Tài liệu Đào tạo nghề giải pháp quan trọng tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay - Vũ Thị Thanh Minh: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ngày nhận bài: 25/4/2017; Ngày phản biện: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 25/5/2017
(1) Học viện Dân tộc; e-mail: vuthanhminh@cema.gov.vn
Số 18 - Tháng 6 năm 2017
Ngay từ khi nước nhà được độc lập, trong
sách lược “diệt giặc đói và giặc dốt” cho đồng
bào cả nước, Đảng ta đã hết sức quan tâm đến
phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có
đào tạo nghề. Đào tạo nghề được xem như là giải
pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói
giảm nghèo, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thiếu
việc làm cho người lao động. Trong công cuộc
đổi mới đất nước, phát triển đào tạo nghề là giải
pháp quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế vùng nông thôn, miền núi;
nâng cao trình độ dân trí cho lao động nông thôn
(LĐNT) và lao động dân tộc thiểu số (LĐDTTS)
ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng là dấu mốc quan trọng trong đổi
mới tư duy về phát triển và đào tạo nghề ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo nghề giải pháp quan trọng tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay - Vũ Thị Thanh Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ngày nhận bài: 25/4/2017; Ngày phản biện: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 25/5/2017
(1) Học viện Dân tộc; e-mail: vuthanhminh@cema.gov.vn
Số 18 - Tháng 6 năm 2017
Ngay từ khi nước nhà được độc lập, trong
sách lược “diệt giặc đói và giặc dốt” cho đồng
bào cả nước, Đảng ta đã hết sức quan tâm đến
phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có
đào tạo nghề. Đào tạo nghề được xem như là giải
pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói
giảm nghèo, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thiếu
việc làm cho người lao động. Trong công cuộc
đổi mới đất nước, phát triển đào tạo nghề là giải
pháp quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế vùng nông thôn, miền núi;
nâng cao trình độ dân trí cho lao động nông thôn
(LĐNT) và lao động dân tộc thiểu số (LĐDTTS)
ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng là dấu mốc quan trọng trong đổi
mới tư duy về phát triển và đào tạo nghề trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị
quyết Hội nghị TW 2 (khoá VIII) và các Nghị
quyết tiếp theo đã cụ thể hoá, đồng thời đề ra
các giải pháp để thực hiện các mục tiêu của
Nghị quyết Đại hội VIII về lĩnh vực giáo dục và
đào tạo (GD&ĐT), trong đó có đào tạo lao động
kỹ thuật. Đó là những định hướng chiến lược
về phát triển GD&ĐT trong thời kỳ đổi mới.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
một lần nữa khẳng định chủ trương, quan điểm
GD&ĐT nói chung, đào tạo nghề nói riêng và
đặc biệt có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc.
Trên cơ sở tổng kết thực hiện Nghị quyết TW 2
(khoá VIII) và cụ thể hoá văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị TW 6 (khoá IX)
đã kết luận những vấn đề rất quan trọng có
tính chất chủ trương, quan điểm để định hướng
phát triển GD&ĐT, kể cả đào tạo nghề từ năm
2005 đến năm 2010. Đặc biệt, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI1 đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cụ thể GD&ĐT
trong điều kiện hội nhập quốc tế: “Chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với
thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo
dục gia đình và giáo dục xã hội” và “Ưu tiên đầu
tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng
đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng
chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa
giáo dục và đào tạo”. Nghị quyết đã đưa ra mục
tiêu cụ thể cho đào tạo nghề: Tập trung đào tạo
nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm
nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề
nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào
tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng,
thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
ĐÀO TẠO NGHỀ
GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO CHO VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY (*)
Vũ Thị Thanh Minh(1)
Đào tạo nghề được xem như là một giải pháp quan trọng gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thiếu việc
làm cho người lao động. Trong công cuộc đổi mới đất nước, phát triển đào tạo nghề là giải
pháp quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng nông thôn, miền
núi, nâng cao trình độ dân trí cho lao động nông thôn và lao động dân tộc thiểu số ở nước ta
Từ khóa: Đào tạo nghề; nguồn nhân lực chất lượng cao; vùng dân tộc thiểu số trong
giai đoạn hiện nay; giải pháp quan trọng.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
19Số 18 - Tháng 6 năm 2017
kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong
nước và quốc tế”, đồng thời “Bảo đảm cơ hội
cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng
khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập
nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn
nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện
thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề,...”
Quan điểm của Đảng về GD&ĐT, đào tạo nghề
đã được cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020: Phấn đấu
hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông
thôn, đưa tỷ lệ lao động được đào tạo nghề lên
khoảng 55% tổng lao động xã hội vào năm 2020.
Có chính sách thu hút những người được đào
tạo về làm việc ở nông thôn, nhất là miền núi và
vùng sâu, vùng xa. Phát triển mạng lưới dạy nghề
theo hướng dân chủ hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa
nhằm từng bước nâng cao chất lượng dạy nghề
với phương châm hiệu quả, bền vững.
Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về
phát triển lao động qua đào tạo nghề, về đào tạo
nghề đã được thể chế hoá trong Bộ luật Lao động
đầu tiên của Việt Nam (có hiệu lực từ 1/1/1995)
và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Lao động (có hiệu lực từ 1/1/2003); trong Luật
giáo dục (có hiệu lực từ 1/6/1999) và sửa đổi năm
2005 và Luật dạy nghề (có hiệu lực từ 1/6/2007);
Luật Giáo dục nghề nghiệp (có hiệu lực từ
1/7/2015); trong Chiến lược phát triển giáo dục
2001-2010, Chiến lược phát triển giáo dục giai
đoạn 2011-2020 và trong nhiều chính sách, nghị
định, thông tư hướng dẫn của Nhà nước. Ngoài
Luật lao động, Luật Dạy nghề, giai đoạn 2005-
2010 còn có tới 8 chính sách về đào tạo nghề và
hỗ trợ việc làm cho lao động nói chung và lao
động nữ nói riêng: Chính sách hỗ trợ dạy nghề
ngắn hạn cho lao động nông thôn; Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2007-
2010; Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và
bền vững đối với 61 huyện nghèo (2008); Chính
sách phát triển ngành nghề nông thôn (Nghị
định 66/2006/ NĐ-CP về phát triển ngành nghề
nông thôn); Chính sách khuyến nông, khuyến
ngư (Nghị định 56/2005 NĐ-CP về khuyến
nông, khuyến lâm); Chính sách đền bù, hỗ trợ hộ
gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp (Nghị định
197/2004/ NĐ-CP về hỗ trợ hộ gia đình đào tạo
nghề khi bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp);
Chính sách hỗ trợ việc làm; Chính sách phát triển
hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm (Nghị định
19/2005/ NĐ-CP qui định thủ tục thành lập tổ
chức giới thiệu việc làm),... Chính sách về đào
tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho lao động giai
đoạn 2011-2015 gồm: Đề án Hỗ trợ phụ nữ học
nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015, Chương
trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề giai
đoạn 2012-2015; Chính sách hỗ trợ giải quyết
việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị
thu hồi đất nông nghiệp; Qui định mức hỗ trợ học
nghề đối với người lao động đang hưởng trợ cấp
thất nghiệp; Luật Giáo dục nghề nghiệp,
Thực hiện giáo dục quốc dân, đào tạo nghề
giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao
động, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm
đặc biệt đến công tác đào tạo nghề cho đồng bào
DTTS. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, Đảng ta đã đưa ra định hướng rất cụ
thể: Về giáo dục đào tạo: Ưu tiên đầu tư phát
triển giáo dục đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào DTTS,... Về dạy nghề: Tổ chức dạy
nghề, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ sản xuất
phù hợp cho nông dân, đồng bào DTTS.
Điều 36, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), quy định Nhà
nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát
triển giáo dục đào tạo ở miền núi, các vùng dân
tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn. Trong
Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày
23/6/1994, tại Điều 21 đã quy định: Cơ sở dạy
nghề cho người DTTS được xét giảm, miễn thuế.
Điều 10, Luật giáo dục (1998) quy
định: Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con
em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối
tượng hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật và
đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác
thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.
Tại Nghị định 139/NĐ-CP ngày 20/11/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật Giáo dục và Bộ Luật Lao động (sửa
đổi) về dạy nghề cũng có 2 điều quy định chính
sách đối với DTTS: (1) Cơ sở dạy nghề cho người
dân tộc thiểu số được xét giảm miễn thuế (Điều
22); (2) Người học nghề là người DTTS được hỗ
trợ học nghề (Điều 24). Khoản 2 điều 7 Luật dạy
nghề (2005) khi nói về chính sách của Nhà nước
đối với phát triển dạy nghề đã khẳng định “ Chú
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
20 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
trọng phát triển dạy nghề ở các vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. Trong đó, Nhà
nước có chính sách đầu tư bảo đảm các điều kiện
cho cơ sở dạy nghề tiếp nhận học sinh phổ thông
dân tộc nội trú khi ra trường được vào học nghề
(Điều 54). Học sinh tốt nghiệp trường Trung học
cơ sở dân tộc nội trú, trường Trung học phổ thông
dân tộc nội trú, kể cả nội trú dân nuôi được tuyển
thẳng vào học trường trung cấp nghề. Học sinh
Trường phổ thông dân tộc nội trú khi chuyển
sang học nghề được hưởng chính sách như học
sinh trường phổ thông dân tộc nội trú (Điều 65).
Gần đây nhất Luật Giáo dục nghề nghiệp
cũng đã khẳng định người DTTS được hỗ trợ đào
tạo nghề và giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, một
số chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội vùng Tây Bắc,Tây Nguyên, Tây Nam bộ của
Đảng và Nhà nước cũng có nội dung hỗ trợ đào
tạo nghề, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm
cho đồng bào. Cụ thể như: Quyết định số 20/QĐ-
TTg ngày 20/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng
đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010; Quyết
định số 74/2008/QĐ-TTg ngày 09/6/2008 của Thủ
tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải
quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm
cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn
vùng ĐBSCL giai đoạn 2008 – 2010; Quyết định
số 1033/QĐ-TTg, ngày 30/6/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy
nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn
2011-2015. Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg ngày
20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về một số
chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và giải quyết
việc làm cho đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó
khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn
2013 – 2015,
Nhìn tổng thể, chủ trương quan điểm của
Đảng ta về đào tạo nghề không chỉ dừng lại ở
hệ tư tưởng, ở tầm định hướng chính sách mà
nó đã được thể chế hóa về mặt Nhà nước thành
hệ thống cơ chế, chính sách. Đó là một hệ thống
chủ trương quan điểm nhất quán, toàn diện và
không ngừng được hoàn thiện. Đối tượng thụ
hưởng các chính sách này bao gồm cả nam giới
và phụ nữ. Một số chính sách còn dành ưu tiên
đối với phụ nữ, đặc biệt là các nhóm phụ nữ đặc
thù như người thuộc diện được hưởng chính sách
ưu đãi, người có công với cách mạng; hộ nghèo;
hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ
nghèo; người DTTS; người tàn tật; người trong
diện thu hồi đất canh tác; phụ nữ bị mất việc làm
trong các doanh nghiệp.
