Tài liệu Đào tạo nghề nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ - Tạo sinh kế cho nông dân tỉnh Kiên Giang trong điều kiện biến đổi khí hậu: 27
Đào tạo nghề nuôi trồng ...
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã làm cho tỉnh
Kiên Giang bị ngập mặn, nhiễm mặn ở nhiều
khu vực, diện tích các loại cây trồng vật
nuôi nước ngọt bị thu hẹp, đe dọa đời sống
của người dân nông thôn, nhất là các nơi có
nhiều hộ nghèo như vùng U Minh Thượng,
vùng tứ giác Long Xuyên. Trước tình hình đó,
đòi hỏi phải chủ động ứng phó tạo sinh kế
mới cho người dân đồng thời khai thác thế
mạnh thủy sản của nước ta bằng hoạt động
đào tạo nghề nuôi trồng thủy sản nước mặn,
nước lợ. Thực hiện nghiên cứu này, tác giả
đã sử dụng phương pháp thống kê mô tả,
phân tích trên cơ sở dữ liệu thứ cấp; khảo sát
người lao động nông thôn ở những vùng bị
ngập mặn, nhiễm mặn.
Từ khóa: Đào tạo nghề, Nước mặn nước
lợ, Sinh kế, Biến đổi khí hậu
ĐÀO TẠO NGHỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN NƯỚC MẶN,
NƯỚC LỢ - TẠO SINH KẾ CHO NÔNG DÂN TỈNH KIÊN GIANG
TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Vòng Thình Nam*
* Tiến sĩ, Giảng viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo nghề nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ - Tạo sinh kế cho nông dân tỉnh Kiên Giang trong điều kiện biến đổi khí hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
27
Đào tạo nghề nuôi trồng ...
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã làm cho tỉnh
Kiên Giang bị ngập mặn, nhiễm mặn ở nhiều
khu vực, diện tích các loại cây trồng vật
nuôi nước ngọt bị thu hẹp, đe dọa đời sống
của người dân nông thôn, nhất là các nơi có
nhiều hộ nghèo như vùng U Minh Thượng,
vùng tứ giác Long Xuyên. Trước tình hình đó,
đòi hỏi phải chủ động ứng phó tạo sinh kế
mới cho người dân đồng thời khai thác thế
mạnh thủy sản của nước ta bằng hoạt động
đào tạo nghề nuôi trồng thủy sản nước mặn,
nước lợ. Thực hiện nghiên cứu này, tác giả
đã sử dụng phương pháp thống kê mô tả,
phân tích trên cơ sở dữ liệu thứ cấp; khảo sát
người lao động nông thôn ở những vùng bị
ngập mặn, nhiễm mặn.
Từ khóa: Đào tạo nghề, Nước mặn nước
lợ, Sinh kế, Biến đổi khí hậu
ĐÀO TẠO NGHỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN NƯỚC MẶN,
NƯỚC LỢ - TẠO SINH KẾ CHO NÔNG DÂN TỈNH KIÊN GIANG
TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Vòng Thình Nam*
* Tiến sĩ, Giảng viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật TP.HCM
TRAINING OF AQUACULTURE AND WATERFISH AQUACULTURE TRAINING
FOR KIEN GIANG PROVINCIAL FARMERS
IN CLIMATE CHANGE CONDITIONS
ABSTRACT
Climate change has caused KienGiang
province to be submerged in salt water,
salinity intrusion in many areas, the area
of crops and animals freshwater has been
shrunk, threatening the lives of rural people.
Especially, there are many poor households
such as U Minh Thuong, Long Xuyen
quadrangle. In that situation, it is necessary
to take action in responding for people life
while exploiting the strength of our country’s
aquaculture with marine and brackish water
aquaculture. In this research, the author used
the described statistical method, analyzed it
on the basic of a secondary database; Survey
of rural workers in salt-marsh areas.
Key words: Vocational training,
brackish water, livelihoods, climate change
1. DẪN NHẬP
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nước ta, nhất là các tỉnh ven biển
đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có Kiên
Giang. Diện tích đất bị ngập mặn, nhiễm
mặn ngày càng nhiều, ảnh hưởng đến cây
28
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trồng, vật nuôi, đe dọa sinh kế của người
dân. Để tạo sinh kế cho người dân ở nông
thôn trong điều kiện ngập mặn, nhiễm mặn,
cần phải chủ động chuyển đổi cây trồng, vật
nuôi nước mặn, nước lợ, đồng thời phát triển
nghề nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước
lợ (NTTSNMNL) tại các địa phương bị ảnh
hưởng nặng, nhất là vùng U Minh Thượng (có
diện tích rộng lớn bao gồm 4 huyện: An Biên,
An Minh, Vĩnh Thuận và U Minh Thượng).
Nghề NTTSNMNL đã được người dân khai
thác từ lâu nhưng còn mang nặng tính truyền
thống, mới dừng lại ở hình thức truyền nghề,
học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, chưa được tổ
chức đào tạo nghề có tính chuyên nghiệp cao
nên không phát triển mạnh và chưa hiệu quả.
Vì vậy, để phát triển nghề NTTSNMNL, cần
phải tổ chức đào tạo bài bản, chuyên nghiệp,
các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều
kiện thổ nhưỡng của từng địa phương, có khả
nĕng ứng dụng khoa học kỹ thuật cao nhằm
tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, có giá
trị, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước
và xuất khẩu. Xác định đây là một sinh kế
mới trong điều kiện BĐKH, đồng thời chủ
động khai thác tiềm nĕng, thế mạnh của Kiên
Giang để phát triển kinh tế xã hội.
