Tài liệu Đánh giá vai trò lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên: Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
89
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG TẠI XÃ BÌNH LONG,
HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Đông1*, Nguyễn Thị Phương Mai1, Trần Thị Lệ Hằng2
1Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Viện Năng lượng – Bộ Công thương
TÓM TẮT
Bình Long là một xã đặc biệt khó khăn của huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, kinh tế chủ yếu dựa
vào hoạt động nông lâm nghiệp, thu nhập bình quân đầu người đạt 11 triệu đồng/năm. Trong
những năm gần đây, người dân đã phát huy thế mạnh của vùng, phát triển kinh tế theo hướng nông
lâm nghiệp. Người dân Bình Long đã tham gia các hoạt động lâm nghiệp cộng đồng góp phần đem
lại những lợi ích nhất định về phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nâng diện tích che
phủ rừng lên khoảng 1.099 ha từ năm 2011 đến 2017, giảm diện tích núi đá không rừng, tăng mức
đa dạng sinh học, cải thiện kinh tế nông hộ và góp phần xóa đói giảm nghèo.
Từ khóa: Quản lý rừng cộ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá vai trò lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
89
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG TẠI XÃ BÌNH LONG,
HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Đông1*, Nguyễn Thị Phương Mai1, Trần Thị Lệ Hằng2
1Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Viện Năng lượng – Bộ Công thương
TÓM TẮT
Bình Long là một xã đặc biệt khó khăn của huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, kinh tế chủ yếu dựa
vào hoạt động nông lâm nghiệp, thu nhập bình quân đầu người đạt 11 triệu đồng/năm. Trong
những năm gần đây, người dân đã phát huy thế mạnh của vùng, phát triển kinh tế theo hướng nông
lâm nghiệp. Người dân Bình Long đã tham gia các hoạt động lâm nghiệp cộng đồng góp phần đem
lại những lợi ích nhất định về phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nâng diện tích che
phủ rừng lên khoảng 1.099 ha từ năm 2011 đến 2017, giảm diện tích núi đá không rừng, tăng mức
đa dạng sinh học, cải thiện kinh tế nông hộ và góp phần xóa đói giảm nghèo.
Từ khóa: Quản lý rừng cộng đồng, lâm nghiệp cộng đồng, quản lý rừng bền vững, xã Bình Long
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Theo Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO)
lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) được hiểu là
các hoạt động gắn người dân với rừng, các
sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích
từ các sản phẩm này [1]. Ở Việt Nam, xét về
khía cạnh quyền sở hữu rừng, LNCĐ được
hiểu là: Quản lý rừng của cộng đồng và quản
lý rừng dựa vào cộng đồng [1]. Hiện nay,
LNCĐ được phát triển với khá nhiều hình
thức như: Cộng đồng quản lý theo truyền
thống; nhóm hộ gia đình; cộng đồng quản lý;
nhóm hộ tự liên kết quản lý [4] nguồn gốc có
thể do thôn bản tự tuyên bố hoặc là do nhận
giao khoán từ chính quyền địa phương hoặc
từ các chủ quản lý.
Bình Long là 1 xã nghèo thuộc phía Đông
Nam huyện Võ Nhai, bình quân thu nhập theo
đầu người 11 triệu/năm. Hơn 50% dân số là
người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp.
