Tài liệu Đánh giá sinh trưởng phát triển và năng suất một số dòng đậu xanh nhập nội tại Gia Lâm, Hà Nội: 27
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018
135 days. DB15 had the shortest growth duration time with 121 days. Pest infestations included rice yellow stem
borer, brown planthopper, rice leaffolder, rice blast and sheath blight, but the experimental varieties showed good
resistance to pests and diseases (degree of 1 - 3). DT68 and J02 had the highest yields, surpassing that of other rice
varieties in the experiments, reaching 6.52 tons/ha (DT68) and 6.25 tons/ha (J02) comparing with the other tested
varieties. These two varieties had the highest milling yield, the lowest chalkiness rate (0.8%) and the best quality
(point 4).
Keywords: Inbred rice varieties, evaluation, spring crop season, Hung Yen province
Ngày nhận bài: 4/2/2018
Ngày phản biện: 12/2/2018
Người phản biện: TS. Phạm Xuân Liêm
Ngày duyệt đăng: 13/3/2018
1 Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT
MỘT SỐ DÒNG ĐẬU XANH NHẬP NỘI TẠI ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sinh trưởng phát triển và năng suất một số dòng đậu xanh nhập nội tại Gia Lâm, Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
27
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018
135 days. DB15 had the shortest growth duration time with 121 days. Pest infestations included rice yellow stem
borer, brown planthopper, rice leaffolder, rice blast and sheath blight, but the experimental varieties showed good
resistance to pests and diseases (degree of 1 - 3). DT68 and J02 had the highest yields, surpassing that of other rice
varieties in the experiments, reaching 6.52 tons/ha (DT68) and 6.25 tons/ha (J02) comparing with the other tested
varieties. These two varieties had the highest milling yield, the lowest chalkiness rate (0.8%) and the best quality
(point 4).
Keywords: Inbred rice varieties, evaluation, spring crop season, Hung Yen province
Ngày nhận bài: 4/2/2018
Ngày phản biện: 12/2/2018
Người phản biện: TS. Phạm Xuân Liêm
Ngày duyệt đăng: 13/3/2018
1 Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT
MỘT SỐ DÒNG ĐẬU XANH NHẬP NỘI TẠI GIA LÂM, HÀ NỘI
Nguyễn Thanh Tuấn1
TÓM TẮT
Thí nghiệm được tiến hành trong vụ Xuân và vụ Hè Thu năm 2017 trên đất Gia Lâm, Hà Nội nhằm đánh giá khả
năng sinh trưởng phát triển và năng suất của 17 dòng đậu xanh nhập nội từ Thái Lan và Cu Ba. Thí nghiệm được bố
trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCBD) với 3 lần nhắc lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy các dòng đậu xanh có
thời gian sinh trưởng từ 65 - 78 ngày (vụ Xuân) và 61 - 73 ngày (vụ Hè Thu). Các dòng đậu xanh tham gia thí nghiệm
sinh trưởng phát triển tốt ở cả hai vụ trồng, nhiễm nhẹ sâu cuốn lá, sâu đục quả, bệnh lở cổ rễ và bệnh đốm nâu, có
khả năng chống đổ tốt và không bị tách vỏ quả. Năng suất thực thu của các dòng đậu xanh đạt 0,84 - 1,5 tấn/ha (vụ
Xuân) và đạt 0,76 - 1,71 tấn/ha (vụ Hè Thu). Nghiên cứu đã xác định được 2 dòng thích ứng tốt và phù hợp trồng ở
điều kiện vụ Xuân và vụ Hè Thu tại Gia Lâm, Hà Nội cho năng suất cao là G8 và G16.
Từ khóa: Đậu xanh, sinh trưởng, năng suất, vụ Xuân, vụ Hè Thu
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đậu xanh (Vigna radiata L.) là cây thực phẩm
họ đậu giàu protein (22 - 28%), lipit (1 - 4%), tinh
bột (60 - 65%), các chất khác (4 - 5%) và rất nhiều
vitamin (E, B1, B2, B3, B6, C, A, K) và các khoáng
tố (Ca, Mg, K, Na, Zn, Fe, Cu,) là nguồn năng
lượng cần thiết cho con người (Keatinge et al., 2011).