Ở phía biển Tây, nước mặn ảnh hưởng
đến tỉnh Kiên Giang thông qua các sông
chính như: sông Cái Lớn, Cái Bé, Giang
Thành, Rạch Giá, Rạch Sỏi, sau đó theo hệ
thống kênh đào và mương, lạch vào sâu nội
đồng. Độ mặn trên sông rạch cao nhất vào
các tháng mùa khô, đặc biệt là vào tháng 3,
4 hàng nĕm. Thời gian ngập mặn thường kéo
dài trên dưới 3 tháng. Vào mùa mưa, độ mặn
trên các sông rạch có xu hướng giảm.
Bảng 1: BĐKH làm tĕng độ mặn ở các vùng ven biển tỉnh Kiên Giang
Stt Trạm Sông rạch
Khoảng
cách từ
biển (km)
Độ mặn
lớn nhất
tháng 1
(g/l)
So sánh tĕng (+)/giảm (-)
với cùng kỳ nĕm 2015
2016 2015
1 Xẻo Rô Cái Lớn 10 15,8 11,0 + 4,8
2 Gò Quao Cái Lớn 40 5,2 3,0 + 2,2
Nguồn: Trần Bá Hoằng, Viện Khoa học thủy lợi Miềm Nam [4]
2. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ -
XÃ HỘI TỈNH KIÊN GIANG
2.1. Đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Kiên Giang có diện tích tự nhiên là
6.348,53 km2, bằng 1,9% diện tích cả nước.
Phía Đông Bắc giáp tỉnh An Giang, Cần Thơ
và Hậu Giang; phía Nam giáp tỉnh Cà Mau
và Bạc Liêu; phía Tây giáp Vịnh Thái Lan;
phía Bắc giáp Campuchia có đường biên giới
dài 56,8km, với hơn 200 km bờ biển và 105
hòn đảo nổi lớn nhỏ. Dân số nĕm 2015 là
1.762.281 người, phân bố không đều, thường
tập trung ở ven trục lộ giao thông, kênh rạch,
sông ngòi và ở một số đảo lớn [1]. Địa bàn
tỉnh Kiên Giang được chia thành 4 vùng kinh
tế: Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu, U
29
Đào tạo nghề nuôi trồng ...
Minh Thượng và vùng Đảo và hải đảo. Trong
đó, vùng U Minh Thượng là vùng sâu, vùng
xa, có nhiều khó khĕn và nhiều hộ nghèo
nhất tỉnh. Vùng U Minh Thượng có diện tích
tự nhiên khoảng 1.879,4 km2, chiếm 29,6%
diện tích toàn tỉnh, được giới hạn bởi sông
Cái Lớn và ranh giới tỉnh Cà Mau. Đây là
vùng vừa nhiễm mặn vừa nhiễm phèn, mưa
nhiều hay bị úng và bị hạn vào mùa khô. Khu
vực này gồm các huyện An Biên, An Minh,
Vĩnh Thuận và U Minh Thượng. Có thể chia
vùng U Minh Thượng thành các tiểu vùng
NTTS như sau:
- Vùng nuôi tôm nước mặn và tôm
nước lợ
- Vùng nuôi thủy sản nước ngọt
- Vùng nuôi cá dưới tán rừng tràm
Các vùng này được bố trí theo những khu
vực có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp.
2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
Theo vĕn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên
Giang lần thứ IX, qua 5 nĕm thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội (từ 2010 -
2015), tốc độ tĕng trưởng kinh tế (GDP)
bình quân đạt 10,35%/nĕm, thu nhập bình
quân đầu người nĕm 2015 đạt 2.515 USD,
gấp 2 lần so với nĕm 2010. Cơ cấu kinh tế
với nhóm ngành Nông - lâm - thủy sản chiếm
tỷ trọng cao: từ 42,57% nĕm 2010 giảm còn
35,14% nĕm 2015; Dịch vụ tĕng từ 33,04%
lên 40,44%; Công nghiệp – xây dựng giữ ở
mức 24,42%. Lĩnh vực nông – lâm – thủy
sản duy trì mức tĕng trưởng khá, bình quân
5,75%/nĕm và giữ vai trò quyết định đối với
tốc độ tĕng trưởng của tỉnh.[1]
Kinh tế biển có bước phát triển khá toàn
diện, góp phần quan trọng vào kinh tế của
tỉnh, tốc độ tĕng trưởng đạt 11,4%/nĕm,
tỷ trọng kinh tế biển chiếm 75,6% GDP
của tỉnh. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu quan
trọng như nuôi tôm công nghiệp, kim ngạch
xuất khẩu, xây dựng nông thôn mới đạt
thấp. Đời sống một bộ phận nhân dân còn
nhiều khó khĕn; chất lượng nguồn nhân lực
chuyển biến chưa nhiều; hạn chế, yếu kém ở
lĩnh vực khoa học và công nghệ, vĕn hóa, y
tế, giáo dục, bảo vệ môi trường chậm khắc
phục.[1]
3. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGHỀ
NTTSNMNL TẠI TỈNH KIÊN GIANG
3.1. Khái quát hoạt động đào tạo nghề
NTTSNMNL
3.1.1. Các cơ sở có tham gia đào tạo
nghề NTTSNMNL
Hiện nay, ở Kiên Giang, có trường đại
học mới được thành lập và các trường đại học
nơi khác đến liên kết đào tạo như: Đại học
Nha Trang, Đại học Huế nhưng chỉ đào tạo
nhân lực trình độ cao. Để đáp ứng nhu cầu
