên quan đến thủ thuật đặt stent (chỉ có một trường hợp áp xe tồn lưu do tụt catheter dẫn lưu
đường mật nhánh gan T).Với kết quả ban đầu như trên, chúng tôi nghĩ rằng đặt stent đường mật xuyên gan
qua da là một phương pháp an toàn, hiệu quả và tránh được các bất lợi mà dẫn lưu đường mật xuyên gan qua
da có thể gây ra cho bệnh nhân.
SUMMARY
BILIARY STENT FOR MALIGNANT BILIARY OBSTRUCTIVE DISEASES
Le Cong Khanh, Nguyen Dinh Song Huy, Nguyen Dinh Tam, Tran Phung Dung Tien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 3 * 2004: 155 – 158
Malignant biliary obstructive diseases are quite common. If the obstruction lasts long, it might affect liver
function and cause hepatonephrotic syndrome, coagulation disorders.Percutaneous transhepatic biliary stent
is a method to improve quality of life for patients and overcome the disadvantages caused by biliary drainage.
From 11/2003 to 7/2004, we have performed percutaneous transhepatic biliary stent for 4 cases of malignant
biliary obstructive diseases. The serum bilirubine decrease 35% after 3 days and 100% after one month. No
complication related to stenting procedure noted (only one case residual abscess due to breaking out the biliary
drain of left hepatic branch). With the above result, we think that percutaneous transhepatic biliary stent is a
effective and safe method which can avoid the disadvantages of biliary drainage.
MỞ ĐẦU
Tắc nghẽn đường mật do bệnh lý tân sinh tương
đối thường gặp. Tình trạng tắc mật nếu kéo dài sẽ
dẫn đến suy chức năng gan,hội chứng gan thận, rối
loạn đông máu, Từ lâu nay trong các trường hợp
khối u không còn khả năng phẫu thuật, chúng tôi
thực hiện dẫn lưu đường mật xuyên gan qua da
(Percutaneous Transhepatic Biliary Drainage –
PTBD) với mục đích làm giảm triệu chứng và cải
thiện chất lượng sống cho bệnh nhân. Gần đây
chúng tôi bắt đầu thực hiện đặt stent đường mật theo
đường xuyên gan qua da để điều trị cho những bệnh
nhân này, nhằm khắc phục những bất lợi mà
catheter dẫn lưu đường mật có thể gây ra.
ĐỐI TƯỢNG VÀ KỸ THUẬT THỰC HIỆN
Đối tượng khảo sát
Bốn trường hợp được đặt stent đường mật xuyên
gan qua da tại Khoa Ngoại Gan-Mật-Tụy BVCR từ
tháng 11/2003 đến 7/2004 gồm 02 nam và 02 nữ,
tuổi trung bình là 56 (50-59), được chẩn đoán tắc
nghẽn đường mật do bệnh lý tân sinh dựa trên lâm
* Khoa Ngoại Gan Mật Tụy, Bệnh viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh
155
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
sàng, siêu âm, chụp mật xuyên gan qua da, CT scan
hoặc chụp mật tụy bằng cộng hưởng từ (Magnetic
Resonance Cholangio Pancreatography-MRCP)
Các chỉ định được áp dụng
K đường mật chính.
K túi mật chèn ép đường mật chính.
Tắc đường mật chính do K di căn
Điều kiện thực hiện
Bệnh nhân không sốt hay sốt nhẹ dưới 38oC,
không rối loạn đông máu nhiều, không có hay có cổ
trướng ít, bệnh nhân hợp tác tốt, nhịn đói 6 giờ trước
khi thực hiện thủ thuật, không kèm theo bệnh lý tim
mạch quá nặng.
Phương tiện
Máy X-quang C-arm và/hoặc máy siêu âm với đầu
dò có rãnh.
Bộ dụng cụ đặt dẫn lưu đường mật.
Bộ stent đường mật đặt xuyên gan qua da.
Kỹ thuật thực hiện
Bệnh nhân nằm ngửa, nửa người trên để trần,
tay phải đặt lên đầu, tay trái xuôi theo thân người, hai
chân duỗi thẳng, được tiền mê bằng Hypnovel hoặc
Dolargan
Gây tê bằng Lidocain 2% tại liên sườn 8 đường
nách giữa bên phải, dùng kim Chiba chọc và bơm
thuốc cản quang hiển thị đường mật
Rút kim Chiba, quan sát trên monitor của C-arm
để chọc kim thép 18G vào ống mật thích hợp (trên
monitor thấy kim thép đẩy vách ống mật lõm vào
trước khi xuyên qua), sau đó luồn guidewire qua kim
thép vào đường mật, xuyên qua chỗ tắc nghẽn xuống
tá tràng.
Đặt 1 catheter 8Fr vào đường mật xuống tá tràng,
trên catheter có chọc thêm các lỗ bên để mật có thể
được dẫn lưu ra ngoài và/hoặc xuống tá tràng.