Tính đến năm 2017, xã Bình Long có diện
tích đất lâm nghiệp là 1703,87 ha chiếm
61,35% diện tích đất tự nhiên, phần lớn là
rừng tự nhiên trên núi đá. Nền kinh tế chủ yếu
dựa vào các hoạt động nông lâm nghiệp, đặc
biệt trong những năm gần đây, người dân đã
tích cực tham gia lâm nghiệp cộng đồng. Tuy
nhiên, hiện vẫn chưa có đánh giá cụ thể về
hiệu quả của LNCĐ tới sự phát triển kinh tế,
*
Tel: 0987 264907, Email: dongnt@tnus.edu.vn
xã hội, lâm sinh và môi trường tại xã Bình
Long, xuất phát từ thực tế đó nhóm tác giả đã
thực hiện đề tài “Đánh giá vai trò của lâm
nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên”
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động lâm
nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn cán bộ
xã và người dân xã Bình Long, các câu hỏi
tập trung chủ yếu vào các hoạt động LNCĐ
lợi ích và khó khăn khi thực hiện LNCĐ, hoạt
động tuần tra, bảo vệ rừng
- Phương pháp đánh giá nhanh: Dựa trên các
tiêu chí đánh giá về kinh tế, xã hội, lâm sinh
và môi trường, với mỗi tiêu chí lựa chọn chỉ
tiêu cụ thể. Khía cạnh kinh tế lựa chọn các chỉ
tiêu về diện tích rừng được giao, hiện trạng
rừng, tác động của LNCĐ đến thu nhập của
các hộ Chỉ tiêu về môi trường lựa chọn các
chỉ thị: Độ che phủ của rừng cộng đồng, tác
động tới nguồn nước, ảnh hưởng đến
ĐDSH, Các chỉ tiêu về xã hội: Tỷ lệ người
tham gia quản lý rừng cộng đồng, công tác
tập huấn, canh tác nông lâm nghiệp, số người
vi phạm rừng và hương ước
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
90
- Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng Excel
để tổng hợp số liệu điều tra.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phương thức quản lý rừng tại xã Bình Long
Xã Bình Long có hai hình thức quản lý rừng
chủ yếu:
Quản lý của chính quyền địa phương: Hiện tại
chính quyền xã đang quản lý 1703,87 ha đất
lâm nghiệp [5]. Chính quyền xã được coi như
cơ quan quản lý chung nhất có trách nhiệm
phê duyệt, giám sát các hoạt động quản lý,
chăm sóc và bảo vệ rừng tự nhiên của các hợp
tác xã (HTX) cũng như cộng đồng dân cư.
Đồng thời, hỗ trợ về mặt pháp luật, phổ biến
chính sách hỗ trợ của Nhà nước về quản lý và
bảo vệ rừng tới người dân. Tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp cộng đồng
tại địa phương
Quản lý rừng theo thôn xóm: Mô hình quản lý
rừng theo thôn xóm được hình thành từ lâu
đời tuy nhiên từ năm 1960 do chính sách tập
thể hóa, đất đai được quản lý tập trung và có
kiểm soát, nên rừng tại xã Bình Long do
UBND xã quản lý. Cộng đồng địa phương
không có quyền ra quyết định về tài nguyên
rừng và không có trách nhiệm bảo vệ rừng
dẫn đến nạn phá rừng nhanh chóng.
Từ tháng 7/2011“Mô hình xây dựng năng lực
cho cộng đồng dân tộc thiểu số sẵn sàng tham
gia chương trình giảm phát thải khí nhà kính
từ mất rừng và suy thoái rừng” được chính
thức triển khai tại xã Bình Long dưới sự hỗ
trợ của tổ chức CERDA (Centre of Research
and Development in Upland Area) nhằm mục
đích chủ yếu là nâng cao năng lực quản lý của
cộng đồng dân cư trong bảo vệ và phát triển
rừng. Dự án đã hỗ trợ công tác giao đất giao
rừng, thành lập hợp tác xã (HTX) và các tổ tự
quản để tăng cường phát triển sinh kế và bảo
vệ rừng. Khác với HTX giai đoạn trước đây,
HTX kiểu mới hoạt động dựa theo hướng
cộng đồng dân cư là chủ thể bảo vệ rừng được
giao, cùng với đó hình thức quản lý rừng theo
xóm đang được thực hiện. Tổng diện tích giao
cho các xóm là 1099,1 ha. HTX được xây
dựng từ các tổ tự quản là các hộ dân trong
cùng xóm tập hợp thành các hộ tự quản, có
trách nhiệm tham gia bảo vệ và quản lý rừng,
đồng thời khi tham gia HTX các hộ này có tư
cách pháp nhân, để tham gia vào cơ chế thị
trường thông qua các hợp đồng mua bán vật
tư nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm, góp
phần nâng cao sinh kế giảm áp lực lên tài
nguyên rừng. Cơ cấu tổ chức hoạt động của
HTX được trình bày tại hình 1. Hợp tác xã
hoạt động trên tinh thần dân chủ công bằng và
đồng thuận.