đào tạo nghề cho người lao động, UBND tỉnh
Kiên Giang đã phê duyệt qui hoạch mạng
lưới các cơ sở đào tạo nghề trên toàn tỉnh,
trong đó có nhiều trường tham gia đào tạo
nghề NTTS nước mặn, nước lợ với các trình
độ: sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và cả các lớp
đào tạo nghề dưới 3 tháng cho nông dân để
giúp họ có thể thực hiện NTTS ngay sau khi
học. Hiện tại, hệ thống các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp của Kiên Giang gồm 31 cơ sở,
được phân bổ trên khắp địa bàn tỉnh, gồm các
trường: trường Cao đẳng, trường Trung cấp,
Trung tâm dạy nghề, Trung tâm Dịch vụ việc
làm, Trung tâm Khuyến nông, Hội Làm vườn,
Trung tâm Giáo dục thường xuyên. Trong số
đó có các trường được xem là chủ lực trong
hoạt động động đào tạo nghề NTTSNMNL
trên toàn tỉnh:
- Trường Cao đẳng nghề Kiên Giang tọa
30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
lạc tại thành phố Rạch Giá là trường có qui
mô lớn nhất tại Kiên Giang, với tổng diện tích
562.962 m2. Tổng số cán bộ quản lý và giáo
viên của nhà trường là 130 người, với tổng
quy mô tuyển sinh được cấp phép cho tất cả
ngành nghề và các trình độ đào tạo là 2.550
học sinh/nĕm, trong đó nghề NTTSNMNL là
55 học sinh/nĕm.
- Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Kiên Giang là trường có bề dày trong công
tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát
triển của tỉnh, trường được xây dựng và
thành lập từ nĕm 1965, với đội ngũ cán bộ
quản lý và giáo viên là 208 người, tổng quy
mô tuyển sinh được cấp phép là 6.450 học
sinh/nĕm.
- Trường Trung cấp nghề Dân tộc Nội trú
tỉnh Kiên Giang tọa lạc tại ấp Xẻo Chác, xã
Long Thạnh, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên
Giang. Đây là trường đặc thù, đào tạo nghề
cho con, em đồng bào dân tộc thiểu số trên
địa bàn tỉnh, số luợng học sinh người dân
tộc thiểu số tuyển sinh hàng nĕm chiếm 80%
trong tổng số học sinh được tuyển. Quy mô
đào tạo hàng nĕm của trường là 1.350 học
sinh/nĕm, trong đó trình độ trung cấp nghề
NTTSNMNL là 60 học sinh/nĕm.
- Trường Trung cấp nghề Vùng U Minh
Thượng, là một trường nằm ở trung tâm của
huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang. Địa
bàn tuyển sinh của nhà trường trong phạm vi
của 4 huyện (An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận
và U Minh Thượng). Trường có tổng số cán
bộ quản lý, giáo viên, nhân viên là 24 người.
Cơ cấu tổ chức gồm 4 phòng, 3 khoa chuyên
môn đào tạo các hệ: Trung cấp, sơ cấp, nghề
ngắn hạn dưới 3 tháng.[3]
- Trường Trung cấp nghề vùng Tứ Giác
Long Xuyên tọa lạc ấp Ba Núi, xã Bình An,
huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Tổng
quy mô tuyển sinh của nhà trường 1.480 học
sinh/nĕm. Điểm nổi bật của trường là đào
tạo theo đơn đặt hàng của các nhà máy và
DN trên địa bàn 4 huyện; đào tạo tại các xã
đảo thuộc huyện Kiên Hải và Phú Quốc; đào
tạo cho huyện Giang Thành, thị xã Hà Tiên.
Ngoài ra, còn có các trung tâm khác cũng
tham gia đào tạo nghề NTTSNMNL như:
TTGDTX huyện An Minh, TTDN và hỗ trợ
nông dân, TT Dạy nghề Thanh niên, Trung
tâm Khuyến nông, Hội Làm Vườn nhưng qui
mô còn nhỏ.
Từ chủ trương đẩy mạnh hoạt động
đào tạo nghề NTTSNMNL, đến nay nhiều
hộ nông dân đã biết thêm một nghề mới để
tạo sinh kế ngay chính mảnh đất ngập mặn,
nhiễm mặn của mình và nhiều mảnh đất bị bỏ
hoang nay cũng được cải tạo để nuôi trồng,
người dân có thu nhập để trang trải cho cuộc
sống ấm no và nhiều hộ còn làm giàu. Nếu
nhìn rộng hơn dưới góc độ xã hội, thì những
hộ nông dân tuy nhỏ, nhưng chính họ đã sản
xuất tạo ra sản phẩm để cung cấp cho xã hội,
góp phần phát triển kinh tế xã hội tỉnh Kiên
Giang. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng, hoạt động đào tạo
nghề NTTSNMNL có ý nghĩa quan trọng,
không chỉ dừng lại ở mục đích tạo sinh kế
cho nông dân mà còn phát triển ngành thủy
sản, khai thác lợi thế của Kiên Giang.
