Tài liệu Đáp ứng sinh học phân tử ở bệnh nhân bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn kháng hoặc bất dung nạp imatinib được điều trị với nilotinib: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
145
ĐÁP ỨNG SINH HỌC PHÂN TỬ Ở BỆNH NHÂN
BẠCH CẦU MẠN DÒNG TỦY GIAI ĐOẠN MẠN KHÁNG
HOẶC BẤT DUNG NẠP IMATINIB ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ VỚI NILOTINIB
Phù Chí Dũng*, Châu Thúy Hà*, Phan Thị Xinh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng sinh học phân tử ở bệnh bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn kháng hoặc bất
dung nạp Imatinib được điều trị với Nilotinib.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn
mạn kháng hoặc bất dung nạp Imatinib tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
1/2015 đến tháng 12/2017, không có đột biến kháng thuốc hoặc có đột biến còn nhạy với Nilotinib. Mô tả hàng
loạt ca, tiến cứu.
Kết quả: 127 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa vào nghiên cứu. 4,3% bệnh nhân đạt PCyR ở
tháng thứ 3. 12% bệnh nhân đạt CCyR ở tháng thứ 6. 18,8% bệnh nhân đạt MMR ở tháng thứ 12 và 15% đạt
MR4 ở tháng thứ 18.
Kết luận: Niloti...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 99 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đáp ứng sinh học phân tử ở bệnh nhân bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn kháng hoặc bất dung nạp imatinib được điều trị với nilotinib, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
145
ĐÁP ỨNG SINH HỌC PHÂN TỬ Ở BỆNH NHÂN
BẠCH CẦU MẠN DÒNG TỦY GIAI ĐOẠN MẠN KHÁNG
HOẶC BẤT DUNG NẠP IMATINIB ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ VỚI NILOTINIB
Phù Chí Dũng*, Châu Thúy Hà*, Phan Thị Xinh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng sinh học phân tử ở bệnh bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn kháng hoặc bất
dung nạp Imatinib được điều trị với Nilotinib.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn
mạn kháng hoặc bất dung nạp Imatinib tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
1/2015 đến tháng 12/2017, không có đột biến kháng thuốc hoặc có đột biến còn nhạy với Nilotinib. Mô tả hàng
loạt ca, tiến cứu.
Kết quả: 127 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa vào nghiên cứu. 4,3% bệnh nhân đạt PCyR ở
tháng thứ 3. 12% bệnh nhân đạt CCyR ở tháng thứ 6. 18,8% bệnh nhân đạt MMR ở tháng thứ 12 và 15% đạt
MR4 ở tháng thứ 18.
Kết luận: Nilotinib có hiệu quả điều trị cho bệnh nhân bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn kháng hoặc
không dung nạp Imatinib.
Từ khóa: Bạch cầu mạn dòng tủy, kháng imatinib, bất dung nạp imatinib, nilotinib.
ABSTRACT
MOLECULAR RESPONSE IN CHRONIC PHASE CHRONIC MYELOID LEUKEMIA PATIENTS
RESISTANCE OR INTOLERANCE TO IMATINB WERE TREATED WITH NILOTINIB
Phu Chi Dung, Chau Thuy Ha, Phan Thi Xinh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 6- 2018: 145 – 150
Objectives: Evaluation molecular response in chronic myeloid leukemia patients in chronic phase after
imatinib resistance or intolerance treated with nilotinib.
Subjects - Method: Patients were diagnosed chronic myeloid leukemia in chronic phase with BCR/ABL
fusion gene or Philadelphia chromosome positive from 1/2015 to 12/2017 in Blood Transfusion and Hematology
Hospital, Ho Chi Minh City. These patients were resistant or intolerant to Imatinib therapy without ABL kinas
domain mutation or with mutations still sensitive to Nilotinib. Prospective case series.
Results: 127 patients were included in this study. At 3 months, rate of partial cytogenetic response was
4.3%. 12% of patients have complete cytogenetic response in 6 months. 18.8% of patients have major molecular
response at 12 months and 15% have deep molecular (MR4) at 18 months.
Conclusions: Nilotinib is effective in chronic myeloid leukemia patients in chronic phase after resistance or
intolerance to Imatinib.