Trong giai đoạn 2007- 2010, 2010-2015
và giai đoạn 2016-2020 chính sách dạy nghề cho
nông dân, ngày càng được chú trọng. Trong đó,
có quan tâm đến học sinh, sinh viên thuộc hộ
nghèo, gia đình chính sách, phụ nữ. Quyết định số
81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về Chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn
hạn cho lao động nông thôn chỉ rõ “Ưu tiên các
nhóm lao động bị mất đất sản xuất do Nhà nước
thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; lao
động thuộc diện chính sách, dân tộc thiểu số; lao
động nữ và lao động chưa có việc làm”2. Quyết
định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án về Dạy nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020” với mục
tiêu tăng cường khả năng tiếp cận của các đối
tượng này đến hệ thống dạy nghề. Phụ nữ là đối
tượng hưởng lợi nhiều trong chính sách này.
Trong các giai đoạn 2007-2010, bình quân
mỗi năm đã hỗ trợ cho trên 300 nghìn lao động
nông thôn học nghề ngắn hạn và sơ cấp nghề3.
Hàng năm, ngân sách nhà nước chi khoảng 4.400
tỷ đồng: miễn học phí (2.162 tỷ đồng); giảm học
phí (383 tỷ đồng) và hỗ trợ chi phí học tập (1.856
tỷ đồng), trong đó có hỗ trợ dạy nghề. Công bằng
xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt
tăng cơ hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em DTTS,
con em các gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật.
Hàng loạt chính sách xã hội ban hành trong thời
kỳ 2007-2010 đã quan tâm đến cung cấp tín dụng
ưu đãi nhằm hỗ trợ việc làm cho các nhóm đối
tượng đặc thù như hộ nghèo, người DTTS, người
khuyết tật, hộ bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp
phải học nghề để chuyển đổi việc làm, thanh
niên, phụ nữ,...
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm đã hỗ trợ tạo việc làm trong các cơ sở sản xuất
kinh doanh (doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang trại,
làng nghề,), tạo nhiều việc làm cho người lao
2. Điều 1, Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005
của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách hỗ trợ dạy nghề
ngắn hạn cho lao động nông thôn.
3. Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động-TBXH. Báo cáo tình
hình phát triển dạy nghề năm 2011.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
21Số 18 - Tháng 6 năm 2017
động, hộ gia đình, hộ DTTS và các đối tượng đặc
thù (người khuyết tật, lao động khu vực chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp,). Thời
kỳ 2007-2010, mỗi năm Quỹ quốc gia giải quyết
việc làm góp phần tạo việc làm cho khoảng 350
ngàn lao động, trong đó lao động nữ chiếm trên
40%.4 Hoạt động đưa lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài là một trong những giải pháp
để tạo việc làm gắn với xóa đói giảm nghèo bền
vững. Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài
tăng đều hàng năm.
Trong hệ thống luật pháp, chính sách về
đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho lao động nói
chung và lao động nữ nói riêng, đáng quan tâm
nhất là sự ra đời của Luật Bình đẳng giới (ra đời
năm 2006, có hiệu lực năm 2007) và những điều
khoản qui định của Luật. Theo đó, việc thực hiện
bình đẳng giới trong giáo dục, đào tạo, dạy nghề
là hết sức quan trọng để nâng cao năng lực, vị
thế của phụ nữ. Luật quy định cụ thể những nội
dung của bình đẳng giới trong giáo dục, đào tạo
như: Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi tham gia đào
tạo, trong lựa chọn ngành, nghề đào tạo, trong
thụ hưởng các chính sách về GD&ĐT. Một số
biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực
GD&ĐT, dạy nghề cũng được đề cập như: Quy
định tỷ lệ nam nữ tham gia học tập, đào tạo; tỷ lệ
nữ được tạo việc làm, hỗ trợ lao động nữ nông
thôn học nghề, Bình đẳng giới là xu thế phát
triển tất yếu, vì phụ nữ ngày càng chứng tỏ vị
thế, khả năng đóng góp của họ cho gia đình và xã
hội. Tuy nhiên, ở những vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào DTTS, công tác bình đẳng giới gặp khó
khăn hơn. Phụ nữ DTTS phải gánh chịu nhiều
thiệt thòi, chưa được nam giới quan tâm, chia sẻ
công việc gia đình; ít được tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình. Trước
thực trạng đó, chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011- 2020 tập trung vào đối tượng
phụ nữ nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào DTTS. Mục tiêu là giúp chị em có quyền
bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực.
Thông qua các buổi tuyên truyền bình đẳng giới
về những vùng nông thôn, Ban vì sự tiến bộ phụ
nữ các cấp đã giúp chị em dần thay đổi những
định kiến, nâng cao nhận thức, trang bị những kỹ
năng để nhận biết và dám đấu tranh cho quyền lợi
chính đáng của mình.
4. Số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Cùng với hệ thống chính sách đào tạo nghề
và hỗ trợ việc làm cho lao động của Nhà nước,
từng địa phương căn cứ vào điều kiện cụ thể cũng
đã ban hành nhiều chính sách, xây dựng nhiều
mô hình đào tạo hiệu quả, nhằm tạo điều kiện tối
đa cho lao động được tiếp cận thông tin, được đào
tạo nghề, chuyển đổi nghề phát triển sinh kế.
Theo Viện Khoa học lao động và xã hội
thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
(LĐTB&XH): Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động5
cả nước tiếp tục tăng, đạt 78,1% vào năm 2015
và dự báo đạt 78,6% vào năm 2020. Qui mô lực
lượng lao động cũng tiếp tục tăng, đạt 54,81 triệu
người, năm 2015 và dự báo là 58,23 triệu người
vào 2020. Theo giới tính, lực lượng lao động nữ
đạt 26,15 triệu người năm 2015 và ước sẽ đạt
27,50 triệu người năm 2020. Lực lượng lao động
nữ chiếm trên 47% tổng lực lượng lao động. Trước
nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng phải
giảm tốc độ tăng lực lượng lao động, đòi hỏi phải
khai thác hiệu quả nguồn vốn và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, do vậy, nhu cầu lao động
qua đào tạo đã tăng nhanh. Mục tiêu tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề trong tổng số lao động của từng
lĩnh vực sẽ là: Nông, lâm, ngư nghiệp (khoảng
35%); công nghiệp - xây dựng (khoảng 63%); dịch
vụ (khoảng 50%), đặt ra yêu cầu lớn cho công tác
dạy nghề, đặc biệt là dạy nghề cho lao động nông
thôn, cho đồng bào DTTS. Trong đó có nhu cầu
đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động.
