Tài liệu Đánh giá xơ hóa gan bằng phối hợp kỹ thuật ARFI với thang điểm xơ hóa NAFLD trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 72
ĐÁNH GIÁ XƠ HÓA GAN BẰNG PHỐI HỢP KỸ THUẬT ARFI
VỚI THANG ĐIỂM XƠ HÓA NAFLD TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN
NHIỄM MỠ KHÔNG DO RƯỢU
Trần Thị Khánh Tường*, Trương Thị Ái Phương**
TÓM TẮT
Tổng quan và mục tiêu: Bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) bị xơ hóa nặng có nguy cơ
cao phát triển ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Do đó, các phương pháp không xâm lấn nhằm xác định có hay
không có xơ hóa nặng ở những bệnh nhân này rất cần thiết để có thể theo dõi sát và điều trị tốt hơn. Mục đích của
nghiên cứu này là để đánh giá hiệu quả chẩn đoán của kỹ thuật ARFI, điểm số xơ hóa NAFLD (NFS) và sự kết
hợp của các phương pháp này đối với xơ hoá gan nặng trên những bệnh nhân bị NASH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 117 bệnh nhân bị
NASH. Tất cả các bệnh nhân đều được sinh thiết gan và các phư...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá xơ hóa gan bằng phối hợp kỹ thuật ARFI với thang điểm xơ hóa NAFLD trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 72
ĐÁNH GIÁ XƠ HÓA GAN BẰNG PHỐI HỢP KỸ THUẬT ARFI
VỚI THANG ĐIỂM XƠ HÓA NAFLD TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN
NHIỄM MỠ KHÔNG DO RƯỢU
Trần Thị Khánh Tường*, Trương Thị Ái Phương**
TÓM TẮT
Tổng quan và mục tiêu: Bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) bị xơ hóa nặng có nguy cơ
cao phát triển ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Do đó, các phương pháp không xâm lấn nhằm xác định có hay
không có xơ hóa nặng ở những bệnh nhân này rất cần thiết để có thể theo dõi sát và điều trị tốt hơn. Mục đích của
nghiên cứu này là để đánh giá hiệu quả chẩn đoán của kỹ thuật ARFI, điểm số xơ hóa NAFLD (NFS) và sự kết
hợp của các phương pháp này đối với xơ hoá gan nặng trên những bệnh nhân bị NASH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 117 bệnh nhân bị
NASH. Tất cả các bệnh nhân đều được sinh thiết gan và các phương pháp không xâm lấn để đánh giá
xơ hóa gan bao gồm NFS và kỹ thuật ARFI. Giá trị chẩn đoán của kỹ thuật ARFI và NFS được đánh giá
bằng đường cong ROC được xây dựng để phát hiện xơ hóa nặng. Giá trị điểm cắt tối ưu được chọn sao
cho tổng của độ nhạy và độ đặc hiệu là cao nhất. Giá trị p nhỏ hơn 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê
thống kê.
Kết quả: Tổng cộng có 115 bệnh nhân bị NASH được chẩn đoán dựa vào sinh thiết gan. Để xác
định xơ hóa nặng, với giá trị lớn hơn 0,676, NFS có độ nhạy 52,7%, độ đặc hiệu 97,5%, PPV 82,0%,
NPV 88,7% và AUC của 0,81 (KTC 95%: 0,55-0,89). Để loại trừ xơ hóa nặng, với giá trị nhỏ hơn -
1455, NFS có độ nhạy 98,8%, độ đặc hiệu 80,2%, PPV 55,8%, NPV 98,4% và AUC của 0,90 (KTC
95%: 0,72-0,95). Kỹ thuật ARFI có độ nhạy 78,5%, độ đặc hiệu 92,5%, PPV 83,2% và NPV 94,2% với
giá trị điểm cắt là 1,45 và AUC 0,92 (KTC 95%: 0,76-0,98) để chẩn đoán xơ hóa nặng. Sự kết hợp của
ARFI và NFS với giá trị > 0,676) tăng độ đặc hiệu lên 100% và tăng PPV lên100%. Sự kết hợp của
ARFI và NFS với giá trị <-1455 làm tăng độ nhạy lên 100% và tăng NPV lên 100%.
Kết luận: Phối hợp kỹ thuật ARFI và NFS rất có giá trị để xác định và loại trừ xơ hóa nặng
tốt hơn so với kỹ thuật ARFI và NFS đơn thuần.
Từ khóa: xơ hóa gan, độ cứng của gan, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD), viêm gan
nhiễm mỡ không do rượu (NASH), kỹ thuật ARFI, NAFLD Fibrosis Score (NFS)
ABSTRACT
EVALUATE LIVER FIBROSIS BY COMBINATION OF ARFI TECHNIQUE AND
NAFLD FIBROSIS SCORE IN PATIENTS WITH NONALCOHOLIC STEATOHEPATITIS
Tran Thi Khanh Tuong, Tran Thi Ai Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 72 - 80
Background / Objectives: Nonalcoholic steatohepatitis (NASH) patients with advanced fibrosis are at high
risk for developing hepatocellular carcinoma (HCC). Thus, there is a need for non-invasive methods to identify
advanced fibrosis in these patients to better monitor and manage. The aim of this study is to evaluate the
*Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch **Bệnh viện Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Thị Khánh ĐT: 0903164690 Email: drkhanhtuong@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 73
diagnostic efficacy of ARFI technique, NAFLD fibrosis score (NFS) and their combination for advanced liver
fibrosis in patients with NASH.