Vì thế từ lâu con người đã biết chế biến nhiều thực
phẩm từ hạt đậu xanh như giá đỗ, kẹo, bánh, xôi,
chè, cháo... (Trần Văn Lài và ctv., 1993). Trong đông
y, hạt đậu xanh còn được dùng như một vị thuốc
nam: Vỏ hạt đậu xanh có vị ngọt, tính hàn có tác
dụng thanh nhiệt, mát gan, điều hòa ngũ tạng, bổ
nguyên khí, giải được nhiều thứ độc của thuốc và
kim loại, hạt đậu xanh còn dùng chữa bệnh đái tháo
đường... (Đỗ Tất Lợi, 2001).
Cây đậu xanh có thời gian sinh trưởng ngắn, khả
năng chịu hạn và thích ứng tốt nên hiện nay đậu
xanh là một trong những cây trồng tiềm năng được
nhiều nước lựa chọn để nghiên cứu phát triển trong
các chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu toàn
cầu. Tuy không được trồng với diện tích lớn như đậu
tương nhưng đối với một số quốc gia thuộc miền
Nam và Đông Nam châu Á như Thái Lan, Sri Lanka,
Ấn Độ, Myanmar, Bangladesh, Indonesia, đậu
xanh đóng một vai trò quan trọng. Đậu xanh cũng
được trồng nhiều ở Australia, Trung Quốc, Iran,
Kenya, Hàn Quốc, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, các nước
vùng Trung Đông. Hiện nay, có 29 quốc gia trồng
đậu xanh với diện tích khoảng 6 triệu ha và sản
lượng 3 triệu tấn (Nair et al., 2014). Ở Việt Nam,
đậu xanh là cây trồng có ý nghĩa quan trọng trong
hệ thống nông nghiệp, có thể được trồng xen canh,
gối vụ và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các nông
hộ, đặc biệt đối với người dân ở các tỉnh miền Trung
(Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) và Tây Nguyên
(Phạm Văn Thiều, 2009).
Ở nước ta, cây đậu xanh được trồng rải rác ở hầu
hết các vùng sinh thái, nó được xác định là cây trồng
thay thế phù hợp cho các cây trồng khác trong vụ Hè
vì sự thích ứng với thời tiết và tiềm năng kinh tế cao.
Tuy nhiên, diện tích và sản lượng đậu xanh còn hạn
chế, năng suất còn thấp, bộ giống đậu xanh ở nước
ta còn chưa phong phú. Bên cạnh đó, cây đậu xanh
không được xem là cây trồng chính, người dân chủ
yếu chỉ trồng các giống địa phương để tăng gia và
không chú trọng nhiều đến các biện pháp kỹ thuật
canh tác. Vì vậy, nghiên cứu đánh giá để tìm ra các
28
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018
dòng, giống có khả năng sinh trưởng phát triển tốt,
năng suất cao và thích ứng rộng là rất cần thiết, góp
phần đa dạng bộ giống đậu xanh ở nước ta, đáp ứng
nhu cầu sản xuất thực tiễn, cũng như tìm kiếm vật
liệu khởi đầu cho công tác chọn tạo giống đậu xanh
mới có năng suất và chất lượng tốt.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu gồm 16 dòng đậu xanh nhập
nội được chọc và làm thuần tại Học viện Nông
nghiệp Việt Nam từ năm 2012, trong đó 7 dòng từ
Cu Ba (ký hiệu từ G1 đến G7) và 9 dòng từ Thái Lan
(ký hiệu từ G8 đến G16). Giống ĐX11 được sử dụng
làm đối chứng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu
nhiên hoàn chỉnh (RBCD) với 3 lần nhắc lại. Diện
tích ô thí nghiệm là 10 m2 (4 m ˟ 2,5 m); gieo hàng
cách hàng 40 cm; khoảng cách hạt gieo là 15 cm.