Nhìn chung, nội dung chủ yếu của chính
sách đào tạo nghề, đào tạo nghề cho LĐNN,
LĐDTTS của chúng ta giai đoạn vừa qua tập
trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, người lao động ở nông thôn được
tham gia chương trình đào tạo nghề của Chính
phủ ban hành. Trong đó ưu tiên dạy nghề cho các
đối tượng là người có công với cách mạng, hộ
nghèo, người DTTS, người tàn tật, người bị thu
hồi đất canh tác, phụ nữ.
Thứ hai, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề được
lấy từ ngân sách trung ương, địa phương, doanh
nghiệp. Trong đó, ngân sách trung ương đảm bảo
kinh phí để thực hiện chính sách hỗ trợ lao động
nông thôn học nghề, hoạt động đào tạo; các cá
nhân, doanh nghiệp tham gia công tác đào tạo
5. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ phần trăm số
người tham gia lao động so với tổng nguồn lao động
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
22 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
nghề được hưởng mức thuế ưu đãi theo đúng quy
định của pháp luật.
Thứ ba, Các chính sách đã tạo điều
kiện tối đa cho lao động nông thôn, vùng đặc
biệt khó khăn (ĐBKK), lao động DTTS, lao
động nữ được đào tạo nghề để có việc làm
phù hợp, có thu nhập, nâng cao đời sống.
Đào tạo nghề luôn được gắn với giải quyết việc
làm cho người lao động. Đây là đặc điểm nổi bật
của đề án 1956 của Chính phủ về đào tạo nghề
cho người lao động nông thôn, đặc biệt là hộ
nghèo người DTTS. Đối với khu vực Tây Nam
bộ, tỷ lệ nông dân và người DTTS chưa được đào
tạo nghề còn chiếm tỷ lệ khá cao so với các vùng
khác, nên công tác dạy nghề được đặc biệt chú
trọng. Đề án 1956 của Chính phủ đã có những
đóng góp trực tiếp cho việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, kỹ năng lao động cho người lao
động, đặc biệt là phụ nữ DTTS.
Thứ tư, Các chính sách, đề án được xây
dựng trên cơ sở dạy nghề phù hợp với nhu cầu,
khả năng thực tế của các nhóm dân cư, người
DTTS; đồng thời đảm bảo dạy nghề theo nhu cầu
của thị trường lao động.
Thứ năm, Các chính sách đào tạo nghề đều
đề cao sự liên kết giữa các bên tham gia ở tất cả
các khâu của đào tạo nghề. Từ khâu tuyển sinh
đầu vào đến quá trình đào tạo và đầu ra phải có
sự phối hợp ăn ý giữa chính quyền - đại diện cơ
quan quản lý nhà nước; doanh nghiệp - đại diện
tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề; người lao
động - đại diện bên hưởng thụ hỗ trợ. Trong đó,
chính quyền quản lý đóng vai trò cầu nối trung
gian cho nhà tuyển dụng doanh nghiệp và người
lao động, thường xuyên điều tra khảo sát nhu cầu
lao động của nhà tuyển dụng lao động và thông
tin rộng rãi đến các cấp và trực tiếp đến người lao
động, đặc biệt người lao động chưa có việc làm
hoặc mới nghỉ việc. Những thay đổi không ngừng
trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay đã
đặt ra cho công tác đào tạo nghề không chỉ đào
tạo một lần mà phải có kế hoạch đào tạo lâu dài,
đào tạo lại, đào tạo nâng cao mới đáp ứng được
nhu cầu của thực tế.
Hiện nay, đồng bào DTTS của nước ta có
số dân là 13,39 triệu người, chiếm 14,6% dân số
cả nước6 sống tập trung chủ yếu ở vùng miền núi
phía Bắc, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và
6. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra thực trạng phát triển
kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, năm 2015
đồng bằng Sông Cửu Long. LĐNT, LĐDTTS chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất nông - lâm -
ngư nghiệp (trên 70%), công nghiệp - xây dựng
(gần 10%), dịch vụ (khoảng 20%). Đời sống của
đa số đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ
hộ nghèo vùng dân tộc và miền núi (DT&MN)
cuối năm 2015 khoảng 16,8%, trong đó: các tỉnh
vùng Tây Bắc 34,52%, Đông Bắc 20,74%, duyên
hải miền Trung 11,4%, Tây Nguyên 17,14% và
đồng bằng sông Cửu Long 9,66%. Năm 2016, nhờ
thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh
tế - xã hội, tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo tiếp cận đa
chiều vùng dân tộc và miền núi ước giảm khoảng
2% so với năm 2015 (cả nước giảm khoảng 1,3%
- 1,5%), riêng các huyện nghèo giảm 4%7.