Patients and Methods: The study was carried out on 117 patients with NASH. All of patients underwent a
liver biopsy and invasive methods for assessment of liver fibrosis including NFS and ARFI technique. The
diagnostic performance of ARFI and NFS was assessed using ROC curves that were built for the detection of
advanced fibrosis. Optimal cut-off values were chosen so that the sum of sensitivity and specificity would be the
highest. A p-value less than 0.05 were regarded as significant for each statistic test.
Results: A total of 117 patients had biopsy-proven NASH. For the identification of advanced fibrosis, with
the value greater than 0.676, NFS had sensitivity of 52.7%, specificity of 97.5%, PPV of 82.0%, NPV of 88,7%,
and AUC of 0.81 (CI 95%: 0.55 – 0.89). For the exclusion of advanced fibrosis, with the value smaller than -
1,455, NFS had sensitivity of 98.8%, specificity of 80.2%, PPV of 55.8%, NPV of 98.4%, AUC of 0.90 (CI 95%:
0.72 – 0.95). For advanced fibrosis, ARFI had the sensitivity of 78.5%, specificity of 92.5%, PPV of 83.2% and
NPV of 94.2% with the cut-off value of 1.45 and AUC of 0.92 (CI 95%: 0.76-0.98). The combination of ARFI and
NFS with a value > 0.676 increased the specificity to 100% and PPV to 100%. The combination of ARFI and
NFS with a value < -1,455 increased sensitivity to 100% and NPV to 100%.
Conclusions: The combination of ARFI and NFS was very valuable to determine and exclude advanced
fibrosis better than ARFI technique and NFS alone.
Key words: liver fibrosis, liver stiffness, non-alcoholic fatty liver disease (NAFLD), nonalcoholic
steatohepatitis (NASH), acoustic radiation force impulse imaging (ARFI), NAFLD fibrosis score (NFS)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tần suất NAFLD trên toàn thế giới đã tăng
gấp đôi trong hai thập niên qua, trong khi đó tần
suất các bệnh gan mạn khác không thay đổi hoặc
thậm chí đã giảm xuống(12). Ngày nay, NAFLD là
nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh gan
mạn tính, không chỉ ở các nước phương tây mà
còn ở cả Châu Á(31,33). NAFLD được đặc trưng bởi
gan nhiễm mỡ không do các nguyên nhân thứ
phát như rượu, thuốc, hoặc các yếu tố di truyền
và có có liên quan đến các rối loạn chuyển hóa
như béo phì, đái tháo đường, rối loạn lipid máu.
NAFLD được phân loại về mặt mô bệnh học
gồm gan nhiễm mỡ không do rượu
(nonalcoholic fatty liver: NAFL) khi chỉ có nhiễm
mỡ ở gan, không có tổn thương tế bào gan và
NASH khi có tổn thương tế bào gan có hay
không có xơ hóa(8).
NASH có nguy cơ tiến triển đến ung thư
gan, nhưng nguy cơ này chủ yếu xảy ra trên
bệnh nhân (BN) bị xơ hóa nặng(7). Hầu hết các
hướng dẫn thực hành của các tổ chức nghiên
cứu bệnh gan trên thế giới đều khuyến cáo nên
xác định hay loại trừ xơ hóa nặng ban đầu nên
dựa vào NFS và Fibroscan nhằm hạn chế nhu
cầu sinh thiết gan như của Châu Mỹ(9) và châu
Âu(20). Theo hướng dẫn của các hiệp hội trên, các
trường hợp được chẩn đoán xơ hoá nặng bằng
NFS hay FibroScan đều cần sinh thiết gan để
chẩn đoán xác định trước khi điều trị.
ARFI là kỹ thuật chẩn đoán xơ hóa không
xâm nhập mới cho thấy có độ chính xác cao
trong chẩn đoán xơ hóa. Các nghiên cứu trước
đây đã cho thấy kỹ thuật ARFI(17,18) là những
phương pháp đáng tin cậy để đánh giá xơ hóa
nặng ở bệnh nhân NASH. ARFI có giá trị tương
đương FibroScan trong đánh giá XHG trên bệnh
gan mạn nói chung và NAFLD nói riêng(18). Tuy
nhiên, kỹ thuật ARFI vượt trội hơn so với
FibroScan vì có thể thực hiện được trên BN có
báng bụng, khoảng gian sườn hẹp. Trên thề giới
chưa có nghiên cứu nào phối hợp NFS với kỹ
thuật ARFI, nên chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này từ đó có thể đưa ra những kiến nghị về việc
áp dụng các phương pháp này trong thực hành
lâm sàng để xác định hay loại trừ xơ hóa nặng,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 74
từ đó có thể theo dõi và can thiệp kịp thời nhằm
hạn chế tiến triển đến HCC với các mục tiêu sau:
Xác định mối tương quan giữa kỹ thuật
ARFI, NFS với giai đoạn xơ hóa gan theo phân
loại Metavir của giải phẫu bệnh
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị dự
đoán dương, dự đoán âm, độ chính xác của kỹ
thuật ARFI, NFS với 2 giá trị điểm cắt (-1,455 và
0,675) và phối hợp 2 phương pháp này trong
chẩn đoán xơ hóa nặng ở BN bị NASH.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang phân tích.