Key words: Chronic myeloid leukemia, Imatinib resistance or intolerance, nilotinib.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự ra đời của Imatinib đã thiết lập phương
thức điều trị nhắm trúng đích BCR-ABL như
một điều trị tiêu chuẩn, tạo một bước tiến khá
dài trong điều trị bạch cầu mạn dòng tủy. Tuy
nhiên, trong cập nhật mới nhất sau 8 năm theo
* Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.Hồ Chí Minh, **Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS.CKII. Phù Chí Dũng ĐT: 0908 428 858 Email: chidungyk85@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
146
dõi của nghiên cứu IRIS, ít nhất có đến 37%
người bệnh điều trị với Imatinib có kết quả chưa
như mong muốn: 17% không đạt được đáp ứng
di truyền tế bào hoàn toàn, 15% mất đáp ứng di
truyền tế bào đã đạt trước đó và 5% người bệnh
bất dung nạp với Imatinib(5).
Sau khi nghiên cứu được các cơ chế kháng
thuốc, hàng loạt thuốc ức chế Tyrosine kinase
thế hệ 2 được đưa vào nghiên cứu. Hiện nay có 4
thuốc thế hệ 2 được đưa vào ứng dụng lâm sàng
thực tế đó là: Nilotinib, Dasatinib, Bosutinib và
Ponatinib. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế, nên
hiện nay người bệnh kháng thuốc tại Việt Nam
chỉ tiếp cận được với thuốc Nilotinib, là một dẫn
xuất phenylamino-pyrimidin, được thiết kế dựa
trên cấu trúc tinh thể của Imatinib.
Imatinib có ái lực cao đối với ABL kinase,
ức chế BCR-ABL kinase bằng cách liên kết với
cấu hình bất hoạt, không phosphoryl hóa của
kinase, do đó làm giảm cấu hình hoạt tính
phosphoryl hóa, cần thiết cho ATP gắn kết.
Điều này ngăn chặn dẫn truyền tín hiệu, làm
mất khả năng tăng sinh và mất sự ức chế
apoptosis của tế bào. Khảo sát cấu trúc không
gian vùng ABL kinase mà Imatinib gắn kết, các
nhà nghiên cứu giả thuyết rằng tính chọn lọc
và hiệu lực của Imatinib còn có thể cải thiện
hơn nữa bằng cách lấp đầy vị trí gắn kết này
hiệu quả hơn nhờ tận dụng tính ưa lipid. Dựa
trên nguyên tắc này, Nilotinib được thiết kế để
duy trì liên kết với cấu hình bất hoạt của ABL
kinase. Bằng cách thay thế phân tử N-
methylpiperazine có trong Imatinib bằng một
phenyl gắn trifluoromethyl và imidazole, hiệu
lực của Nilotinib tăng đáng kể nhờ giảm số
lượng liên kết hydro (4 liên kết hydro so với 6
liên kết trong Imatinib). Những thay đổi cấu
trúc này giúp Nilotinib có ái lực và hoạt động
ức chế kinase BCR-ABL lớn hơn so với
Imatinib.
Ngoài ra, sự khác biệt về cấu trúc giữa
Nilotinib và Imatinib làm sự dung nạp chéo
giữa hai loại thuốc trở nên tối thiểu ở bệnh
nhân bạch cầu mạn dòng tủy(2). Nilotinib có
khả năng phủ nhiều đột biến vốn gây kháng
với Imatinib và gần đây đã được khuyến cáo
lựa chọn điều trị trong những trường hợp giai
đoạn mạn hoặc tiến triển có đề kháng hoặc bất
dung nạp với Imatinib.
Thật vậy, nghiên cứu trên 321 bệnh nhân
bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn hay
chuyển cấp kháng hay không dung nạp
Imatinib, sau 12 tháng điều trị Nilotinib, ở nhóm
bệnh nhân không có đột biến, 60% có đáp ứng di
truyền tế bào phần lớn (MCyR), 40% có đáp ứng
di truyền tế bào hoàn toàn (CCyR) và 29% đáp
ứng di truyền tế bào phần lớn (MMR) so với 49%
(p = 0,145), 32% (p = 0,285) và 22% (p = 0,366)
tương ứng ở nhóm có đột biến. Đáp ứng ở nhóm
mang đột biến có độ nhạy cao in vitro với
Nilotinib (nồng độ ức chế 50% (IC50 ≤ 150 nM))
hay nhóm mang đột biến không rõ độ nhạy với
nilotinib tương đương nhóm không mang đột
biến. Bệnh nhân mang đột biến kém nhạy với
Nilotinib (IC50 > 150 nM; Y253H, E255V/K,
F359V/C) có đáp ứng kém hơn, tỉ lệ đáp ứng
MCyR là 13%, 43%, và 9% tương ứng mỗi loại
đột biến, không có bệnh nhân đạt CCyR(8).