Hình 1. Cơ cấu tổ chức của các hợp tác xã tại xã Bình Long [2]
Vai trò của Lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long
Vai trò LNCĐ đối với phát triển kinh tế
Theo thống kê của HTX Hòa Bình tính đến năm 2017 rừng tự nhiên trên núi đá tại xã Bình Long
có tổng diện tích giao cho các xóm là 1099,1 ha. Hoạt động giao đất, giao rừng tại xã Bình Long
được tiến hành khá tốt, 100% diện tích rừng được giao tại tất cả các xóm với 100% các hộ gia
Tổ tự quản Tổ tự quản Tổ tự quản
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Ban Giám đốc
Ban
Kiểm
soát
Tổ chức điều phối
việc bảo vệ rừng
Tổ dịch
vụ
Tổ tham vấn
cộng đồng
Tổ kỹ
thuật
Tổ xử lý vi
phạm rừng
Tổ quản lý Vốn
quay vòng
Tổ tài
chính
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
91
đình tham gia. Rừng được giao sẽ tập trung quản lý theo xóm, không chia riêng rẽ từng hộ gia
đình. Ưu tiên các xóm có đông dân cư, ở gần rừng, thuận tiện cho các hoạt động quản lý, bảo vệ
rừng, với chính sách giao rừng như vậy đã nhận được sự hưởng ứng của người dân. Thống kê
diện tích rừng tự nhiên núi đá giao cho mỗi xóm được thể hiện cụ thể tại hình 2.
Hình 2. Thống kê diện tích rừng tự nhiên trên núi đá giao cho các xóm tại xã Bình Long [3]
Theo số liệu tại hình 2, diện tích giao khoán
rừng tại xóm Long Thành là lớn nhất 127,6 ha
với 97 hộ gia đình cùng tham gia bảo vệ; xóm
Bứa có diện tích rừng được giao thấp nhất 4,9
ha với 10 hộ gia đình quản lý. Đồng Bản và
Đèo Ngà là hai xóm có số hộ gia đình tham
gia bảo vệ rừng nhiều nhất: Xóm Đồng Bản
117 hộ quản lý 79,5 ha rừng và xóm Đèo Ngà
107 hộ quản lý 70,6 ha rừng. Tuy nhiên điều
này không ảnh hưởng đến chất lượng bảo vệ
rừng vì tất các hộ gia đình tham gia hợp tác
xã đều có trách nhiệm và vai trò như nhau
trong việc chăm sóc, bảo vệ và quản lý rừng.
Hiện trạng rừng giao cho cộng đồng
Trạng thái rừng khi giao chủ yếu là rừng
nghèo và núi đá chưa thành rừng do đã khai
thác kiệt quệ và đất nương rẫy trên địa bàn cư
trú. Phần lớn là những quần tụ non, thành
phần loài không đa dạng, không đồng đều
tuổi, kết cấu tầng tán không rõ ràng. Những
cây gỗ quý như: Nghiến (Burretiodendron
hsienmu), Trai lý (Garcinia Fragraeoides),
Đinh hương (Dysoxylum cauliflorum) vẫn
còn song chủ yếu là cây tái sinh.
Sau khi giao cho cộng đồng và hộ gia đình
bảo vệ thì rừng thực sự có chủ, được chăm
sóc, giảm thiểu đáng kể tình trạng khai thác,
chặt phá rừng trái phép. Cùng với đó là trách
nhiệm bảo vệ rừng của người dân được nâng
lên rõ rệt. Nhiều diện tích núi đá không rừng
được phủ xanh, rừng nghèo tăng trưởng đạt
trạng thái rừng trung bình. Rừng tự nhiên
được chăm sóc và bảo vệ nghiêm ngặt nên đã
dần phục hồi, nhiều loại cây quý hiếm được
tái sinh.
Lâm nghiệp cộng đồng tác động đến thu
nhập của người dân
Theo số liệu UBND xã Bình Long, tỷ lệ hộ
nghèo và cận nghèo lên tới 80,44%; trong đó
hộ nghèo chiếm 53,04% và hộ cận nghèo
chiếm 27,4%. Thu nhập bình quân đầu người
833.000 đ/người/tháng. Như vậy, mức sống
của người dân trong xã còn tương đối thấp.