Dân số nghiên cứu
BN từ 18 tuổi trở lên bị NASH được khám
và điều trị tại BV Nhân Dân 115, thành phố Hồ
Chí Minh.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả các BN nội và ngoại trú từ 18 tuổi trở
lên được chẩn đoán xác định là NASH tại BV
Nhân Dân 115 theo các tiêu chuẩn sau:
BN được chẩn đoán xác định là NASH khi
thỏa các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn GPB: nhiễm mỡ (steatosis) từ 5%
trở lên, tế bào gan thoái hóa nước và thâm nhiễm
tế bào viêm mạn (34)
Loại trừ các BN uống rượu >30g/ngày đối với
nam, >20g/ngày đối với nữ (18,34)
Loại trừ gan nhiễm mỡ do các nguyên
nhân khác như nhiễm vi rút viêm gan C,
thuốc
Tiêu chuẩn loại trừ
Mẫu sinh thiết gan không đạt chuẩn <6
khoảng cửa
Số lần đo độ cứng của gan bằng ARFI thành
công <10 hay tỷ lệ thành công <60% hay IQR
<30%.
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu
Cách tiến hành
Tất cả BN được hỏi bệnh sử, khám lâm
sàng và thực hiện các xét nghiệm cần thiết
theo mẫu thu thập số liệu. Các BN có chỉ định
và không có chống chỉ định sinh thiết gan
được tiến hành sinh thiết tại phòng siêu âm
của BV Nhân Dân 115 bằng súng sinh thiết tự
động Bard sản xuất tại Mỹ. Mẫu sinh thiết
được nhuộm HE, Trichrome và PAS. Tất cả
BN đều được thực hiện kỹ thuật ARFI cài đặt
trên máy Siemens ACUSON S2000 trong vòng
2 tuần trước hay sau khi sinh thiết gan tại
Trung tâm Medic–Hòa hảo TP HCM và được
tính NFS. Phân tích mẫu mô gan do giảng viên
của Bộ môn Giải phẫu bệnh trường Đại học Y
khoa Phạm Ngọc Thạch thực hiện.
Mức độ xơ hóa gan theo thang điểm giải
phẫu bệnh (GPB) Metavir (3) bao gồm F0:
không có xơ hóa khoảng cửa, F1: xơ hóa
khoảng cửa, quanh khoảng cửa, không có
vách xơ, F2: xơ hóa quanh khoảng cửa với vài
vách xơ, F3: vách xơ và xơ hóa bắc cầu nhiều,
nhưng chưa đảo lộn cấu trúc tiểu thùy, chưa
xơ gan. F4: vách xơ, xơ hóa bắc cầu nhiều, đảo
lộn cấu trúc tiểu thùy, xơ gan. Xơ hóa nhẹ F0-
1, xơ hóa đáng kể (significant fibrosis) khi mức
độ xơ hóa ≥ F2 (F2-4) và xơ hóa nặng
(advanced fibrosis) khi mức độ xơ hóa ≥ F3 (3).
Công thức tính điểm xơ hóa NAFLD:
1,675 +0,037 x tuổi (năm) +0,094 x BMI
(kg/m2) +1,13 x IFG/tiểu đường (có =1, không =0)
+ 0,99 x AST/ALT (U/L) – 0,013 x tiểu cầu (109/l) -
0,66 x albumin (g/dl).
IGF: impaired fasting glucose (rối loạn đường huyết đói)
Công thức được tính nhanh chóng online
trên phần mềm có sẵn trên internet.
Dựa trên kết quả của các nghiên cứu (1,21,32) ,
NFS được dùng 2 điểm cắt để chẩn đoán và loại
trừ xơ hóa nặng là 0,675 và -1,445. Theo các
hướng dẫn này, NFS < -1,455: loại trừ xơ hóa
nặng với NPV là 93% (AUC là 0,88); NFS > 0,675:
xác định xơ hóa nặng với PPV là 90% (AUC là
0,88) và khi NFS nằm trong khoảng -1,45
0,676, cần làm thêm FibroScan để chẩn đoán xơ
hoá nặng. Vì vậy chúng tôi cũng sử dụng 2 điểm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 75
cắt này cho NFS, khi phối hợp với ARFI.
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm thống kê Stata 13.
Các phương pháp thống kê
So sánh TB của 2 nhóm bằng t-test, 3 nhóm
trở lên bằng phân tích phương sai (One-way
Anova).
So sánh ≥ 2 tỷ lệ % bằng phép kiểm chi
bình phương.
Vẽ đường cong ROC và tính AUROC.
AUROC ≥ 0,70: có độ chính xác khá tốt, ≥ 0,80: có
độ chính xác tốt và ≥ 0,90 là rất tốt.
Giá trị điểm cắt (cut-off value) được chọn tại
điểm có chỉ số Youden (J) cao nhất với J=
Sensitivity + Specificity − 1. Tính độ nhạy, độ đặc
hiệu, PPV, NPV.
Đánh giá mối tương quan giữa 2 biến số liên
tục phân phối chuẩn bằng tương quan Pearson
với hệ số tương quan Pearson hay r. Đánh giá
mối tương quan 1 biến số liên tục với 1 biến số
thứ tự hay phân loại bằng tương quan thứ bậc
Spearman, tính hệ số tương quan Spearman rho
(r) với KTC 95%.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ tháng 10/2012-7/2015,
chúng tôi thực hiện sinh thiết 123 ca, nhưng chỉ
117 ca đủ tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu.
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Tuổi trung bình (TB) 43,16± 13,43 (20-81), đa
số BN thuộc nhóm tuổi 26-45, chiếm tỷ lệ 48,2%.