3.1.2. Nĕng lực đào tạo nghề NTTSNMNL
của các trường trên toàn tỉnh
* Mạng lưới các trường đào tạo nghề
NTTSNMNL trên địa bàn
Số lượng các trường có tham gia đào
tạo nghề trên toàn tỉnh Kiên Giang hiện nay
là 10 cơ sở đào tạo. Số học viên học nghề
NTTSNMNL hàng nĕm do các trường đào
tạo trung bình trên 1000 người/nĕm (bảng 2).
31
Đào tạo nghề nuôi trồng ...
Từ đó cho thấy khả nĕng đào tạo của
các trường đào tạo nghề NTTSNMNL ở tỉnh
Kiên Giang là rất lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ tính
riêng hai trường Trung cấp nghề vùng Tứ
Giác Long Xuyên và Trung cấp nghề vùng U
Minh Thượng thì khả nĕng đào tạo còn quá
khiêm tốn so với nhu cầu nhân lực nghề của
2 địa phương này.
Bên cạnh việc qui hoạch mạng lưới các
trường đào tạo nghề, nhiều vấn đề khác như:
đội ngũ giáo viên, chương trình đào tạo, nội
dung đào tạo luôn cần được quan tâm cập
nhật, đổi mới theo hướng tiên tiến, hiện đại
để người học luôn tiếp cận được với kiến
thức mới để áp dụng vào thực tiễn có hiệu
quả hơn, đồng thời nuôi trồng, sản xuất sản
phẩm có chất lượng tốt hơn, đáp ứng nhu cầu
của thị trường.
* Đội ngũ giáo viên của các trường có
tham gia đào tạo nghề NTTSNMNL
Theo số liệu của Sở Lao động – TB&XH
tỉnh Kiên Giang, tổng số giảng viên, giáo
viên và cán bộ quản lý của các trường có
tham gia đào tạo nghề NTTSNMNL tại Kiên
Giang hiện nay là 666 người, họ có chuyên
môn nghiệp vụ phù hợp với các ngành đào
tạo NTTSNMNL. Trình độ của đội ngũ giáo
viên: sau đại học 16,82% (112/666), đại học
66,21% (441/666), trình độ khác 16,97%
(113/666). Với thực trạng trình độ này cho
thấy lực lượng giáo viên có mặt bằng trình độ
tương đối cao, đại học chiếm đa số.
Như vậy, với trình độ của lực lượng giáo
viên của các trường hiện nay đa số có khả
nĕng giảng dạy tốt, có thể đảm đương công
việc giảng dạy trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Tuy nhiên, đối với trường trung cấp nghề
vùng Tứ giác Long Xuyên và trường trung
cấp nghề vùng U Minh Thượng thì lực lượng
giáo viên còn quá ít (23-24 người) và trình độ
thấp hơn mặt bằng chung của cả mạng lưới
trong tỉnh. Với lực lượng này, khó có thể đảm
được được công tác đào tạo cho cả hai vùng
có diện tích rộng lớn: Tứ giác Long Xuyên
và U Minh Thượng. Hơn nữa, với lực lượng
Bảng 2: Số lượng người học nghề NTTSNMNL tại các trường ở Kiên Giang
TT CƠ SỞ ĐÀO TẠO 2012 2013 2014 2015 2016 Tổng cộng
1 Trường CĐ nghề KG 81 54 135
2 Trường CĐ Kinh tế- Kỹ thuật 33 25 58 93 34 243
3 Trường TCN DTNT 187 337 530 126 76 1.256
4 Trường TCN vùng Tứ giác Long Xuyên 224 52 127 67 93 563
5 Trường TCN vùng U Minh Thượng 125 173 201 261 125 885
6 TTGDTX H. An Minh 152 61 82 29 90 414
7 TTDN và hỗ trợ nông dân 0 553 356 298 209 1,416
8 TTDN Thanh Niên 218 102 48 53 140 561
9 Trung tâm Khuyến nông 132 191 246 289 165 1,023
10 Hội Làm Vườn 64 127 63 52 56 362
Tổng cộng: 1.216 1.675 1.711 1.268 988 6.858
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo hàng nĕm của Sở lao động – TB&XH Kiên Giang
32
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
ít người và công việc giảng dạy nhiều, giáo
viên không có điều kiện và thời gian để bồi
dưỡng, trau dồi, nâng cao trình độ, kiến thức
chuyên môn phục vụ cho yêu cầu giảng dạy
cao hơn.
Bảng 3: Trình độ giáo viên các trường đào tạo nghề NTTSNMNL Kiên Giang
TT Tên cơ sở GV và CBQL
Trình độ
Tiến
sĩ
Thạc
sĩ
Cử
nhân /
Kỹ sư
Cao
đẳng
Trung
cấp Khác
1 Trường CĐN Kiên Giang 130 18 94 2 3 13
2 Trường CĐ Kinh tế- Kỹ thuật 208 4 74 111 3 10 6
3 Trường TCN Dân tộc nội trú 38 4 33 1
4 Trường TCN vùng Tứ giác Long Xuyên 23 2 21
5 Trường TCN vùng U Minh Thượng 24 1 23
6 TTGDTX huyện An Minh 16 14 1 1
7 TTDN và hỗ trợ nông dân 49 3 28 13 2 3
8 TT Dạy nghề Thanh niên 17 14 2 1
9 Trung tâm Khuyến nông 150 6 96 10 25 9
10 Hội Làm Vườn 11 7 4
Tổng cộng: 666 4 108 441 40 41 32
Nguồn: Tác giả tổng hợp các báo cáo của Sở Lao động – TB&XH tỉnh Kiên Giang
* Chương trình đào tạo NTTSNMNL của các trường
Đến nay, các trường đào tạo nghề
NTTSNMNL trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã
đào tạo gồm 16 chương trình đào tạo (CTĐT).