Đối với các dự án LNCĐ tại Việt Nam, cộng
đồng thường tập trung vào việc trồng rừng,
bảo vệ rừng, thu nguồn lợi từ việc khai thác
gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên, LNCĐ tại
xã Bình Long chủ yếu tập trung vào việc
khoanh nuôi bảo vệ rừng, giảm phát thải do
phá rừng và suy thoái rừng, tăng cường trữ
lượng và bán tín chỉ carbon, hướng tới mục
tiêu phát triển bền vững. Qua 5 năm (2012 –
2017) tham gia dự án REDD+ với việc triển
khai các hoạt động quản lý, chăm sóc và bảo
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
92
vệ rừng thì hiện tại xã Bình Long đã có tối
thiểu 1.099 ha rừng tự nhiên núi đá đủ điều
kiện để được tiến hành chi trả dịch vụ môi
trường rừng theo tiến trình chi trả vào năm
2017. Sau khi dự án kết thúc, chính quyền địa
phương đã cam kết sẽ trích nguồn kinh phí từ
Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh để hỗ
trợ kinh phí cho người dân tham gia bảo vệ và
phát triển rừng núi đá tại xã Bình Long. Điều
này đã tạo tâm lý ổn định cho người dân tích
cực tham gia hoạt động chăm sóc và bảo vệ
rừng. Cộng đồng khi bắt đầu nhận rừng sẽ
tiến hành đo đếm để xác định trữ lượng rừng
ban đầu. Hàng năm, tiến hành đo đếm cây
rừng, xác định mức tăng sinh khối và khả
năng hấp thụ CO2 của cây rừng. Từ đó, dự
đoán lượng giá khả năng hấp thụ CO2 hay
chính là tín chỉ carbon và các tín chỉ này sẽ
được mua bán trên thị trường carbon. Căn cứ
vào mức giá do Viện Chiến lược, Chính sách
tài nguyên và Môi trường (Bộ Khoa học và
Công nghệ) cung cấp để tính quy đổi giá trị
tín chỉ carbon thành tiền cho 1 ha rừng với tỷ
giá bán 5 USD/tấn CO2 tại thị trường.
Nếu chia đều cho tất cả các hộ (1.449 hộ)
tham gia vào hoạt động LNCĐ của HTX,
trung bình mỗi hộ được chi trả 1.054.700
VNĐ/ năm.
Hiện nay, dự án tiến hành chi trả theo diện
tích rừng được giao quản lý, tính đến năm
2017 có 20 xóm trữ lượng rừng đạt tiêu chuẩn
được chi trả, số tiền mỗi hộ được nhận trình
bày tại hình 3.
Số tiền mỗi hộ được nhận có sự chênh lệch
khá lớn hộ thấp nhất là 548.133 đồng, hộ
nhiều nhất được nhận 2.010.000 đồng/ năm
tùy thuộc vào diện thích tham gia bảo vệ;
trung bình được nhận 1.054.700 VNĐ/năm/hộ
mức thu nhập này tương đương với giá trị
kinh tế từ các hộ gia đình tham gia dự án 661
trồng mới 5 triệu ha rừng là 1.000.000
đồng/ha [4], thì giá trị kinh tế từ LNCĐ tại xã
Bình Long chưa thực sự nổi bật nhưng đã góp
phần thu hút được sự tham gia của người dân
trong công tác bảo vệ rừng, góp phần cải
thiện cuộc sống của người dân ở đây.