Tỷ lệ nam/ nữ: 1,36
BMI TB: 25,87 ± 3,82 (17,84-30,35), đa số BN
thuộc nhóm nguy cơ và béo độ 1 (n=82), tỷ lệ
71%.
ALT TB: 76,31±31,12; AST TB: 49,17±26,18. Đa
số BN đến khám bệnh vì tăng men gan, chiếm tỷ
lệ 74,2 %, đa số BN có ALT tăng từ 2-3 lần (60-90
U/l), chiếm tỷ lệ 63,6%.
Đa số BN có rối loạn lipid máu, chiếm tỷ lệ
84,3%, trong đó tăng triglycerid là loại rối loạn
thường gặp nhất (68,3%).
42 BN bị đái tháo đường (ĐTĐ) type 2, chiếm
tỷ lệ 35,8%.
ALT, AST và GGT tăng, ALT tăng chiếm tỷ
lệ cao nhất lần lượt là 80,1%; 62,3%; 35,4% và
100% BN có ALP, GGT, INR và Albumin bình
thường.
Sinh thiết gan
Chúng tôi sinh thiết tổng cộng 123 ca, 6 ca có
số khoảng cửa < 6 bị loại ra khỏi nghiên cứu, tỷ
lệ sinh thiết thành công là 95%.
Đau tại nơi sinh thiết hay vai phải là biến
chứng duy nhất, gồm 39 BN, chiếm tỷ lệ 33,3 %.
82,5% nhiễm mỡ loại không bào lớn, 17,5%
loại hỗn hợp. Nhiễm mỡ nhẹ chiếm 63%, nhiễm
mỡ TB chiếm 32,8%, nhiễm mỡ nặng chiếm 5,2%.
Bảng 1: Giai đoạn xơ hóa gan theo Metavir
Giai đoạn xơ hóa n Tỷ lệ %
F0 17 14,5%
F1 47 40,1%
F2 28 23,9%
F3 20 17,1%
F4 5 4,4%
Tổng cộng 117 100%
Các phương pháp đánh giá xơ hoá gan
không xâm nhập
Bảng 2: Mối tương quan giữa các phương pháp với
giải phẫu bệnh
Spearman rho p
NFS 0,59 0,00012
ARFI 0,62 0,00025
Bảng 3: Độ nhạy, độ đặc hiệu, PPV, NPV và AUC của các phương pháp để chẩn đoán xơ hóa nặng
Phương pháp Điểm cắt Độ nhạy % Độ đặc hiệu % PPV NPV AUC
NFS
> 0,676 52,7 97,5 82,0 88,7 0,81 (0,55-0,89)
< -1,455 98,8 80,2 55,8 98,4 0,90 (0,72-0,95)
ARFI >1,45 78,5 92,5 83,2 94,2 0,92 (0,76-0,98)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 76
Phối hợp NFS và kỹ thuật ARFI
Bảng 4: Độ nhạy, độ đặc hiệu, PPV, NPV và AUC của phối hợp 2 phương pháp để chẩn đoán xơ hóa nặng
Mức độ xơ hóa Giá trị ngưỡng Độ nhạy (%) Độ đặc hiệu (%) PPV (%) NPV (%) AUC
> F3 NFS > 0,676 và SWV >1,45 m/s 49,5 100 100 88,9 0,75
< F3 NFS < -1,455 và SWV < 1,45 m/s 100 76,5 48,9 100 0,88
SWV: Vận tốc sóng biến dạng, kết quả đo độ cứng của gan bằng kỹ thuật ARFI
Hình 1. Mô bệnh học của bệnh nhân Đỗ Thị Ngọc T, 31 tuổi: F3, nhiễm mỡ 30%
BÀN LUẬN
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Tuổi TB trong dân số nghiên cứu của chúng
tôi là 43, không khác biệt nhiều so với các nghiên
cứu trước đây(35,1,15) với đa số BN thuộc nhóm
tuổi 26-45, chiếm tỷ lệ 48,2%.
Tỷ lệ nam cao hơn nữ (nam/nữ =1,3) tương
tự nghiên cứu của Arun J và cs(2), tuy nhiên,
một số nghiên cứu cho thấy nữ bị NAFLD
nhiều hơn nam(14) hay tỉ lệ nam và nữ bằng
nhau(16,35). Như vậy giới tính có vẻ không liên
quan lắm đến NASH.
Béo phì, ĐTĐ type 2 và rối loạn mỡ máu là
các yếu tố nguy cơ đã được xác định rõ trong các
nghiên cứu trước đây(9). Dư cân, béo phì đi kèm
với tăng nguy cơ NAFLD, tần suất NAFLD tăng
khi BMI tăng. Tần suất nhiễm mỡ đơn thuần và
NASH lần lượt là 15% và 3% ở người không béo
phì, tăng lên 65% và 20% ở người béo phì độ 1 và
2, và tăng lên 85% và 40% ở người béo phì độ
3(14). Giá trị TB của BMI trong nghiên cứu này là
25,87, cao hơn bình thường và BN thuộc nhóm
nguy cơ, béo phì độ 1 chiếm tỷ lệ 71%. Điều này
cho thấy dư cân, béo phì là một yếu tố nguy cơ
thật sự đối với NASH, phù hợp với y văn trên
thế giới.