Từ năm 2015, Bệnh viện Truyền Máu
Huyết Học TP.HCM bắt đầu đưa Nilotinib vào
điều trị chính thức cho nhóm bệnh nhân bạch
cầu mạn dòng tủy kháng Imatinib. Nghiên cứu
bước đầu cho thấy nhiều kết quả khả quan với
tỷ lệ đạt đáp ứng huyết học và đáp ứng di
truyền tế bào lần lượt là 95% và 74%(4). Ngoài
báo cáo năm 2015 của tác giả Cồ Nguyễn
Phương Dung(4), đến nay tại Việt Nam vẫn
chưa có một nghiên cứu hệ thống với thời gian
theo dõi dài về việc sử dụng Nilotinib trên
nhóm bệnh nhân này. Chúng tôi mong muốn
thực hiện nghiên cứu sau nhằm trả lời câu hỏi
“Nilotinib có hiệu quả như thế nào trên người
bệnh bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn
kháng hoặc bất dung nạp với Imatinib tại bệnh
viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM?”.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành mô tả tiến cứu hàng loạt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
147
ca. Người bệnh được chẩn đoán bạch cầu mạn
dòng tủy giai đoạn mạn kháng hoặc bất dung
nạp Imatinib tại bệnh viện Truyền Máu Huyết
Học thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1/2015
đến tháng 12/2017, không có đột biến kháng
thuốc hoặc có đột biến còn nhạy với Nilotinib
(như M244V, L248V, G250E, Q252H, E275K,
D276G, V299L, T315A, F317L, M351T, E355A/G,
L387F, F486S) được đưa vào điều trị với
nilotinib, theo dõi đáp ứng di truyền tế bào bằng
kỹ thuật FISH và đáp ứng sinh học phân tử bằng
kỹ thuật RT hay RQ PCR.
Kháng nguyên phát
Khi không đạt đáp ứng tại những mốc thời
gian tương ứng(1):
Không đạt đáp ứng huyết học hoàn toàn
trong 3 tháng,
Không đạt đáp ứng di truyền tế bào một
phần (PCyR) trong 6 tháng,
Không đạt đáp ứng di truyền tế bào hoàn
toàn (CCyR) trong 12 tháng.
Kháng thứ phát
Khi người bệnh đã đạt được đáp ứng bước
đầu với Imatinib (theo tiêu chuẩn tối ưu của
ELN) và trở nên mất các đáp ứng này sau một
thời gian điều trị(1).
Bất dung nạp với Imatinib theo tiêu chuẩn sau:
Người bệnh được gọi là bất dung nạp với
Imatinib khi xuất hiện độc tính không phải
huyết học ít nhất độ 3 tái đi tái lại nhiều lần, bất
kể can thiệp nội khoa tích cực(11).
Kỹ thuật FISH
Mẫu máu hoặc tủy xương trong chống đông
heparin của bệnh nhân được thu hoạch trực tiếp
không qua nuôi cấy để thu hoạch tế bào bạch
cầu và cố định tế bào trên tiêu bản. Tế bào được
biến tính ở 75oC trong 5 phút bằng máy
ThermoBrite (Abbott, Hoa Kỳ) và lai hóa với
đoạn dò đặc hiệu BCR/ABL Plus Translocation,
Dual Fusion Probe của hãng Cytocell (UK) (Hình
1). Quá trình lai hóa được thực hiện ở 37oC trong
18 đến 20 giờ. Sau khi lai hóa, rửa tiêu bản để
loại bỏ những mẫu dò không bắt cặp đặc hiệu
bằng dung dịch 0,4 x SSC/0,3% NP-40 ở 73 oC
trong 2 phút, và dung dịch 2 x SSC/0,1% NP-40 ở
nhiệt độ phòng trong 1 phút. Để khô tiêu bản và
phủ 10μl dung dịch DAPI II counterstain. Phân
tích tìm bất thường nhiễm sắc thể trên 200 tế bào
dưới kính hiển vi huỳnh quang BX51 (Olympus,
Nhật Bản).