Với số lượng này cho thấy CTĐT của các
trường tương đối phong phú, đa dạng. Tuy
nhiên, CTĐT còn có sự trùng lắp và mang
tính phổ biến cao, chưa có nhiều CTĐT nuôi
trồng các loài mới mang lại giá trị kinh tế cao
cho người học, đồng thời chưa có các CTĐT
dựa trên kỹ thuật NTTS tiên tiến hiện đại. Vì
vậy, chưa thu hút được nhiều người học mà
thậm chí số người học còn bị sụt giảm trong
các nĕm gần đây.
Hiện nay, ở nhiều địa phương khác trên cả
nước đã nuôi những loài mới như: Le le, vịt
biển đại xuyên chi phí thấp, giá trị thu được
rất cao; hoặc các loài khác phù hợp với thổ
nhưỡng của điều kiện của một số địa phương
như: nghêu, sò, trồng các loại rong biển, tảo
biển có giá trị kinh tế cao.
* Số lượng người học nghề NTTSNMNL
tại các trường trong những nĕm qua
Số người học nghề NTTS trong những
nĕm trước đây rất lớn. Tuy nhiên, 03 nĕm
gần đây, số lượng người học sụt giảm nghiêm
trọng, trên toàn tỉnh giảm từ 1.7111 người
nĕm 2014 xuống còn 988 người nĕm 2016
(bảng 2). Sự giảm sút nghiêm trọng này có
33
Đào tạo nghề nuôi trồng ...
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
là do CTĐT của các trường chưa thu hút
người học, có tới 45% (27/60) người được
hỏi thích học nuôi trồng những loài mang lại
giá trị kinh tế cao. Mặt khác, hoạt động đào
tạo chưa gắn với hoạt động thực tế tại các
doanh nghiệp (DN) và chưa được thực hiện
nhiều tại các ao hồ nuôi trồng thực nghiệm để
tĕng tính thực tiễn, tĕng tính tích cực học tập
nơi người học. Vì vậy, mức độ thu hút người
học thấp. Người học không thấy được sự
khác biệt giữa đến trường học nghề và truyền
nghề. Qua đó cho thấy, mức độ đáp ứng của
các trường về nhu cầu học nghề NTTSNMNL
chưa cao.
3.2. Đánh giá thực trạng đào tạo nghề
NTTSNMNL tại tỉnh Kiên Giang
Thực hiện chủ trương của nhà nước về
xóa đói giảm nghèo, tạo sinh kế cho người
dân nông thôn trong điều kiện BĐKH, các
trường đào tạo nghề đã có những nỗ lực trong
đào tạo nghề NTTSNMNL trong những nĕm
vừa qua, từ đó cũng đã gặt hái được nhiều
thành quả rất đáng khích lệ.
3.2.1. Những thành quả đạt được
* Tạo sinh kế cho người dân nông thôn
trong điều kiện BĐKH
Trong những nĕm qua các trường đào tạo
nghề đã có nhiều nỗ lực trong các hoạt động
đào tạo. Từ đó đã tạo sinh kế cho người dân
nông thôn, tạo thêm việc làm cho người lao
động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, mang lại thu
nhập cho nhiều hộ gia đình nên số hộ nghèo
đã giảm đáng kể. Nhiều diện tích đất được
khai thác hiệu quả hơn trước. Thậm chí có
những mảnh ruộng trước đây bị nhiễm mặn
phải bỏ hoang, nay lại có được đưa vào sử
dụng, cải tạo thành ao nuôi trồng mang lại giá
trị kinh tế cao.
* Góp phần tĕng trưởng kinh tế của tỉnh
Kiên Giang ở mức cao
Đào tạo nghề tạo sinh kế cho người dân,
giúp họ ổn định cuộc sống và đóng góp vào
tĕng trưởng kinh tế xã hội của tỉnh ở mức cao.
Tĕng trưởng GDP toàn tỉnh tĕng mỗi nĕm
trên 10% trong suốt giai đoạn 2010-2015.
Tình hình an ninh trật tự được cải thiện đáng
kể, bộ mặt kinh tế xã hội của tỉnh được thay
đổi từ thành thị đến nông thôn. Đáng chú ý
nhất là vùng U Minh Thượng bao gồm những
huyện vùng sâu, vùng xa có nhiều hộ nghèo
thời gian qua đã được cải thiện rất nhiều. Đến
nay, nhiều hộ dân đã thoát nghèo và có sinh
kế ổn định.
* Cải thiện một số chỉ số an sinh xã hội
Tình hình an sinh xã hội của tỉnh Kiên
Giang trong những nĕm gần đây được cải
thiện thông qua các chỉ số quan trọng:
- Giải quyết việc làm cho người lao động,
mỗi nĕm trên 30.000 lượt.[2]
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp từ 3,45% còn
2,44%.[2]
- Số hộ thoát nghèo bình quân mỗi nĕm
8.689 hộ trong giai đoạn 2010-2015.[2]
- Đào tạo nghề NTTSNMNL đã góp phần
giảm số hộ nghèo trên toàn tỉnh. Nhờ có
nghề NTTS mà người dân mạnh dạn làm ĕn,
cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống, thoát
nghèo và đã có một số hộ bắt đầu có tích lũy
để đầu tư lớn hơn. Đưa số hộ nghèo từ 34.973
hộ nĕm 2010 xuống còn 6.070 hộ nĕm 2015.