Hầu hết BN bị NAFLD/NASH có rối loạn
lipid máu cùng với các biểu hiện khác của hội
chứng chuyển hóa như béo phì, ĐTĐ và tăng
huyết áp(11). 81,3% BN của chúng tôi có rối loạn
lipid máu, trong đó tăng Triglyceride là loại
rối loạn thường gặp nhất, phù hợp với y
văn(13). ĐTĐ type 2 làm tăng phân hủy lipid và
ức chế sự thu nhận glucose, do đó làm tăng
tạo triglyceride bởi mô mỡ, gây lắng đọng
triglyceride ở gan(13). 49–62% BN bị ĐTĐ type
2 có kèm theo NALFD và ngược lại 18–33%
BN bị NALFD có kèm ĐTĐ type 2(24). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ BN bị ĐTĐ
type 2 là 35,9%.
Hầu hết các trường hợp NASH không có
triệu chứng hay có triệu chứng mơ hồ không
chuyên biệt như mệt mỏi, chán ăn trừ khi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 77
diễn tiến đến xơ gan mất bù(3,12). Đa số BN của
chúng tôi đến khám vì tăng men gan, chiếm tỉ
lệ 74,2% phù hợp với y văn và nghiên cứu của
Lee RG(19) và hầu hết BN không có triệu chứng
đặc hiệu của bệnh gan. ALT, AST và GGT là
bất thường duy nhất trong các xét nghiệm
sinh hoá gan, trong đó ALT tăng chiếm tỷ lệ
cao nhất, đa số BN có ALT tăng từ 2-3 lần
ULN, chiếm tỷ lệ 63,6%.
Sinh thiết gan
Chúng tôi thực hiện sinh thiết 123 ca, 6 ca có
số khoảng cửa < 6 được loại ra khỏi nghiên cứu.
Tỷ lệ sinh thiết gan thành công là 95%, tương tự
nghiên cứu của Lê Thị Thanh Quýt là 95,9% khi
thực hiện sinh thiết gan bằng kỹ thuật hút kiểu
Menghini(23). Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tác
giả này, số khoảng cửa ≥ 3 đã được xem là thành
công. Với số khoảng cửa ≥ 6 được xem như mẫu
mô gan đạt chuẩn giống như tiêu chuẩn trong
nghiên cứu của chúng tôi, nghiên cứu của
Friedrich-Rust M và cs có tỷ lệ thành công là
93,4%(16) tương tự kết quả của chúng tôi.
Biến chứng do sinh thiết gan là một rào cản
khiến cả bác sĩ và BN đều ngại thực hiện. Thực
tế, rất ít bệnh viện ở nước ta có triển khai sinh
thiết gan, đặc biệt cho BN bị bệnh gan mạn. Sinh
thiết gan qua da trong bệnh lý gan lan tỏa có tần
suất biến chứng nặng như chảy máu và tử vong
rất thấp(27). Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ
có biến chứng duy nhất là đau tại nơi sinh thiết
chiếm tỷ lệ 33,3%. Kết quả trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng tương tự theo ghi nhận của y
văn, đau là biến chứng thường gặp nhất xảy ra
khoảng 25%, đau âm ỉ vùng hạ sườn phải hoặc
vai phải, đau tăng khi hít sâu(5).
NAFLD có đặc trưng về mô học là nhiễm
mỡ loại không bào lớn, tuy nhiên có thể gặp
nhiễm mỡ loại hỗn hợp, nhiễm mỡ loại không
bào nhỏ đơn thuần rất hiếm gặp(6). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với y văn,
82,5% BN nhiễm mỡ loại không bào lớn và
17,5% loại hỗn hợpvà không có BN nào nhiễm
mỡ không bào nhỏ.
Diễn tiến xơ hóa gan (XHG) của NASH chậm
hơn so với viêm gan mạn do vi-rút hay rượu.
Ước tính phải mất 30 năm để tiến triển đến xơ
gan đối với viêm gan mạn do HCV(26), tuy nhiên
đối với NASH thời gian này còn kéo dài hơn.
NAFLD/NASH mới phát triển ở Châu Á trong
vòng 2 thập niên gần đây, do đó tỷ lệ bệnh nhân
xơ gan do NASH đơn thuần rất ít, chính vì thế
chúng tôi chỉ có 5 BN bị NASH có xơ hóa F4 hay
xơ gan và đa số là xơ hoá F1.
Các phương pháp đánh giá xơ hoá gan
không xâm nhập
Kết quả nghiên cứu cho thấy SWV và NFS có
tương quan thuận, chặt với giai đoạn XHG có ý
nghĩa thống kê. SWV và NFS tăng tương ứng với
mức độ tăng của các giai đoạn XHG theo phân
loại Metavir của GPB. Như vậy kỹ thuật ARFI và
NFS thực sự là những phương pháp đáng tin cậy
để đánh giá XHG trên BN NASH tương tự với
các nghiên cứu trước đây(15,32,35)
Một phương pháp chẩn đoán được xem là
khá tốt khi AUC > 0,7; được xem là tốt nếu AUC
> 0,8 và rất tốt khi AUC > 0,9. Theo sự phân loại
này, chúng tôi nhận thấy kỹ thuật ARFI và NFS
đều là những phương pháp chẩn đoán có độ
chính xác tốt đến rất tốt đối với xơ hóa nặng.
Đánh giá giai đoạn xơ hoá, đặc biệt xác nhận
bệnh nhân NASH có hay không có xơ hoá nặng
đóng vai trò vô cùng quan trọng để quyết định
điều trị ngay và bắt đầu tầm soát ung thư gan
hay giãn tĩnh mạch thực quản trên bệnh nhân bị
xơ hoá nặng để tránh tiến triển đến mất bù của
gan, ung thư gan và tử vong.