Hình 1: Cấu trúc đoạn dò BCR/ABL
Đoạn dò tại 9q34: gen ASS được gắn chất phát huỳnh quang màu xanh dương dài 173 kb và gen ABL được gắn chất phát
huỳnh quang màu đỏ dài 346 kb. Đoạn dò tại 22q11 gắn chất phát huỳnh quang màu xanh lá phủ ở 2 đầu gen BCR với độ
dài 169 kb và 148 kb.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
148
Kỹ thuật RQ PCR
Real-time PCR là kỹ thuật PCR mà kết quả
khuếch đại trình tự DNA mục tiêu được hiển thị
sau mỗi chu kỳ nhiệt của phản ứng.
Chúng tôi sử dụng BCR/ABL p210 one step
detection kit (Entrogen, Hoa Kỳ) để định lượng
số bản sao major BCR/ABL. Bộ kit này cho phép
tổng hợp cDNA từ RNA li trích được, sau đó
thực hiện phản ứng Real-time PCR trong cùng 1
tube, với độ nhạy và độ đặc hiệu cao, có thể
đánh giá đến MR4.
Mỗi tube phản ứng RQ-PCR có tổng thể tích
là 20 μl bao gồm các thành phần: 4 μL 5X
enzyme mix, 0,8 μL manganese acetate, 3 μL
primer mix, 7,2 μL nước (Rnase/Dnase Free) và 5
μL RNA. Phản ứng được thực hiện trên máy
Sacace Biotechnologies (Hoa Kỳ), với chương
trình luân nhiệt bao gồm 55oC trong 5 phút; 60oC
trong 5 phút, 65oC trong 5 phút, 45 chu kỳ với
biến tính 95oC trong 10 giây, bắt cặp 60oC trong
30 giây và chụp tín hiệu huỳnh quang. Kết quả
sau đó được ghi nhận, phân tích và báo cáo.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Tổng số bệnh nhân được đưa vào nghiên
cứu là 127 trường hợp, tuổi từ 15 đến 80, với thời
gian điều trị Imatinib từ 4 đến 106 tháng. Trong
127 bệnh nhân trên, có 126 bệnh nhân kháng
Imatinib (116 bệnh nhân kháng nguyên phát và
10 bệnh nhân kháng thứ phát), 1 bệnh nhân bất
dung nạp Imatinib với biểu hiện tăng men gan
hơn 3 lần giới hạn trên ngưỡng bình thường.
Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân
Đặc điểm Trung vị (khoảng)/ Tỉ lệ
% (tỉ số)
Tuổi 46 (15-80)
Thời gian điều trị imatinib (tháng) 46 (4-106)
Thất bại Imatinib
Kháng nguyên phát:
Không đạt PCyR trong 6 tháng
Không đạt CCyR trong 12 tháng
85,5% (96/110)
85,6% (107/125)
Kháng thứ phát 76,9% (10/13)
Bất dung nạp với imatinib 0,8% (1/127)
Đáp ứng với Nilotinib
Thời gian điều trị Nilotinib trung bình là 18
tháng. Sau thời gian theo dõi từ 1 đến 53 tháng
sau dùng Nilotinib, có 31 bệnh nhân đạt MR4
(24,4%), 12 bệnh nhân mất đáp ứng di truyền tế
bào hay sinh học phân tử đã đạt trước đó (9,5%).
Tại thời điểm tháng thứ 3 sau điều trị Nilotinib,
tỉ lệ bệnh nhân đạt PCyR là 4,3% (3/69). Ở tháng
thứ 6 sau điều trị Nilotinib, có 12% bệnh nhân
đạt CCyR (11/92). Tỉ lệ bệnh nhân đạt MMR là
18,8% (19/101) ở tháng thứ 12 và đạt MR4 là 15%
(19/127) ở tháng thứ 18 sau điều trị Nilotinib.
Bảng 2: Khả năng đáp ứng sau điều trị nilotinib
Mức đáp ứng Tỉ lệ% Thời gian
trung vị (tháng)
Thời gian dùng nilotinib 18 (1-53)
Đáp ứng di truyền tế bào phần
nhỏ
13,5 (5/37) 6 (6-12)
PCyR 49,3 (34/69) 6 (3-21)
CCyR 39,1 (36/92) 12 (3-27)
MMR 33,7(34/101) 12 (4-35)
MR
4
24,4(31/127) 12 (3-38)
Mất đáp ứng 9,5 (12/126) 21,5 (13-27)
Khi so sánh mức độ đáp ứng MMR sau điều
trị Nilotinib ở nhóm bệnh nhân từng đạt hay
không đạt đáp ứng tối ưu khi dùng Imatinib,
chúng tôi nhận thấy nhóm từng đạt đáp ứng tối
ưu khi dùng Imatinib có khuynh hướng đạt
MMR sớm hơn so với nhóm còn lại (p = 0,146).