Kinh tế của đồng bào chủ yếu tự cung,
tự cấp, trình độ sản xuất còn lạc hậu. Nhiều hộ
DTTS thiếu đất sản xuất, đất ở; nhiều làng nghề
truyền thống bị mai một, đời sống bà con còn vô
cùng khó khăn. Thực hiện chủ trương của Đảng
về phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền
núi thông qua nâng cao chất lượng đào tạo nghề
cho lao động nông thôn, cho đồng bào DTTS,
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các Ban chỉ đạo Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ, Bộ LĐTB&XH
cùng các sở Ban ngành ở địa phương, công tác đào
tạo nghề cho LĐNT, LĐDTTS ở vùng có đông
đồng bào sinh sống được chú trọng, Theo Báo
cáo của Hội đồng Dân tộc (Quốc Hội khóa 13),
báo cáo về kết quả thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn vùng DTTS từ năm
2010 đến 2013 (Quyết định 1956/QĐ-TTg, ngày
27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến
năm 2020 - gọi tắt là Đề án 1956: Tại 51 tỉnh có
DTTS, cư trú tập trung theo cộng đồng đã có 468
cơ sở đào tạo nghề (Trung tâm dạy nghề, hoặc
Trường Trung cấp nghề công lập) được đầu tư cơ
sở vật chất, thiết bị dạy nghề, với tổng kinh phí
2.311,6 tỷ đồng (ngân sách Trung ương 1.968,1
tỷ, chiếm 85,2%; ngân sách địa phương và lồng
ghép các nguồn vốn khác 343,5 tỷ đồng, chiếm
14,8%). Ngoài ra, tại các tỉnh có đông LĐDTTS,
đã có 01 Trường Cao đẳng nghề thanh niên dân
tộc Tây Nguyên và 10 Trường Trung cấp nghề
Dân tộc nội trú (Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái,
Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam,
Phú Yên, An Giang, Kiên Giang); 02 khoa Dân
tộc nội trú tại Trường Cao đẳng nghề Hòa Bình
7. Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết công tác dân tộc năm
2016 và triển khai nhiệm vụ năm 2017.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
23Số 18 - Tháng 6 năm 2017
và Sóc Trăng; xây dựng ký túc xá, trang thiết bị
dạy nghề cho các trường trung cấp, cao đẳng
nghề của một số tỉnh. Tính đến tháng 6-2013,
Tổng số LĐNT được học nghề: 886.621 người,
trong đó LĐDTTS 223.792 người, chiếm tỷ lệ
25,24% so với tổng số lao động được đào tạo. Tỷ
lệ LĐDTTS trong độ tuổi được đào tạo nghề theo
Đề án 1956: 223.792/7.820.909 người, chiếm tỷ
lệ 2,86% (trong khi tỷ lệ lao động trong độ tuổi
được đào tạo nghề của của cả nước là 37,3%).
Tổng số LĐNT sau học nghề có việc làm: 620.028
người, đạt tỷ lệ 73,07% so với tổng số lao động
đã học xong nghề. Tỷ lệ LĐNT, LĐDTTS tự tạo
việc làm sau khi học nghề chiếm tỷ lệ cao 63,1%;
đặc biệt lao động học nghề nông nghiệp tự tạo
việc làm chiếm tỷ lệ rất cao (87,74%). Hơn 3
năm (2010-2013), có 16.000 LĐDTTS được thụ
hưởng chính sách xuất khẩu lao động, đã đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó 7.132
LĐDTTS thuộc 62 huyện nghèo8. Đa số LĐDTTS
đi xuất khẩu lao động đều có việc làm, thu nhập
ổn định. Thông qua đào tạo nghề và tìm việc làm
cho LĐDTTS, nhiều hộ gia đình DTTS đã thoát
nghèo, xây dựng được nhà cửa, mua sắm tài sản,
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả.
Nhiều mô hình đào tạo nghề và mô hình nghề
được áp dụng, được nhân rộng hiệu quả.
Theo Báo cáo của Bộ trưởng Bộ
LĐTB&XH tại Hội nghị “Đánh giá thực trạng
thực hiện chính sách xuất khẩu lao động, dạy
nghề, giảm nghèo tại các huyện khó khăn vùng
Tây bắc” (1/2015): “Năm 2014, các địa phương
trong toàn vùng Tây Bắc đã tuyển sinh, đào tạo
cho hơn 243.000 người được học nghề, bằng
12% tổng số người được đào tạo nghề cả nước,
trong đó có hơn 71.000 người DTTS và hơn
13.000 người thuộc hộ nghèo”. Dạy nghề và các
chính sách liên quan trực tiếp đến đào tạo nhân
lực địa phương cũng được chú ý. Nguồn nhân lực
đã qua đào tạo của Tây Bắc cũng tăng dần qua
các năm. Hoà Bình và Điện Biên có tỷ lệ nhân
lực trên 15 tuổi đã qua đào tạo vượt mức trung
bình cả nước. Tại Lai Châu, năm 2014, số lao
động được đào tạo nghề và giải quyết việc làm
tăng: đào tạo nghề cho 5.077 lao động, nâng tỷ
lệ lao động qua đào tạo, tập huấn lên 38%; giải
8. Hội đồng Dân tộc Quốc Hội (khóa 13), Kết quả giám sát
việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn vùng dân tộc thiểu số, năm 2013.
quyết việc làm cho 6.600 lao động, trong đó xuất
khẩu 100 lao động. Năm 2014, Yên Bái tạo việc
làm mới cho 18.174 lao động (xuất khẩu lao động
đạt 742 người)9.
Sơ kết 3 năm thực hiện Đề án 1956 ở Tây
nguyên (đào tạo nghề cho lao động nông thôn),
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên khẳng định: Các tỉnh
Tây Nguyên đã tuyển sinh dạy nghề cho gần
90.000 lao động nông thôn. Chất lượng đào tạo
nghề cũng từng bước được nâng lên. Cụ thể, chỉ
riêng từ năm 2010 đến năm 2013, tỷ lệ lao động
nông thôn sau học nghề được các doanh nghiệp
tuyển dụng hoặc tự tạo việc làm tại chỗ đạt trên
78%, trong đó có trên 2.000 hộ nghèo sau học
nghề có việc làm, thu nhập ổn định và đã thoát
nghèo. Có 2.687 hộ sau học nghề đã đầu tư mở
rộng sản xuất, thành lập các tổ sản xuất kinh
doanh dịch vụ và trở thành hộ có thu nhập khá
so với bình quân chung của địa phương. Hiện
nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Tây Nguyên
đạt khoảng 37%, trong đó qua đào tạo nghề có
khoảng 30%. Trong những năm qua, công tác dạy
nghề ở Tây Nguyên đã phát triển theo hướng gắn
với các chương trình về lao động, việc làm, xuất
khẩu lao động, xoá đói, giảm nghèo, nên đã có
những hiệu quả rõ rêt. Mô hình đào tạo nghề rõ
nhất ở Tây Nguyên hiện nay là sự phối hợp, liên
kết “4 nhà”, đó là nhà quản lý, nhà trường, nhà
nông và nhà doanh nghiệp.