Tỷ lệ giảm bình quân trong cả giai đoạn là
16,53%/nĕm. Đây là thành tích rất đáng trân
trọng.[2]
34
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Phát triển đào tạo nghề NTTSNMNL
đã góp phần thay đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi theo hướng tạo ra giá trị kinh tế cao
hơn trước đây. Diện tích NTTSNMNL tĕng
mạnh qua các nĕm, diện tích nuôi trồng từ
120.527 ha nĕm 2010 tĕng lên 202.372 ha
nĕm 2015, tĕng bình quân 10,9%/nĕm. Song
song với việc tĕng diện tích nuôi trồng, sản
lượng cũng tĕng liên tục qua các nĕm. Tổng
sản lượng nĕm 2010 đạt 97.673 tấn, tĕng lên
183.423 tấn vào nĕm 2015, tĕng bình quân
13,4%/nĕm.
Bảng 4: Số hộ nghèo giảm qua các nĕm giai đoạn 2010 - 2015
Địa phương ĐVT 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Tỉnh Kiên Giang hộ 34.973 29.066 23.294 19.742 14.867 6.070
Vùng U Minh Thượng hộ 13.982 12.168 9.839 8.404 6.197 2.902
- Huyện An Biên hộ 4.253 4.317 3.448 3.013 1.716 1.106
- Huyện An Minh hộ 3.973 3.524 2.880 2.415 2.092 641
- Huyện U Minh Thượng hộ 2.570 2.143 1.863 1.566 1.315 539
- Huyện Vĩnh Thuận hộ 3.186 2.184 1.648 1.410 1.074 616
Nguồn: Kết quả điều tra hộ nghèo từng nĕm của Sở Lao động – TB&XH tỉnh Kiên Giang;
Báo cáo Tổng kết giai đoạn của ngành Lao động – TB&XH tỉnh Kiên Giang.
* Thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng có lợi
Bảng 5: Thực trạng phát triển NTTS của tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2010-2015
STT
Hạng
mục ĐVT
Giai đoạn 2010-2015 Tĕng
BQ
(%)
Nĕm
2010
Nĕm
2011
Nĕm
2012
Nĕm
2013
Nĕm
2014
Nĕm
2015
1
Diện
tích Ha 120.527 135.447 114.777 126.920 169.232 202.372 10,9
2 Sản lượng Tấn 97.673 109.558 127.033 143.986 173.080 183.423 13,4
Cá Tấn 46.071 44.046 47.371 55.114 66.268 67.451 7,9
Tôm Tấn 34.765 39.968 40.292 41.978 51.430 52.210 8,5
Thủy
sản
khác
Tấn 16.837 25.544 39.370 46.894 55.382 63.762 30,5
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang nĕm 2015
Đào tạo nghề NTTS đã góp phần khai
thác tiềm nĕng, lợi thế nguồn lực con người
và lợi thế so sánh ngành thủy sản của đất
nước. Sau học nghề người dân đã biết ứng
dụng khoa học kỹ thuật để tĕng nĕng suất,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động, ứng phó với BĐKH đồng thời khai
thác tiềm nĕng của tỉnh Kiên Giang.
35
Đào tạo nghề nuôi trồng ...
3.2.2. Những vấn đề tồn tại
Bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt
động đào tạo nghề NTTSNMNL tại tỉnh Kiên
Giang cũng tồn tại nhiều vấn đề cần có giải
pháp khắc phục:
- Qua phân tích ở trên, cho thấy mạng
lưới đào tạo nghề của các trường tại tỉnh Kiên
Giang tương đối lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ tính
riêng đào tạo nghề NTTS nước, nước lợ thì
qui mô của các trường còn quá nhỏ. Chẳng
hạn, trường trung cấp nghề vùng U Minh
Thượng hay trường trung cấp nghề Tứ giác
Long Xuyên, khả nĕng đào tạo không đáp
ứng đủ nhu cầu nhân sự của cả vùng chuyên
về NTTS.
- Chương trình đào tạo NTTSNMNL của
các trường nghề trên địa bàn đến nay tương
đối nhiều (16 nghề), riêng Trường trung cấp
nghề Vùng U Minh có 6 ngành nghề, nhưng
đa số các chương trình này đã có từ lâu, thiếu
cập nhật và đào tạo nuôi trồng những loài khá
phổ biến, chưa có những CTĐT nuôi trồng
những loài mới lạ, có giá trị kinh tế cao để
thu hút người học. Từ đó làm cho người nông
dân ít quan tâm đến học nghề mà nếu có cũng
chỉ truyền nghề mang tính gia đình.
- Chưa có sự gắn kết giữa đào tạo nghề
với hoạt động thực tế tại DN để nâng cao tính
học thuật trong giảng dạy, kích thích tính tích
cực nơi người học, để từ đó nâng cao chất
lượng đào tạo nghề NTTSNMNL.
- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
cho hoạt động đào tạo NTTS tại các trường
còn nhiều hạn chế. Phòng thí nghiệm, cơ sở
vật chất và thiết bị thực hành trong đào tạo
chưa có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
đồng thời chưa thu hút người học vì quá trình
đào tạo không có khác biệt nhiều với hoạt
động truyền nghề. Hàm lượng khoa học trong
hoạt động đào tạo không cao, không đáp ứng
được nhu cầu của người học.
- Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên
môn tương đối cao, đa số trẻ nhưng thiếu
kinh nghiệm, số lượng lại không nhiều, nhất
là tại trường trung cấp nghề vùng Tứ Giác
Long Xuyên và trường trung cấp nghề vùng
U Minh Thượng (chỉ có 23 - 24 giáo viên).
Số lượng giáo viên ít, công việc nhiều nên
họ không có điều kiện đi bồi dưỡng, tự trau
dồi kiến thức để nâng cao trình độ chuyên
môn, phục vụ công tác giảng dạy.
- Người dân nông thôn còn nặng tâm lý và
thói quen thích truyền nghề hơn là học nghề,
chưa thấy được lợi ích của việc áp dụng kiến
thức, khoa học kỹ thuật vào công việc nuôi
trồng để nâng cao hiệu quả.
4. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO
NGHỀ NTTSNMNL TẠI TỈNH KIÊN GIANG
Để góp phần thực hiện mục tiêu chung
của Chính phủ đề ra và các mục tiêu cụ thể
của UBND tỉnh Kiên Giang về đào tạo nghề;
Qua phân tích, đánh giá thực trạng đào tạo
nghề NTTSNMNL tại tỉnh Kiên Giang, tác
giả xin đề xuất một số giải pháp phát triển
đào tạo nghề NTTSNMNL như sau:
4.1. Đối với Nhà nước
- Xác định nhu cầu học nghề NTTSNMNL
trên địa bàn tỉnh. Để có cơ sở hoạch định đầu
tư cho hoạt động đào tạo nghề, cơ quan chức
nĕng cần xác định nhu cầu đào tạo hàng nĕm
để có cơ sở hoạch định chính xác, hiệu quả.
- Tiếp tục phát triển mạng lưới các
trường đào tạo nghề NTTSNMNL. Phát triển
thêm các trường đào tạo nghề NTTS theo
hướng ưu tiên cho những địa phương có nhu
cầu đào tạo cao, chẳng hạn như vùng U Minh
Thượng, vùng Tứ giác Long Xuyên nhằm tạo
36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
điều kiện thuận lợi cho người học, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
- Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất cho các
trường đào tạo nghề NTTS. Cần tĕng cường
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
cho hoạt động đào tạo như: Phòng thí nghiệm,
cơ sở vật chất và thiết bị thực hành trong đào
tạo, ao hồ thực nghiệm
- Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động đào tạo
nghề NTTSNMNL. Ngoài nguồn ngân sách
Trung ương chi đào tạo nghề cho LĐNT
theo các cơ chế, chính sách của quyết định
1956/QĐ-TTg, quyết định 971/QĐ-TTg,
quyết định 46/2015/QĐ-TTg, hàng nĕm,
UBND tỉnh cần bố trí bổ sung thêm kinh
phí đào tạo nghề, kinh phí bồi dưỡng nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp
từ nguồn ngân sách tỉnh để hỗ trợ các hoạt
động đào tạo nghề NTTSNMNL như: hỗ trợ
người học thuộc diện chính sách, diện khó
khĕn; hỗ trợ giáo viên, cán bộ quản lý vì
hoạt động đào tạo nghề NTTS được thực
hiện tại những nơi là vùng sâu, vùng xa có
rất nhiều khó khĕn.
- Tạo điều kiện nâng cao trình độ của
giáo viên. Nhà nước cần có chủ trương cho
phép nâng qui mô của trường, tĕng số lượng
nhân sự để giáo viên có thể thay nhau giảng
dạy, học tập nâng cao trình độ chuyên môn
nhằm phục vụ công tác đào tạo nghề tốt hơn.
4.2. Đối với Nhà trường
- Chú trọng xây dựng chương trình đào
tạo NTTSNMNL tiên tiến, hiện đại. Nội dung
chương trình đào tạo phải chuyển tải những
tiến bộ của KHKT, thường xuyên cập nhật,
có tính mới nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo nghề. Ngoài ra, các trường phải có nhiều
CTĐT nghề NTTSNMNL khác nhau để tạo
nên sự phong phú, giúp người học có thể chọn
lựa chương trình để học. Các CTĐT phải bao
gồm đào tạo nuôi trồng những loài khá phổ
biến và những loài mới có giá trị kinh tế cao
để thu hút người học.
- Nâng cao tính thực tế trong hoạt động
đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo ở tất
cả các hệ, Nhà trường chú trọng hơn đến các
hoạt động thực tế, tĕng thời lượng thực hành
ở các chương trình đào tạo, nhất là các hệ
đào tạo dưới 3 tháng, vì người học nghề thích
tiếp thu từ các hoạt động thực tế hơn các bài
giảng lý thuyết.
- Gắn kết đào tạo nghề NTTSNMNL với
hoạt động của DN. Các trường đào tạo nghề
phải có sự chủ động mời gọi để gắn kết hoạt
động đào tạo với hoạt động nuôi trồng của
DN. Qua đó, vừa tranh thủ sự hỗ trợ của DN
về cơ sở vật chất, vừa giúp người học tiếp
cận thực tế để nâng cao tính học thuật trong
giảng dạy, kích thích tính tích cực nơi người
học, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo nghề
NTTSNMNL.
- Hoàn thiện và phát triển đội ngũ giáo
viên. Tại các trường đào tạo nghề trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang hiện nay, có trường nhiều
giáo viên nhưng cũng có những trường như
trường trung cấp nghề vùng Tứ giác Long
Xuyên, trường trung cấp nghề vùng U Minh
Thượng giáo viên còn quá ít, trình độ nĕng
lực, chất lượng đội ngũ không đồng đều. Do
vậy, các trường phải có kế hoạch để không
ngừng hoàn thiện và phát triển đội ngũ giáo
viên có trình độ chuyên môn cao.