Theo nghiên cứu phân tích tổng hợp 2011, 3
test đánh giá xơ hóa nặng không xâm nhập được
chọn lựa trên BN NAFLD là NFS, CK18 và
FibroScan với độ nhạy, độ đặc hiệu và AUC
không khác biệt(22). Hướng dẫn thực hành của
các hiệp hội nghiên cứu bệnh gan trên thế giới
như của châu Mỹ(9) và châu Âu(20) đều khuyến
cáo sử dụng NFS để bước đầu đánh giá XHG,
giúp xác định và loại trừ xơ hóa nặng trên BN bị
NAFLD. Đối với nhóm BN không xác định được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 78
có hay không có xơ hóa nặng do NFS nằm giữa 2
điểm cắt, các tổ chức này đều khuyến cáo sử
dụng FibroScan để tiếp tục xác định xơ hóa
nặng. Kỹ thuật ARFI ra đời sau FibroScan gần 10
năm, gần đây đã được nghiên cứu rộng rãi, tuy
nhiên chưa đủ dữ liệu để FDA chấp thuận như
FibroScan. Có lẽ trong thời gian sắp tới, kỹ thuật
này sẽ được FDA chấp nhận và sử dụng rộng rãi
hơn có khá nhiều nghiên cứu khẳng định vai trò
của kỹ thuật này.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết luận
tương tự như sau để xác định xơ hóa nặng, với
giá trị lớn hơn 0,676, NFS có độ nhạy thấp 52,7%
nhưng có độ đặc hiệu rất cao 97,5% và các giá trị
dự đoán đều cao hơn 80%; ngược lại, để loại trừ
xơ hóa nặng, với giá trị nhỏ hơn -1,455, NFS có
độ nhạy và NPV rất cao 98,8%. Như vậy với giá
trị lớn hơn 0,676, NFS giúp xác định xơ hóa nặng
và với giá trị nhỏ hơn -1,455, NFS giúp loại trừ
xơ hóa nặng một cách chính xác.
Kỹ thuật ARFI là một kỹ thuật mới, chưa
được FDA chấp thuận trong đánh giá XHG. Tuy
nhiên nhiều nghiên cứu cũng nghiên cứu phân
tích tổng hợp (2013) đã cho thấy kỹ thuật này có
giá trị tương tự FibroScan để đánh giá XHG trên
bệnh gan mạn nói chung và NAFLD nói riêng(4).
Nghiên cứu gần đây của chúng tôi cũng cho thấy
kỹ thuật ARFI có giá trị trong đánh giá XHG trên
BN bị NASH(30) tương tự với các nghiên cứu ở
nước ngoài. Để chẩn đoán xơ hóa nặng, kỹ thuật
ARFI với giá trị điểm cắt 1,45 m/s, kỹ thuật này
có độ đặc hiệu và PPV rất tốt trên 90%, độ nhạy
và NPV tốt. Các nghiên cứu trước đây như của
Fierbinteanu Braticevici C và cs (2013), với điểm
cắt 1,48 m/s, kỹ thuật này có độ đặc hiệu và PPV
cũng trên 90%, tuy nhiên cả độ nhạy và NPV
cũng trên 90%, cao hơn so với nghiên cứu của
chúng tôi(15). Tóm lại, kỹ thuật ARFI đáng tin cậy
và có thể sử dụng để chẩn đoán xơ hóa nặng
như FibroScan.
Phối hợp NFS và kỹ thuật ARFI
Mỗi phương pháp đánh giá XHG không xâm
nhập đều có một số hạn chế nhất định. Do đó
nhằm cải thiện giá trị chẩn đoán, một số nghiên
cứu trên thế giới đã phối hợp 2 phương pháp
không xâm nhập để đánh giá XHG như phối
hợp kỹ thuật ARFI với FibroScan(28), NFS với
FibroScan(10,25),... Kết quả của các nghiên cứu cho
thấy khi phối hợp 2 phương pháp làm tăng khả
năng xác định hay loại trừ xơ hóa nặng và hạn
chế được nhu cầu sinh thiết gan. Hiện chưa có
nghiên cứu trên thế giới phối hợp kỹ thuật ARFI
và NFS để chẩn đoán xơ hóa nặng trên BN bị
NAFLD/NASH.