Toàn vùng đồng bằng Sông Cửu Long,
hiện đã có 364 cơ sở dạy nghề, trong đó có 39
cơ sở dạy nghề ngoài công lập (chiếm 22,16%).
Trong giai đoạn 2011-2015, tổng số tuyển sinh
học nghề là 1.238.643 người ở các trình độ đào
tạo nghề. Hiện có 9.556 hộ nghèo có người tham
gia học nghề đã thoát được nghèo, trong tổng số
44.959 người nghèo tham gia học nghề; 8.293 hộ
gia đình có người tham gia học nghề trở thành
hộ khá10. Kết quả điều tra phiếu hỏi của đề tài
“Nghiên cứu kết quả một số chủ trương, chính
sách đối với đồng bào Khmer và những vấn đề
đặt ra”11 cho thấy, đa số đồng bào Khmer và đồng
9. Báo cáo tại Hội nghị Đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách xuất khẩu lao động, dạy nghề, giảm nghèo tại các huyện
khó khăn vùng Tây bắc (1/2015).
10. Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Báo cáo Sơ kết 3 năm năm triển
khai Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ về “Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, năm 2013
11. Ủy ban Dân tộc, Đề tài cấp bộ thực hiện năm 2016-2017.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
24 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
bào Kinh đều cho rằng: Trong điều kiện đất đai
vùng Tây Nam bộ hiện rất hạn hẹp và biến đổi
khí hậu gây ngập mặn, hạn mặn như hiện nay, gây
nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp thì đào tạo
nghề cho đồng bào Khmer và hỗ trợ chuyển đổi
nghề cho đồng bào là rất phù hợp và rất cần thiết
(208/360 ý kiến chủ hộ Khmer, chiếm 57,8% và
28/40 ý kiến chủ hộ Kinh, chiếm 70% cho là rất
phù hợp và rất cần thiết). Nhưng đào tạo nghề
nên tránh đào tạo tràn lan mà đào tạo phải gắn
với giải quyết việc làm sau đào tạo nghề. Giai
đoạn 2016-2020, khu vực ĐBSCL phấn đấu
mỗi năm sẽ dạy nghề cho khoảng 300 nghìn
lao động trong vùng. Đồng thời phấn đấu đến
năm 2020, có ít nhất 2 trường nghề đạt tiêu chí
trường nghề chất lượng cao, 3 trường nghề nội
trú đảm bảo chất lượng đào tạo cho học sinh
DTTS nội trú, 100 lượt nghề trọng điểm ở các
cấp độ đạt chuẩn tối thiểu. Theo báo cáo của
ngân hàng Chính sách Xã hội, 10 tháng đầu năm
2016, cả nước đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho
85.025 lao động, trong đó hơn 8.000 lao động là
người DTTS12.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công
tác đào tạo nghề cho đồng bào DTTS vẫn còn
có những hạn chế nhất định. Công tác đào tạo
nghề ở vùng DTTS mới chỉ đáp ứng được khoảng
1/5 nhu cầu học nghề của địa phương. Sau học
nghề, lao động được giải quyết việc làm, có thu
nhập cao còn quá ít ỏi. Chưa có chính sách phù
hợp để khuyến khích các cơ sở dạy nghề mở rộng
quy mô tuyển sinh. Nhiều địa phương vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn chưa có mô hình
dạy nghề phù hợp cho từng đối tượng, nhất là
cho phụ nữ DTTS. Công tác xã hội hóa giáo dục
chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nguồn
lực từ doanh nghiệp và nhân dân. Có nơi công
tác đào tạo nghề chưa phù hợp với thực tế nhu
cầu địa phương. Chất lượng đào tạo nghề chưa
cao do trình độ học vấn của người lao động, đặc
biệt là chất lượng lao động vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào DTTS không đồng đều, nên số lao
động nông thôn tham gia học nghề chủ yếu là học
những nghề đơn giản, hoặc bồi dưỡng kiến thức
ít ngày. Đặc biệt, thiếu các cơ chế, chính sách ưu
tiên đối với người học nghề là người DTTS. Một
số quy định, định mức về hỗ trợ đào tạo nghề cho
12. Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết công tác dân tộc năm
2016 và triển khai nhiệm vụ năm 2017.
LĐNT, LĐDTTS chưa phù hợp, chưa đáp ứng
nhu cầu đào tạo nghề tại địa phương, cụ thể: các
quy định về mức chi hỗ trợ tiền ăn, chi phí đi lại
quá thấp, trong khi đó cơ sở đào tạo lại quá xa.
so với nơi ở của đồng bào. Các nghề mang tính
kỹ thuật cao chưa phát triển. Trình độ người lao
động chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường
lao động. Việc xuất khẩu lao động còn nhiều hạn
chế.