- Chú trọng các biện pháp nâng cao chất
lượng đào tạo. Tập trung xây dựng các CTĐT
mới có chất lượng, rà soát các CTĐT đã có,
cập nhật thông tin, kiến thức mới để có nội
dung tiên tiến, hiện đại đáp ứng chuẩn đầu
37
Đào tạo nghề nuôi trồng ...
ra của chương trình các cấp, các hệ đào tạo,
đảm bảo người học sau khi học xong có thể
làm việc được ngay, chất lượng tốt.
- Đổi mới công tác quản lý: (i) Đổi mới
phương thức dạy và học, lấy người học làm
trung tâm của quá trình đào tạo; (ii) Ứng
dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động
quản lý, hoạt động dạy và học trong các cơ
sở đào tạo; (iii) Áp dụng nhiều biện pháp để
tĕng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn
đốc, động viên cả người dạy lẫn người học
để đảm bảo thực hiện việc dạy và học có chất
lượng, có hiệu quả cao; (iv) Đa dạng hóa các
trình độ, các hệ đào tạo như: trình độ trung
cấp chính qui dài hạn, trung cấp vừa làm
vừa học (tại chức), ngắn hạn dưới 3 tháng,
đào tạo theo đơn đặt hàng của DN; (v) Tổ
chức tuyển sinh nhiều lần trong nĕm để tạo
sự thuận lợi cho người học.
4.3. Đối với địa phương
- Nâng cao nhận thức của xã hội về đào
tạo nghề. Đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều
hình thức, nhiều biện pháp về chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về đào tạo nghề, cụ thể là nghế NTTSNMNL
cho người dân nông thôn để họ thấy rõ lợi
ích của việc học nghề trong mối liên hệ với
đất đai, điều kiện tự nhiên của địa phương
họ đang sinh sống, giúp họ thấy rõ học nghề
NTTSNMNL gắn với giải quyết việc làm và
là sinh kế thiết thực giúp họ thay đổi và nâng
cao mức sống.
- Đẩy mạnh công tác tư vấn, hướng
nghiệp. Các địa phương cần chú trọng hơn
công tác phân luồng, hướng nghiệp học sinh
sau trung học cơ sở, trung học phổ thông để
các em thấy được sau khi học xong phổ thông
có nhiều con đường phát triển bản thân để
các em lựa chọn hướng đi tương lai.
4.4. Đối với người dân nông thôn liên
quan đến học nghề NTTSNMNL
- Thay đổi nhận thức về đào tạo nghề và
hình thức truyền nghề. Người dân nông thôn
cũng cần phải tự mình thay đổi nhận thức đối
với hoạt động đào tạo nghề. Phải tìm hiểu
để thấy được những lợi ích thật sự mà đào
tạo nghề NTTSNMNL mang lại so với hình
thức truyền nghề. Trong điều kiện xã hội phát
triển nhanh chóng như hiện nay, NTTS phải
làm theo nhau là được, mà phải áp dụng kiến
thức, khoa học kỹ thuật vào công việc nuôi
trồng để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao,
phù hợp với tiêu chuẩn thị trường, sản phẩm
có giá trị và dễ tiêu thụ, từ đó nâng cao hiệu
quả nuôi trồng.
- Thay đổi định kiến về nghề nghiệp tương
lai của con em. Đối với người dân nông thôn,
điều kiện tự nhiên có nhiều khó khĕn do ngập
mặn, nhiễm mặn nhưng đó cũng là lợi thế cho
việc NTTSNMNL so với nhiều nơi khác. Do
vậy, người dân nông thôn cần phải xóa bỏ
định kiến, thay đổi nhận thức về phát triển
nghề nghiệp để hướng con em mình chọn
nghề nghiệp tương lai đúng với nĕng lực bản
thân, đúng với những lợi thế mà gia đình
và địa phương đang có để phát triển tốt hơn
trong tương lai.
5. KẾT LUẬN
Trong điều kiện chịu ảnh hưởng của
BĐKH, nước biển dâng, ngập mặn, việc đào
tạo nguồn nhân lực NTTSNMNL là tất yếu.
Tuy nhiên, việc đào tạo phải có chiến lược
ngắn hạn, dài hạn sao cho phù hợp với các
điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng của từng địa
phương, phù hợp với nguồn lực thực hiện và
đặc biệt chú trọng đào tạo gắn với hoạt động
thực tế của doanh nghiệp để giúp người dân
ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế xã hội.
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, thủy sản là thế mạnh của nước ta.
Việc đào tạo nguồn nhân lực để NTTSNMNL
có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác lợi
thế của đất nước, nhằm nâng cao hiệu quả
phát triển kinh tế xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo 5 nĕm (2010-2015) về phát triển
kinh tế xã hội của UBND tỉnh Kiên Giang
[2]. Báo cáo của ngành Lao động – TB&XH
tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2010 – 2016
[3]. Báo cáo của Trường TCN vùng U Minh
Thượng
[4]. Trần Bá Hoằng, Dự báo xâm nhập mặn
tại các cửa sông vùng ven biển đồng bằng
sông Cửu Long và đề xuất các giải pháp
chống hạn, Viện Khoa học thủy lợi Miền
Nam, Báo cáo cuối tháng 01/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 47_389_2136177.pdf