Phối hợp 2 phương pháp trong nghiên cứu
của chúng tôi nhằm tăng khả năng xác định và
loại trừ XHG nặng trên BN bị NASH để quyết
định điều trị, đánh giá tiên lượng và bắt đầu
sàng lọc HCC định kỳ. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy khi phối hợp kỹ thuật ARFI
với điểm cắt >1,45 m/s và NFS > 0,676 để xác
định xơ hóa nặng có độ đặc hiệu và PPV tăng lên
tuyệt đối 100% nghĩa là không có dương giả;
phối hợp kỹ thuật ARFI với điểm cắt < 1,45 m/s
và NFS < -1,455 để loại trừ xơ hóa nặng có độ
nhạy và NPV tăng lên tuyệt đối là 100% nghĩa là
không có âm giả. Kết quả nghiên cứu này tương
tự nghiên cứu của Petta S và cs (2014)(25) khi phối
hợp NFS > 0,676 với FibroScan (≥ 9,6 KPa) để xác
định xơ hoá nặng cũng có độ đặc hiệu và PPV
tăng lên 100% cho cả 2 nhóm Sicilian-training
cohort và northern Italy-validation cohort. Tuy
nhiên, khi phối hợp NFS < -1,455 với FibroScan
(< 7,9 KPa) làm giảm dương giả xuống cho cả 2
nhóm Sicilian-training cohort và northern Italy-
validation cohort lần lượt là 1,1; 7,3%, tức tăng
độ nhạy lên 98,9%; 92,7% thấp hơn so với nghiên
cứu của chúng tôi. Nghiên cứu khác của Chan
WK (2015) cũng cho thấy khi phối hợp FibroScan
với NFS > 0,676 làm tăng độ đặc hiệu và PPV lên
100%(25). Như vậy phối hợp NFS với kỹ thuật
ARFI đều có thể xác định hay loại trừ xơ hoá
nặng rất tốt tương tự phối hợp với FibroScan,
đặc biệt khả năng loại trừ xơ hoá nặng khi phối
hợp NFS (<-1,455) với ARFI có vẻ tốt hơn cả khi
phối hợp với FibroScan.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 79
Khi so sánh AUC của phối hợp 2 phương
pháp để xác định và loại trừ xơ hoá nặng với
đều hơi giảm so với kỹ thuật ARFI và NFS.
Các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy khi
phối hợp 2 phương pháp làm tăng độ đặc hiệu
hay độ nhạy thì sẽ giảm độ nhạy hay độ đặc
hiệu tương ứng và do đó có thể giảm AUC
như nghiên cứu của Sporea và cs khi phối hợp
kỹ thuật ARFI và FibroScan(29).
KẾT LUẬN
Phối hợp kỹ thuật ARFI và NFS rất có giá trị
để xác định và loại trừ xơ hóa nặng tốt hơn so
với kỹ thuật ARFI và NFS đơn thuần. Phối hợp 2
phương pháp này có thể giảm âm giả và dương
giả xuống 0%. Vì thế khi tiếp cận BN bị NASH,
chúng ta có thể phối hợp sử dụng 2 phương
pháp này để có thể xác định hay loại trừ xơ hóa
nặng, từ đó có kế hoạch điều trị cũng như sàng
lọc HCC định kỳ phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Angulo P, Hui J, Marchesini G, Bugianesi E, George J, Farrell
GC, et al. (2007) The NAFLD fibrosis score: a noninvasive
system that identifies liver fibrosis in patients with NAFLD.
Hepatology;45(4):846-54
2. Arun J, Clements RH, Lazenby AJ, et al. (2006) The prevalence
of nonalcoholic steatohepatitis is greater in morbidly obese
men compared to women. Obes Surg.;6:1351 - 8
3. Bacon BRB, Bruce R. Genetic, metabolic, and infiltrative
diseases affecting the liver. In: Longo DL, Fauci AS, Kasper
DL, Hauser SL et al, editor. (2013) HARRISON’S
Gastroenterology and HepatoloGy: Mc Graw Hill;. p. 451-5.
4. Bota S, Herkner H, Sporea I, et al. (2013) Meta-analysis: ARFI
elastography versus transient elastography for the evaluation
of liver fibrosis. Liver Int;33(8):1138-47
5. Bravo AA, Sheth SG, Chopra S. (2001) LIVER BIOPSY. The
New England journal of medicine.;344(7):495 - 500
6. Brunt EM, Tiniakos DG. (2010) Histopathology of
nonalcoholic fatty liver disease. World J
Gastroenterol.;16(42):5286 - 96
7. Chalasani N, Younossi Z, Lavine JE, et al. (2012) The diagnosis
and management of non-alcoholic fatty liver disease: Practice
Guideline by the American Association for the Study of Liver
Diseases, American College of Gastroenterology, and the
American Gastroenterological Association.
Hepatology.;55(6):2005-23
8. Chalasani N, Younossi Z, Lavine JE, et al. (2012) The diagnosis
and management of non-alcoholic fatty liver disease: practice
Guideline by the American Association for the Study of Liver
Diseases, American College of Gastroenterology, and the
American Gastroenterological Association. Hepatology.;55(6):
2005-23
9. Chalasani N, Younossi Z, Lavine JE, et al. (2012) The
Diagnosis and Management of Non-Alcoholic Fatty Liver
Disease: Practice Guideline by the American Association for
the Study of Liver Diseases, American College of
Gastroenterology, and the American Gastroenterological
Association. Hepatology;55(6):2005-18
10. Chan WK, Nik Mustapha NR, Mahadeva S. (2015) A novel 2-
step approach combining the NAFLD fibrosis score and liver
stiffness measurement for predicting advanced fibrosis.
Hepatol Int;9(4):594-602
11. Chatrath H, Vuppalanchi, R., Chalasani, N. (2012)
Dyslipidemia in Patients with Nonalcoholic Fatty Liver
Disease. Semin Liver Dis;32(1):22 - 9
12. Douglas LaBrecque, Zaigham Abbas, Frank Anania
Nonalcoholic Fatty Liver Disease and Nonalcoholic
Steatohepatitis World Gastroenterology Organisation Global
Guidelines 2012
13. Dowman JK, Tomlinson JW el al. (2010) Pathogenesis of non-
alcoholic fatty liver disease. Q J Med;103(2):71-83
14. Fabbrini E, Sullivan S and Klein S. (2010) Obesity and
Nonalcoholic Fatty Liver Disease: Biochemical, Metabolic and
Clinical Implications. Hepatology.;51(2):679 - 89
15. Fierbinteanu Braticevici C, Sporea I, Panaitescu E, Tribus L.
(2013) Value of acoustic radiation force impulse imaging
elastography for non-invasive evaluation of patients with
nonalcoholic fatty liver disease. Ultrasound in Medicine and
Biolog;39(11):1942 - 50
16. Friedrich -Rust M, Daniela R, Johannes V, Susanne K, Dilek S,
Eva H, Stefan Z, Joerg B. (2012) Acoustic radiation force
impulse-imaging and transient elastography for non-invasive
assessment of liver fibrosis and steatosis in NAFLD.