Thực tế cho thấy, quá trình đào tạo nghề cho
đồng bào DTTS, đặc biệt là đồng bào ở vùng sâu,
vùng xa, vùng ĐBKK chưa đạt được hiệu quả như
mong muốn. Nguyên nhân là do nội dung, phương
pháp giảng dạy một số nơi chỉ mang tính ngắn hạn,
cung cấp kiến thức trong sản xuất nông nghiệp là
chính, trong khi đồng bào thiếu tư liệu sản xuất
(đất); việc thu hút được các doanh nghiệp, trong đó
có doanh nghiệp đầu tư vào vùng DTTS rất ít, nên
rất khó khăn kết hợp được đào tạo nghề gắn với
giải quyết việc làm tại chỗ. Nhiều lao động được
đào tạo nhưng không có việc làm hoặc làm những
công việc không phù hợp với ngành nghề được
đào tạo hoặc gia công làm được các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ nhưng gặp khó khăn trong tiêu thụ
sản phẩm, từ đó không thu hút được lao động học
nghề, ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, nhiều cơ sở đào tạo còn khó khăn về
cơ sở vật chất, thiếu nơi thực hành. Chương trình
đào tạo nghề còn nặng về lý thuyết, chưa thực sự
phù hợp với trình độ nhận thức của LĐNT, đặc biệt
là LĐDTTS. Hầu hết đối tượng học nghề ở nông
thôn chỉ được đào tạo trình độ sơ cấp và dưới 3
tháng. Đa số người lao động sau khi được đào tạo
nghề vẫn làm nghề cũ (nghề nông nghiệp chiếm
tỷ lệ trên 80%). Tỷ lệ LĐDTTS được đào tạo
nghề rất thấp (dưới 3% so với LĐDTTS trong độ
tuổi)13. LĐDTTS vẫn ít có cơ hội được học nghề
bài bản, thường chỉ theo các lớp dưới 3 tháng.
Hiện nay vùng DTTS &MN lại là nơi chịu ảnh
hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu (hạn hán
kéo dài ở Tây nguyên; hạn mặn và xâm mặn nặng
ở Tây Nam bộ), cũng lại là nơi chịu ảnh hưởng
của khủng hoảng kinh tế thế giới,... Những yếu
tố này đã ảnh hưởng rất nhiều đến thị trường lao
động, việc làm. Bên cạnh đó là các nguyên nhân
chủ quan: Sự phối hợp chưa đồng bộ của các Bộ,
13. Hội đồng dân tộc Quốc Hội (khóa 13) Kết quả giám sát
việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn vùng dân tộc thiểu số, năm 2013
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
25Số 18 - Tháng 6 năm 2017
ban ngành Trung ương trong thực hiện các chính
sách dạy nghề cho LDDTTS, vùng DTTS. Nhiều
địa phương còn trông chờ ỷ lại vào Đảng, nhà
nước mà ko có những chính sách dạy nghề đặc
thù cho địa phương. Do bản tính rụt rè, thiếu tự
tin, ngại thay đổi môi trường sống, thay đổi cách
thức làm ăn, nên đồng bào chưa nhận thức đúng,
chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học nghề
để lập nghiệp, nên chủ yếu tham gia các lớp ngắn
hạn dưới 03 tháng và tập trung vào nghề nông, lâm
nghiệp hoặc lao động giản đơn, Nhiều lao động
DTTS chưa coi trọng việc học nghề, chưa coi học
nghề để xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giầu.
Bên cạnh đó, kinh phí bố trí cho công tác dạy nghề
thấp, lại chủ yếu dành cho xây dựng cơ sở đào tạo,
chi hỗ trợ cho người học còn hạn hẹp.
Để nâng cao chất lượng học nghề và giải
quyết việc làm cho đồng bào Khmer nói riêng
và đồng bào DTTS vùng Đồng bằng sông Cửu
Long nói chung cần tăng cường hơn nữa cơ chế
chính sách thu hút doanh nghiệp, đặc biệt doanh
nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào vùng DTTS, sử
dụng lao động là người DTTS tại chỗ vào làm
việc tại doanh nghiệp. Đồng thời, khuyến khích
các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các
cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập tham gia đào
tạo nghề gắn với thu hút lao động nông thôn, lao
động DTTS vào doanh nghiệp. Với đồng bào ở
vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK tham gia học
nghề cần được hỗ trợ kinh phí đi lại, sinh hoạt
cho đồng bào ở xa trung tâm đào tạo nghề; hoặc
tổ chức đào tạo nghề tại thôn/bản, khóm/ấp,
Các địa phương căn cứ vào điều kiện phát triển
kinh tế- xã hội của địa phương; đến văn hóa,
phong tục, tập quán của đồng bào; đến trình độ
LĐNT, LDDTTS của địa phương để xây dựng
mô hình đào tạo nghề phù hợp, định danh nghề
của địa phương và định hướng nghề hiệu quả cho
đồng bào. Tùy từng độ tuổi, giới tính, thành phần
dân tộc, địa bàn cư trú, trình độ phát triển kinh tế
- xã hội địa phương, để có chương trình đào tạo
nghề và có nghề được đào tạo thích hợp.
Thực tế công tác đào tạo nghề cho đồng
bào vùng DTTS hiện nay, đặt ra cho chúng ta một
số vấn đề cần phải quan tâm giải quyết như sau:
Thứ nhất, Để phát triển đào tạo nghề hiệu
quả cho vùng DTTS và miền núi cần tăng cường
hơn nữa cơ chế chính sách thu hút doanh nghiệp,
đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào vùng
DTTS, sử dụng lao động là người DTTS tại chỗ
vào làm việc tại doanh nghiệp. Đồng thời, khuyến
khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế,
các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập tham gia
đào tạo nghề gắn với thu hút lao động nông thôn,
lao động DTTS vào doanh nghiệp.
Thứ hai, Cần thực hiện hướng nghiệp nghề
cho học sinh DTTS ngay khi còn học phổ thông.
Tăng cường công tác đào tạo nghề ở các trường
phổ thông Dân tộc nội trú để khi tốt nghiệp, nếu
không tiếp tục học Cao đẳng, Đại học thì khi
trở về quê hương các em đã thạo một (hoặc hai)
nghề, tự nuôi sống bản thân và gia đình, đồng
thời góp phần xây dựng quê hương.