Hình 3: Biểu đồ Kaplan-Meier về thời gian từ khi
dùng Nilotinib đến khi đạt MMR ở 2 nhóm đạt và
không đạt đáp ứng tối ưu khi dùng Imatinib [Log
rank (Mantel-Cox) p=0,146].
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
149
Trong khi đó, thời gian đáp ứng MR4 sau
điều trị Nilotinib không khác biệt ý nghĩa thống
kê giữa 2 nhóm bệnh nhân từng đạt và không
đạt đáp ứng tối ưu khi dùng Imatinib.
THỜI GIAN MR4
Hình 4: Biểu đồ Kaplan-Meier về thời gian từ khi
dùng Nilitinib đến khi đạt MR4 ở 2 nhóm đạt và
không đạt đáp ứng tối ưu khi dùng Imatinib [Log
rank (Mantel-Cox) p=0,295].
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhân
Các bệnh nhân trong nghiên cứu được điều
trị imatinib với thời gian trung vị là 46 tháng,
dao động từ 4 - 106 tháng tương đương nghiên
cứu của Cồ Nguyễn Phương Dung (8 - 108
tháng)(4), dài hơn so với thời gian dùng imatinib
trong nghiên cứu của Jorge Cortes là 32 tháng (2
- 70 tháng)(3) và nghiên cứu của FJ Giles là 32
tháng (1 - 94 tháng)(6). Điều này có thể giải thích
bởi phần lớn các bệnh nhân phát hiện kháng
nguyên phát với Imatinib vẫn điều trị tiếp
Imatinib với liều 400 mg/ngày hoặc tăng liều 600
mg hay 800 mg/ngày trong một thời gian rồi mới
chuyển sang Nilotinib do điều kiện kinh tế.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 126/127
bệnh nhân kháng Imatinib (99,2%) và 1 bệnh
nhân bất dung nạp Imatinib, gần tương đồng
với nghiên cứu của Jorge Cortes (96% và 4%)(3),
khác biệt so với nghiên cứu của Kantarjian
(69,3% và 30,7%)(9). Khác biệt này có thể do khác
nhau về chủng tộc, cơ địa bệnh nhân trong khả
năng dung nạp thuốc. Vì tỉ lệ bệnh nhân bất
dung nạp Imatinib chiếm tỉ lệ rất thấp trong
nghiên cứu, chúng tôi sẽ so sánh hiệu quả điều
trị Nilotinib ở nghiên cứu này với khả năng đáp
ứng điều trị Nilotinib ở nhóm bệnh nhân kháng
Imatinib ở các nghiên cứu khác.
Đáp ứng với Nilotinib
Tỉ lệ bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi
đạt PCyR là 49,3% và CCyR là 39,1% cao hơn
nghiên cứu của Hazarika với PCyR là 12% và
CCyR là 28%(7) cũng như nghiên cứu của Jorge
Cortes với CCyR là 15%(3). Sự khác biệt này do
thời gian điều trị Nilotinib và theo dõi của chúng
tôi dài hơn (18 tháng so với 8,7 tháng và 17
tháng) và các bệnh nhân được chọn vào nghiên
cứu của chúng tôi đều không có đột biến kháng
thuốc hoặc có đột biến còn nhạy với nilotinib
(như M244V, L248V, G250E, Q252H, E275K,
D276G, V299L, T315A, F317L, M351T, E355A/G,
L387F, F486S). Tương tự, nghiên cứu của chúng
tôi có tỉ lệ đáp ứng di truyền tế bào phần nhỏ
(mCyR), PCyR và CCyR lần lượt là 13,5%, 49,3%,
39,1% cao khi so với nghiên cứu của Kantarjian
là 8%, 19%, 30% vì quần thể nghiên cứu này bao
gồm các đột biến kém nhạy và kháng nilotinib
như F359V, Y253H, E255K/V, T315I(9). Tuy nhiên,
tỉ lệ CCyR ở nghiên cứu chúng tôi thấp hơn
nghiên cứu của FJ Giles là 45%(6), có thể giải thích
do thời gian dùng imatinib trong nghiên cứu của
chúng tôi dài hơn, từ đó có thể ảnh hưởng đến
khả năng đáp ứng khi chuyển sang Nilotinib.