Sau 3 ngày, nong đường hầm bằng ống nong có
đường kính 10Fr, sau đó tiến hành đặt stent xuyên
qua chỗ tắc nghẽn sao cho đầu gần và đầu xa cùa
stent càng xa chỗ tắc nghẽn càng tốt. Khi stent đã
được đặt vào vị trí thích hợp, catheter dẫn lưu mật
được lưu lại và sẽ được rút sau 2-3 ngày.
KẾT QUẢ
Chúng tôi đã thực hiện 4 trường hợp đặt stent
đường mật theo đường xuyên gan qua da cho 4 bệnh
nhân gồm:
K đường mật 03 trường hợp
K dạ dày di căn rốn gan 01 trường hợp
Có 1 trường hợp được chẩn đoán tắc mật do u
rốn gan, qua hình ảnh PTC thấy 2 ống gan P và T
không thông nhau, chúng tôi quyết đinh đặt 2
catheter PTBD cho cả 2 ống gan, và đều được đưa
xuyên qua chỗ tắc nghẽn xuống tá tràng. Sau 3 ngày
chụp kiểm tra thấy 2 ống gan thông nhau, chúng tôi
tiến hành đặt 1 stent kim lọai qua đường hầm ống
gan P xuyên qua chỗ tắc nghẽn. Sau vài ngày chụp
kiểm tra thấy stent hoạt động hiệu quả, dẫn lưu tốt cả
2 nhành gan.
Mức độ giảm bilirubin huyết thanh được ghi
nhận như sau:
Tỉ lệ giảm bilirubin huyết
thanh trung bình
Bilirubin huyết thanh
trung bình
(Trước đặt stent) Sau 3 ngày Sau 1 tháng
21,2mg% (7,2 – 33,1) 35% (33 – 41) 100%
BIẾN CHỨNG
Chúng tôi ghi nhận 1 trường hợp bị áp-xe tồn lưu
do tụt ống PTBD ở ống gan T gây rò mật vào ổ bụng.
Chọc hút ổ abcès dưới hướng dẫn siêu âm và kháng
sinh giúp bệnh nhân xuất viện vài ngày sau đó trong
tình trạng sức khỏe tốt.
Không có trường hợp nào tử vong liên quan đến
thủ thuật đặt stent.
BÀN LUẬN
Về chỉ định đặt stent đường mật
xuyên gan qua da
Trong các trường hợp tắc mật do bệnh lý tân sinh
đã quá chỉ định phẫu thuật, việc giải áp đường mật để
cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân là cần
thiết. Đối với các trường hợp không thể đặt dẫn lưu
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 156
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
trong qua ERCP, PTBD là một biện pháp thích hợp.
Tuy nhiên, dẫn lưu đường mật xuyên gan qua da có
thể đem lại cho bệnh nhân một số bất tiện như phải
luôn mang catheter bên mình, đau và viêm tấy tại
chỗ đặt dẫn lưu, nhiễm trùng, tụt catheter và thất
thoát dịch mật ra ngoài. Đặt stent đường mật xuyên
gan qua da có thể khắc phục được những vấn đề nêu
trên. Có thể dùng stent nhựa hoặc stent kim lọai để
đặt cho bệnh nhân, mỗi loại đều có ưu khuyết điểm
riêng. Stent nhựa có giá rẻ, tuy nhiên thời gian tắc
stent sau đặt thường ngắn, trung bình khoảng 3
tháng cho stent có đường kính 10Fr (đường kính của
stent tỷ lệ thuận với thời gian tắc stent sau đặt), và
bệnh nhân phải nhập viên trở lại để thay stent. Ngoài
ra có khoảng 3-6% bệnh nhân bị tụt stent. Trong khi
đó stent kim lọai có giá đắt hơn nhưng thời gian bệnh
nhân phải nằm bệnh viện ngắn hơn do kỹ thuật đặt
đơn giản hơn, thời gian tắc stent sau đặt dài hơn (6-
12 tháng tùy tác giả) và hầu như không xảy ra biến
chứng tụt stent. Do đó ta cần phải đánh giá tiên
lượng của bệnh nhân để quyết định nên đặt stent
nhựa hay stent kim lọai. Nếu tiên lượng bệnh nhân
không tốt, thời gian sống không dài thì ta chỉ nên đặt
stent nhựa cho bệnh nhân mà thôi.