Bảng 1. Giá trị kinh tế do hấp thụ CO2 mang lại tại rừng tự nhiên núi đá xã Bình Long
STT Hạng mục Đơn vị Lượng
1 Lượng CO2 thời điểm bắt đầu dự án* tấn/ha 160,82
2 Lượng CO2 thời điểm hiện tại ** tấn/ha 207,87
3 Lượng CO2 tăng trưởng tấn/ha 47,05
4 Đơn giá USD/ha 5
5 Thành tiền USD/ha 235,24
6 Tổng giá trị trong 1099 ha nghìn đồng 6.023.720
(Nguồn: Số liệu tính toán của tổ kỹ thuật HTX Bình Long 2012*, 2017**)
Hình 3. Số tiền được chi trả theo diện tích bảo vệ của mỗi hộ trong năm (triệu đồng)
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
93
Vai trò LNCĐ đối với lâm sinh và bảo vệ
môi trường
Nâng cao chất lượng rừng
Với mục tiêu bảo vệ tốt diện tích rừng vốn có,
tạo điều kiện cho rừng phục hồi và phát triển,
chất lượng rừng tại xã Bình Long đã có
chuyển biến tích cực. Điều này được thể hiện
qua biến động diện tích các loại rừng của xã.
Diện tích rừng trồng tăng từ 241,3 ha năm
2010 đến nay là 756,4 ha và rừng tự nhiên núi
đá tăng từ 764,3 ha năm 2010 đến nay là
1099,1 ha, trong đó rừng trồng tăng 515,06
ha; rừng tự nhiên núi đá tăng 334,8 ha đồng
thời với đó diện tích núi đá không rừng giảm
334,8 ha. Diện tích rừng trồng tăng lên là do
các hộ gia đình chuyển đổi mục đích sử dụng
đất từ đất nông nghiệp sang đất lâm nghiệp.
Diện tích rừng tự nhiên trên núi đá tăng là kết
quả của việc thực hiện tốt công tác khoanh
nuôi, quản lý và bảo vệ rừng của dân cư địa
phương. Có thể thấy rằng, người dân đã quan
tâm đến công tác trồng và bảo vệ rừng.
Tăng tính đa dạng sinh học
Trước đây, việc quản lý rừng còn lỏng lẻo,
nhận thức về quản lý và bảo vệ rừng của
người dân chưa cao, tình trạng người dân vào
rừng khai thác gỗ trái phép diễn ra khá phổ
biến, dẫn đến rừng bị tàn phá nghiêm trọng.
Rừng núi đá của xã Bình Long có nhiều loại
gỗ quý như Nghiến (Burretiodendron
hsienmu), Trai lý (Garcinia Fragraeoides),...
không tránh khỏi tình trạng bị khai thác kiệt
quệ, độ che phủ của rừng suy giảm nghiêm
trọng, nhiều khu vực bị trơ núi đá và cây bụi.
Tuy nhiên, theo người dân tại xã Bình Long
trong khoảng 5 năm trở lại đây, rừng đã có sự
phục hồi do cộng đồng dân cư đã tích cực
tham gia chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng, từ
đó người dân cũng ý thức hơn tầm quan trọng
của lâm nghiệp đối với cuộc sống và môi
trường sinh thái. Nhiều loài sinh vật rừng
được tái sinh, phát triển nhanh và ổn định.
Ngoài ra, việc rừng phát triển tốt đã du nhập
một số loài động vật, thực vật phát triển cùng
với các loài bản địa, làm tăng ý nghĩa đa dạng
sinh học của rừng. Đặc biệt, nhiều loài quý
hiếm đã lâm vào tình trạng sắp tuyệt chủng
được phục hồi như Nghiến, Táu, Trai lý, các
loài Sóc, Gà rừng, Bạc má... tần suất bắt gặp
ngày càng nhiều. Theo số liệu điều tra đa
dạng sinh học tại rừng núi đá Bình Long
nhóm cây gỗ có 113 loài, lâm sản ngoài gỗ
109 loài, côn trùng 36 loài, động vật 21 loài,
bò sát 17 loài, chim 58 loài [2].