Tại thời điểm 6 tháng, chúng tôi ghi nhận có 12%
bệnh nhân đạt CCyR, thấp hơn nghiên cứu của
Cồ Nguyễn Phương Dung (24%)(4) nghĩ do khác
biệt về cỡ mẫu nghiên cứu (127 bệnh nhân so với
21 bệnh nhân).
Chúng tôi nhận thấy có 33,7 % bệnh nhân
đạt MMR và 24,4 % đạt MR4, thấp hơn so với
nghiên cứu của Larson với tỉ lệ lần lượt là 70%
và 44%(10), điều này là do Larson điều trị
Nilotinib trên bệnh nhân bạch cầu mạn dòng tủy
mới chẩn đoán, chưa từng điều trị với thuốc ức
chế Tyrosine kinase trước đó. Đến thời điểm
hiện tại, chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu về
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
150
đáp ứng sinh học phân tử ở bệnh nhân điều trị
Nilotinib có đề kháng hay bất dung nạp
Imatinib.
KẾT LUẬN
Nilotinib mang đến kết quả khả quan cho
bệnh nhân kháng hoặc bất dung nạp Imatinib. Tỉ
lệ bệnh nhân đạt đáp ứng CCyR, MMR, MR4 lần
lượt là 39,1%, 33,7% và 24,4%. Tuy nhiên, có
9,5% bệnh nhân mất các mức đáp ứng đã đạt
được trước đó dù vẫn đang duy trì việc điều trị
với Nilotinib, do đó cần tiếp tục theo dõi định kỳ
sau đáp ứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baccarani M et al (2013). European Leukemia Net
recommendations for the management of chronic myeloid
leukemia: Blood, 122:872-884.
2. Blay JY and von Mehren M (2011). Nilotinib: A Novel,
Selective Tyrosine Kinase Inhibitor. Seminars in Oncology. 38: p.
S3-S9.
3. Cortes J et al (2007), Dynamics of BCR-ABL kinase domain
mutations in chronic myeloid leukemia after sequential
treatment with multiple tyrosine kinase inhibitors. Blood,
110(12): p. 4005.
4. Cồ Nguyễn Phương Dung, N.T.M.H., Phù Chí Dũng (2015),
Đánh giá hiệu quả bước đầu của Nilotinib trong điều trị bệnh
bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn kháng hoặc không
dung nạp Imatinib. Y học TP. Hồ Chí Minh, (19): p. 204-210.
5. Deininger M et al (2009). International Randomized Study of
Interferon Vs STI571 (IRIS) 8-Year Follow up: Sustained
Survival and Low Risk for Progression or Events in Patients
with Newly Diagnosed Chronic Myeloid Leukemia in Chronic
Phase (CML-CP) Treated with Imatinib. Blood. 114(22): p. 1126.
6. Giles FJ et al (2012), Nilotinib in imatinib-resistant or imatinib-
intolerant patients with chronic myeloid leukemia in chronic
phase: 48-month follow-up results of a phase II study.
Leukemia. 27: p. 107.
7. Hazarika M et al (2008), Tasigna for Chronic and Accelerated
Phase Philadelphia Chromosome–Positive Chronic
Myelogenous Leukemia Resistant to or Intolerant of Imatinib.
Clinical Cancer Research. 14(17): p. 5325.
8. Hughes T et al (2009). Impact of Baseline BCR-ABL Mutations
on Response to Nilotinib in Patients With Chronic Myeloid
Leukemia in Chronic Phase. Journal of Clinical Oncology. 27(25):
p. 4204-4210.
9. Kantarjian HM et al (2007). Nilotinib (formerly AMN107), a
highly selective BCR-ABL tyrosine kinase inhibitor, is effective
in patients with Philadelphia chromosome–positive chronic
myelogenous leukemia in chronic phase following imatinib
resistance and intolerance. Blood. 110(10): p. 3540.
10. Larson RA et al (2012). Nilotinib vs imatinib in patients with
newly diagnosed Philadelphia chromosome-positive chronic
myeloid leukemia in chronic phase: ENESTnd 3-year follow-
up. Leukemia. 26: p. 2197.
11. O'brien SG et al (2003). Imatinib compared with interferon and
low-dose cytarabine for newly diagnosed chronic-phase
chronic myeloid leukemia. New England Journal of Medicine.
348(11): p. 994-1004.
Ngày nhận bài báo: 10/08/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dap_ung_sinh_hoc_phan_tu_o_benh_nhan_bach_cau_man_dong_tuy_g.pdf