Về kỹ thuật đặt stent đường mật
xuyên gan qua da
Hầu hết các tác giả đều thực hiện đặt stent
đường mật xuyên gan qua da dưới sự hướng dẫn của
X-quang, vì chỉ như vậy ta mới hướng được guirewire
xuyên qua chỗ tắc nghẽn xuống tá tràng. Sau khi
bơm thuốc cản quang ta sẽ nhận định rõ vị trí và
chiều dài của đường mật bị hẹp, từ đó lựa chọn kích
thước stent thích hợp. Ưu điểm của stent kim lọai là
qua đường hầm của ống PTBD 8Fr ta có thể đặt stent
có đường kính 24-30 Fr. Một vấn đề nữa đang được
các tác giả bàn cãi là có nên đặt stent đường mật
xuyên gan qua da một thì hay không, tức là đặt ngay
stent sau khi làm PTBD. Vì số ca lâm sàng của chúng
tôi còn quá ít nên chúng tôi chưa có kinh nghiệm về
vấn đề này.
Về kết quả đặt stent đường mật xuyên
gan qua da
Chúng tôi đặt stent thành công cả 4 trường hợp
trong lô nghiên cứu này. Tỉ lệ giảm bilirubin huyết
thanh 3 ngày sau đặt stent của chúng tôi là 35% và
sau 1 tháng là 100%, tương đương với các tác giả
khác. Việc giảm bilirubin huyết thanh giúp chức năng
gan được cải thiện, bệnh nhân hết vàng da, hết ngứa,
ăn ngon miệng, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân
được cải thiện thấy rõ mặc dù đặt stent đường mật
xuyên gan qua da không làm thay đổi diễn tiến tự
nhiên của bệnh lý nguyên phát
Về biến chứng của đặt stent đường
mật xuyên gan qua da
Ngoại trừ trường hợp bị áp-xe tồn lưu do tụt ống
PTBD nhánh gan T đã nêu ở trên, chúng tôi không
ghi nhận biến chứng nào khác liên quan đến thủ
thuật.
THEO DÕI
Một trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán K
đường mật, đã được đặt stent kim loại, xuất hiện vàng
mắt vàng da 3 tháng sau đặt stent, được làm ERCP
kiểm tra thấy stent bị tắc, bệnh nhân đã được đặt lại
một stent nhựa 10Fr qua đường ERCP tại một cơ sở y
tế khác.
Một trường hợp khác bệnh nhân cũng được chẩn
đoán K đường mật, đã được đặt stent kim loại, xuất
hiện vàng mắt vàng da 4 tháng sau đặt stent, làm
ERCP kiểm tra thấy stent vẫn thông tốt, tuy nhiên cơ
vòng Oddi bị chít hẹp, bệnh nhân đã được cắt cơ vòng
Oddi. Đến thời điểm hiện tại cả 4 bệnh nhân vẫn còn
được tiếp tục theo dõi, người lâu nhất là 9 tháng, gần
nhất là 2 tháng.
KẾT LUẬN
Đặt stent đường mật xuyên gan qua da là biện
pháp cần thiết để cải thiện chức năng gan và chất
lượng cuộc sống cho các trường hợp tắc mật do các
nguyên nhân ác tính đã quá chỉ định can thiệp phẫu
thuật triệt để tuy rằng không thể thay đổi diễn tiến tự
nhiên của bệnh lý nguyên phát. Vì mới triển khai
157
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
thực hiện kỹ thuật này, số ca lâm sàng còn ít nên
chúng tôi chưa thể đưa ra rút ra kết luận của riêng
mình. Tuy nhiên theo đa số các tác giả trên thế giới
thì đặt stent đường mật xuyên gan qua da là thủ thuật
an toàn, hiệu quả và tránh được các bất lợi mà dẫn
lưu đường mật xuyên gan qua da có thể gây ra cho
bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn-Đình Song-Huy, Nguyễn Đình Tam – Chụp
đường mật xuyên gan qua da trong chẩn đoán bệnh lý
đường mật – Hội thảo Việt-Nhật về Bệnh lý Tiêu hóa,
Bệnh viện Chợ Rẫy 1996.
2. Lê Công Khánh, Nguyễn-Đình Song-Huy, Nguyễn
Đình Tam – Dẫn lưu đường mật xuyên gan qua da
trong bệnh lý tắc nghẽn đường mật – Hội nghị Ngoại
khoa toàn quốc lần X – 1999.
3. R. Ó LAOIDE, E. VANSONNENBERG – Percutaneous
intubational techniques in biliary and periampullary
cancer – Surgery of the liver and biliary tract – 2000
4. D.L BARTLETT, Y. FONG – Tumors of the
gallbladder - Surgery of the liver and biliary tract –
2000
5. W.R. JARNAGIN, P.F SALDINGER, L.H BLUMGART
– Cancer of the bile ducts: the hepatic duct and the
common bile duct - Surgery of the liver and biliary
tract – 2000
6. PAPPAS P, LEONARDOU P, KURKUNI A,
ALEXOPOULOS T – Percutaneous insertion of
metallic endoprostheses in the biliary tree in 66
patients: relief of the obstruction – Abdom Imagin -
2003
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 158
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dat_stent_duong_mat_xuyen_gan_qua_da_trong_tac_nghen_duong_m.pdf