Radiology.;81(3):325 - 31
17. Friedrich-Rust M, Nierhoff J, Lupsor M, et al. (2012)
Performance of Acoustic Radiation Force Impulse imaging for
the staging of liver fibrosis: a pooled meta-analysis. J Viral
Hepat;19(2):e212-9
18. Friedrich-Rust M, Romen D, Vermehren J, et al (2012)
Acoustic radiation force impulse-imaging and transient
elastography for non-invasive assessment of liver fibrosis and
steatosis in NAFLD. Eur J Radiol;81(3):325-31
19. Lee RG. (1989) Nonalcoholic steatohepatitis: a study of 49
patients. Human pathology;20(6):594-8
20. Machado MV, Cortez-Pinto H. (2013) Non-invasive diagnosis
of non-alcoholic fatty liver disease. A critical appraisal. Journal
of Hepatology 2015 vol 63;58J:1007-19
21. McPherson S, Stewart SF, Henderson E, Burt AD, Day. CP
(2010) Simple non-invasive fibrosis scoring systems can
reliably exclude advanced fibrosis in patients with non-
alcoholic fatty liver disease. Gut;59:1265-9
22. Musso G, Gambino R, Cassader M, et al. (2011) Meta-analysis:
natural history of non-alcoholic fatty liver disease (NAFLD)
and diagnostic accuracy of non-invasive tests for liver disease
severity. Ann Med;43(8):617-49
23. Ngô Thị Thanh Quýt, Nguyễn Phương, Lê Thành Lý, Bùi
Hữu Hoàng. (2010) Chẩn đoán mức độ xơ hóa gan bằng
phương pháp đo độ đàn hồi gan trên bệnh nhân bệnh gan
mạn. Y Học TP Hồ Chí Minh;14(1):161-6
24. Obika M, Noguchi H. (2012) Diagnosis and Evaluation of
Nonalcoholic Fatty Liver Disease. Experimental Diabetes
Research:1 - 12
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 80
25. Petta S, Vanni E, Bugianesi E, Marco VD, Calogero Camma D,
Cabibi A, Mezzabotta L and Crax A. (2014) The combination
of liver stiffness measurement and NAFLD fibrosis score
improves the noninvasive diagnostic accuracy for severe liver
fibrosis in patients with nonalcoholic fatty liver disease. Liver
International ISSN.
26. Poynard T, Bedossa P, Opolon P. (1997) Natural history of
liver fibrosis progression in patients with chronic hepatitis C.
The OBSVIRC, METAVIR, CLINIVIR, and DOSVIRC groups.
Lancet;349:825-32
27. Poynard T, Ratziu V, Bedossa P. (2000) Appropriateness of
liver biopsy. Can J Gastroenterol;14(6):543 - 8
28. Sporea I, Şirli R, Popescu A et al. (2011) Is it better to use two
elastographic methods for liver fibrosis assessment? . World J
Gastroenterol;17(33):3824 - 9
29. Sporea I, Şirli R, Popescu A, Bota S. (2011) Is it better to use
two elastographic methods for liver fibrosis assessment ?
World J Gastroenterol.;17(33):3824-9
30. Trần Thị Khánh Tường. (2014) Đánh giá vai trò của kỹ thuật
ghi hình xung lực xạ âm trong dự đóan giai đoạn xơ hóa gan
trên bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Tạp chí
Y Dược học;22+23:57-63
31. Vernon G, Baranova A, Younossi ZM. (2011) Systematic
review: the epidemiology and natural history of non-alcoholic
fatty liver disease and non-alcoholic steatohepatitis in adults.
Aliment Pharmacol Ther;34:274-85
32. Wong VWS, Wong GLH, Chim AML, et al. (2008)Validation
of the NAFLD Fibrosis Score in a Chinese Population With
Low Prevalence of Advanced Fibrosis. American Journal of
Gastroenterology;103:1682 - 8
33. Wong, Vincent Wai-Sun. (2013) Nonalcoholic fatty liver
disease in Asia: A story of growth. Journal of Gastroenterology
and Hepatology.;28:18-23
34. Yoneda M, Suzuki K, Kato S, Fujita K, Nozaki Y, Hosono K, et
al. (2010) Nonalcoholic fatty liver disease: US-based acoustic
radiation force impulse elastography. Radiology;256(2):640-7
35. Yoneda M, Suzuki K, Kato S, Fujita K, Nozaki Y, Hosono K,
Saito S, Nakajima A. (2010) Nonalcoholic Fatty Liver Disease:
US-based Acoustic Radiation Force Impulse Elastography.
Radiology;256(2):640 - 7
Ngày nhận bài báo: 6/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_xo_hoa_gan_bang_phoi_hop_ky_thuat_arfi_voi_thang_di.pdf