Thứ ba, Trong chiến lược nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho vùng DTTS&MN cần
đầu tư và hỗ trợ thỏa đáng hơn nữa cho công
tác đào tạo nghề cho con em DTTS ít người, hộ
nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK, nhằm
bảo đảm sự công bằng về cơ hội đào tạo nghề
(hỗ trợ kinh phí đi lại, sinh hoạt cho đồng bào ở
xa trung tâm đào tạo nghề; hoặc tổ chức đào tạo
nghề tại thôn bản,), giảm sự chênh lệch về tỷ lệ
đào tạo nghề, việc làm và thu nhập giữa các vùng,
miền, các thành phần dân tộc, nhất là các đối
tượng thuộc hộ nghèo, DTTS, vùng ĐBKK với
mức trung bình của Trung ương và địa phương..
Thứ tư, Các địa phương căn cứ vào điều
kiện phát triển kinh tế- xã hội của địa phương;
đến văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào;
đến trình độ LĐNT, LĐDTTS của địa phương để
xây dựng mô hình đào tạo nghề phù hợp, định
danh nghề của địa phương và định hướng nghề
hiệu quả cho đồng bào.
Thứ năm, Thực hiện xây dựng mô hình đào
tạo nghề cho lao động DTTS cần phải có sự phối
hợp, liên kết chặt chẽ của 4 chủ thể: Cơ quan quản
lý (Bộ LĐTB&XH hoặc Sở Lao động, Thương
binh và Xã hội tỉnh hoặc Hội liên hiệp Phụ nữ
tỉnh, Tỉnh đoàn thanh niên,), cơ sở dạy nghề
(trong và ngoài quốc lập), Lao động nông thôn,
lao động DTTS (được học nghề và có nhu cầu
học nghề) và doanh nghiệp (cơ sở sử dụng lao
động). Cơ quan quản lý đảm bảo thực hiện đầy đủ
các chính sách dạy nghề cho đồng bào. Cơ sở dạy
nghề có nhiệm vụ đào tạo các nghề theo nhu cầu,
nguyện vọng của bà con có chất lượng. Đồng bào
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
26 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
DTTS có nhu cầu, nguyện vọng học nghề, đào
tạo các nghề được học nghề. Các doanh nghiệp
có thể sử dụng ngay lao động đã học nghề hoặc
hỗ trợ bà con đã học nghề tìm việc làm ổn định.
Thứ sáu, Về chương trình đào tạo nghề:
Tùy từng độ tuổi, giới tính, thành phần dân tộc,
địa bàn cư trú, trình độ phát triển kinh tế - xã hội
địa phương, để có chương trình đào tạo nghề và
có nghề được đào tạo thích hợp. Ví dụ, đối với
phụ nữ DTTS các xã ĐBKK khu vực Tây Nam
bộ, nên đào tạo nghề ngắn hạn (dưới 3 tháng),
đào tạo các nghề gắn với giải quyết việc làm,
nhằm xóa đói giảm nghèo cho hộ gia đình. Hiện
nay, các nghề đang được phụ nữ DTTS Tây Nam
bộ quan tâm và có nhu cầu học nhiều là: Kỹ thuật
trồng lúa chất lượng cao, chăn nuôi bò hoặc heo,
may công nghiệp, dệt thổ cẩm, trồng nấm, kết
hạt cườm, và một số nghề nhằm hỗ trợ phụ nữ
xuất khẩu lao động. Đối với thanh niên DTTS
nên hướng tới đào tạo nghề dài hạn (Cao đẳng
hoặc Đại học nghề). Không những đào tạo các
nghề có trong danh mục nghề của quốc gia mà
nên đào tạo các nghề trong danh mục nghề quốc
tế để hướng tới thị trường lao động việc làm trong
nước của thời kỳ hội nhập quốc tế, hoặc xuất
khẩu lao động.
Tài liệu tham khảo
[1] Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày
18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về Chính
sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động
nông thôn;
[2] Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, Báo cáo tình hình phát
triển dạy nghề năm 2011;
[3] Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết các
chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015;
[4] Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết công
tác dân tộc năm 2016 và triển khai nhiệm vụ năm
2017.
[5] Hội đồng Dân tộc Quốc Hội (khóa 13),
Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách đào
tạo nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc
thiểu số, năm 2013;
[6] Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Báo cáo tại Hội
nghị Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách
xuất khẩu lao động, dạy nghề, giảm nghèo tại các
huyện khó khăn vùng Tây Bắc (1/2015);
[7] Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Báo cáo Sơ
kết 3 năm triển khai Quyết định 1956 của Thủ
tướng Chính phủ về “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020”, năm 2013;
(*) Bài viết là sản phẩm của đề tài nghiên
cứu khoa học “Nghiên cứu mô hình đào tạo nghề
cho phụ nữ dân tộc thiểu số thuộc các xã đặc biệt
khó khăn khu vực Tây Nam Bộ” của Quỹ Khoa
học và Công nghệ quốc gia NAFOSTED, năm
2015 - 2017
VOCATIONAL TRAINING - IMPORTANT SOLUTION TO CREATE HIGH QUALITY
HUMAN RESOURCES FOR ETHNIC MINORITY PEOPLE IN THE CURRENT PERIOD
Abstract: Vocational training is seen as a solution to socio-economic development,
poverty reduction, unemployment and unemployment. In the process of national renovation,
vocational training development is an important solution to speed up the economic
restructuring process in rural and mountainous areas, improve the intellectual level of rural
and ethnic labors in our country.
Keywords: Vocational training; Human Resources; high quality human resources;
ethnic minorities in the current period; important solutions.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 210_895_1_pb_9131_2152001.pdf