Tác động của LNCĐ tới môi trường nước
Theo phản ánh của người dân xã Bình Long
thời gian từ năm 2000- 2010, rừng tự nhiên bị
khai thác kiệt, nhiều diện tích rừng bị trơ nền
đá gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới lượng
nước tại địa phương. Tình trạng thiếu nước
xẩy ra thường xuyên, suy giảm mực nước
ngầm dẫn đến cạn kiệt nước giếng, tại những
khe suối cũng thường xuyên cạn nước đặc
biệt vào mùa khô. Tuy nhiên, khi LNCĐ được
thực hiện và rừng được phục hồi thì chất
lượng nước tại địa phương cũng được cải
thiện. Theo kết quả điều tra tại các hộ gia
đình, 86,2% các hộ được hỏi cho rằng nguồn
nước hiện tại đủ cung cấp cho sinh hoạt và
sản xuất nông nghiệp. Các hộ có đủ nguồn
nước sạch hợp vệ sinh để sử dụng gồm cả
nước giếng và nước máy. Với các xóm Chịp,
Đồng Bản, Trại Rẽo do địa hình phức tạp,
cách xa trung tâm xã nên chưa thể thiết kế,
triển khai đưa nước máy về xóm, các hộ gia
đình chủ yếu dùng nước giếng khoan, nước
giếng khơi. Vào mùa khô (tháng 12, tháng 1)
vẫn xảy ra tình trạng thiếu nước ở các hộ
dùng nước giếng khơi, nhưng mức độ đã giảm
hơn trước đây. Các khe suối đã xuất hiện
dòng chảy thường xuyên và ổn định. Các hộ
gia đình cũng khai thác nguồn nước từ đây để
phục vụ cho hoạt động nông nghiệp.
Tình trạng hạn hán, lũ quét hay sạt lở đất đá
cũng hạn chế, theo báo cáo của UBND xã từ
năm 2011 đến nay mới chỉ có 1 vụ sạt lở
nhưng mức độ ảnh hưởng không đáng kể.
Vai trò của LNCĐ đối với phát triển xã hội
Mức độ tham gia quản lý rừng cộng đồng
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
94
Mức độ tham gia quản lý rừng cộng đồng
ngày càng tăng, theo thống kê từ ban quản trị
HTX Hòa Bình đến nay 100% số hộ dân
trong xã tham gia vào hoạt động quản lý, bảo
vệ rừng. Các cuộc họp HTX hay tổ tự quản có
tỷ lệ người dân tham gia họp đạt 97%. Tham
gia nhận đất, nhận rừng ngoài thực địa có
100% các hộ dân có mặt.
Hoạt động tuần tra rừng được thực hiện
nghiêm túc. Mỗi tổ tự quản đều có đội tuần
tra rừng riêng, định kỳ đi tuần tra 1 lần/tháng
với 3-5 người/lần tuần tra. Tại những điểm
rừng giáp với Lạng Sơn, Bắc Giang có thể
tuần tra 2 lần/tháng. Ngoài ra, nếu nghi ngờ
hay phát hiện có những diễn biến bất thường
(nghi ngờ cháy rừng, khai thác trái phép)
trong rừng, người dân sẽ chủ động báo cáo
cho tổ trưởng tổ tự quản và lập đội tuần tra đi
kiểm tra ngay. Mỗi lần tuần tra bảo vệ rừng,
đội tuần tra được hỗ trợ 50.000 – 70.000
đồng/ngày/người đi tuần tra, do vậy khuyến
khích được sự tham gia của cộng đồng.
Số lớp tập huấn và số người tham gia tập
huấn về quản lý rừng, kỹ thuật canh tác nông
lâm nghiệp
Với mục tiêu nâng cao năng lực quản lý,
quyền tiếp cận rừng và đất rừng, tạo ra những
tác động tích cực đến việc quản lý đất rừng,
bảo tồn thiên nhiên và phát triển các kỹ năng
phù hợp cho việc cải thiện sinh kế bền vững
của nhóm cộng đồng sống dựa vào rừng.
Nhiều lớp tập huấn, các cuộc trao đổi về kỹ
thuật quản lý rừng, kỹ thuật canh tác nông
lâm nghiệp cho người dân được triển khai
thực hiện tại xã Bình Long, như:
- Tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật nông nghiệp và xây dựng các mô hình
thử nghiệm: Giống mới, phân bón mới, ủ phân
hữu cơ vi sinh, trồng lúa cải tiến, trồng khoai
tây hàng hóa, nông lâm kết hợp rừng trồng với
cây bản địa: Gừng trâu, chè hữu cơ khoáng,
liên kết, giới thiệu đầu ra cho sản phẩm
- Thành lập tổ kỹ thuật REDD+, đào tạo một
số thành viên của HTX sử dụng máy GPS,
trực tiếp thực hiện điều tra đo đếm ô tiêu
chuẩn để đo giao rừng, điều tra giám sát trữ
lượng carbon và đa dạng sinh học. Đồng thời
cũng hỗ trợ đào tạo kỹ thuật và đo khoanh
rừng cho các HTX mới (Phương Giao, Dân
Tiến).
- Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm dự án quốc tế,
quốc gia, tỉnh, huyện và vùng dự án về phát
triển LNCĐ.
Hương ước và tình hình thực hiện các quy
định trong hương ước
Để bảo vệ và phát triển rừng bền vững, các hộ
đăng ký tham gia bảo vệ rừng tự nhiên trên
núi đá đã tổ chức hội nghị thống nhất xây
dựng và cam kết thực hiện Quy ước quản lý,
bảo vệ và phát triển rừng. Quy ước được xây
dựng dựa trên các quy định về pháp luật do
Nhà nước ban hành, tinh thần đồng thuận nhất
trí cao của cộng đồng dân cư, được UBND
huyện Võ Nhai phê duyệt và có hiệu lực từ
tháng 11/2013.
KẾT LUẬN
LNCĐ tại xã Bình Long đã đem lại hiệu quả
tích cực về mặt xã hội và môi trường, góp phần
cải thiện kinh tế cho người dân. Khi nguồn hỗ
trợ từ dự án 661 không còn nữa, thì nguồn thu
nhập từ LNCĐ cũng giúp người dân duy trì các
hoạt động quản lý và bảo vệ rừng.
Về mặt xã hội, LNCĐ đã giúp người dân
nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo
vệ rừng. Việc ra đời của các HTX tại xã Bình
Long chính là kết quả của sự đồng thuận cao
trong việc thực hiện lâm nghiệp cộng đồng tại
địa phương. Nâng cao ý thức, trách nhiệm và
quyền lợi của cộng đồng dân cư trong quản
lý, bảo vệ rừng. Diện tích rừng tự nhiên đã
tăng hơn 1.000 ha từ năm 2011 tới 2017.
Giảm diện tích núi đá không rừng, tăng mức
đa dạng sinh học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ NN&PTNT (2006), Cẩm nang ngành lâm
nghiệp, chương lâm nghiệp cộng đồng.
2. CERDA & HTX Bình Long (2015), Báo cáo
điều tra đa dạng sinh học rừng núi đá Bình Long.
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95
95
3. HTX Bình Long, Báo cáo kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh nhiệm kỳ 2012 – 2017, tháng
12 năm 2017.
4. Nguyễn Bá Ngãi (2009), “Quản lý rừng cộng
đồng ở Việt Nam: Thực trạng, vấn đề và giải
pháp”, Kỷ yếu hội thảo quốc gia về quản lý rừng
cộng đồng, tr. 4-20.
5. UBND xã Bình Long (2017), Điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội của xã Bình Long.
SUMMARY
ASSESSMENT OF COMMUNITY FOREST IN BINH LONG COMMUNE,
VO NHAI DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Thi Dong
1*
, Nguyen Thi Phuong Mai
1
, Tran Thi Le Hang
2
1Thai Nguyen University of Sciences,
2Institute of Energy – Ministry of Industry and Trade
Binh Long is a particularly poor commune of Vo Nhai District in Thai Nguyen Province with a
major economy based on agroforestry activities, the average income per head reaches 11 million
VND/ year. In recent years, people have promoted the strength of the region, economic
development in the direction of agriculture and forestry. Binh Long people have participated in
community forestry activities, contributing to the benefits of socio-economic development and
environmental protection. Raise more than 1000 ha of forest cover from 2011 to 2017, reduce the
area of non-forest rock, increase biodiversity, improve farm economy and contribute to poverty
reduction.
Key words: Community forestry, communal forest, forest protection and development, sustainable
forest management, Binh Long Commune.
Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 20/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018
*
Tel: 0987 264907, Email: dongnt@tnus.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 78_108_1_pb_3643_2127003.pdf