2.2.2. Chỉ tiêu theo dõi
Các chỉ tiêu theo dõi áp dụng theo QCVN 01-62:
2011/BNNPTNT (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2011),
bao gồm: Thời gian sinh trưởng (ngày); chiều cao
cây (cm); số đốt /thân chính (đốt); số lá/thân chính
(lá); số cành cấp 1 (cành); mức độ nhiễm sâu bệnh
hại, khả năng chống đổ và tính tách vỏ quả; số quả
trên cây (quả); số ngăn hạt/quả (ngắn); số hạt/quả
(hạt); khối lượng 1000 hạt (g); năng suất thực thu
(tấn/ha).
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thí nghiệm được xử lý dựa trên chương
trình Excel 2010 và phần mềm IRRISTAT 5.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong vụ Xuân và vụ
Hè Thu năm 2017 tại khu thí nghiệm cây trồng cạn,
Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Vụ Xuân gieo ngày 20/2, vụ Hè Thu gieo ngày 2/7.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của
các dòng đậu xanh
Kết quả theo dõi thời gian qua các giai đoạn sinh
trưởng của các dòng đậu xanh ở bảng 1 cho thấy, ít
có sự khác biệt giữa vụ Xuân và vụ Hè Thu. Thời gian
từ gieo đến mọc của các dòng đậu xanh ở vụ Xuân
(5 - 7 ngày) dài hơn so với vụ Hè Thu (3 - 4 ngày).
Thời gian từ mọc đến ra hoa ở vụ Xuân của các dòng
đậu xanh dao động từ 35 - 47 ngày, dài hơn so với
vụ Hè Thu (32 - 40 ngày). Thời gian ra hoa của các
dòng đạt từ 10 - 18 ngày ở vụ Xuân và 9 - 15 ngày ở
vụ Hè Thu. Trong cả hai vụ trồng tất cả các dòng đều
thuộc dạng hoa nở tập trung (thời gian ra hoa dưới
15 ngày), ngoại trừ dòng G10 và G14 (16 và 18 ngày
- ở vụ Xuân; 15 và 16 ngày ở vụ Hè Thu). Giống đối
chứng có thời gian ra hoa khá tập trung, đạt 10 ngày
trong vụ Xuân và 12 ngày ở vụ Hè Thu.
Bảng 1. Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của các dòng đậu xanh ở vụ Xuân và Hè Thu năm 2017
Đơn vị tính: ngày
Ghi chú: Bảng 1, 3, 4: VX - vụ Xuân; VHT - vụ Hè Thu.
TT Kí hiệu Gieo - mọc Mọc - ra hoa Thời gian ra hoa TGST VX VHT VX VHT VX VHT VX VHT
1 ĐX11 (đ/c) 6 3 43 34 10 12 72 67
2 G1 5 4 40 35 14 10 65 64
3 G2 6 4 44 38 11 11 73 71
4 G3 5 3 43 33 14 12 74 70
5 G4 7 3 43 34 10 10 72 70
6 G5 5 4 42 33 13 10 72 69
7 G6 5 3 43 37 15 12 77 70
8 G7 5 4 42 33 11 12 70 68
9 G8 7 4 43 34 11 12 73 69
10 G9 5 3 44 38 11 11 72 70
11 G10 5 4 35 33 16 15 67 61
12 G11 6 4 44 35 10 10 72 70
13 G12 5 3 44 32 11 9 73 66
14 G13 7 4 45 40 10 13 73 67
15 G14 6 4 44 35 18 15 78 73
16 G15 5 4 47 35 13 12 76 71
17 G16 5 3 43 35 11 10 74 68
29
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018
Thời gian sinh trưởng (TGST) của các dòng đậu
xanh ở vụ Xuân dao động từ 65 - 78 ngày, trong đó
hai dòng G1 và G10 có TGST ngắn nhất, chỉ sau
65 và 67 ngày đã cho thu hoạch. Trong vụ Hè Thu,
TGST của các dòng đậu xanh ngắn hơn so với vụ
Xuân, tuy nhiên sự chênh lệch không lớn và dao
động từ 61 - 73 ngày. Dòng G1 và G10 vẫn là các
giống có TGST ngắn nhất, tương ứng giá trị 61 và 64
ngày. Giống đối chứng ĐX11 đạt 72 ngày ở vụ Xuân
và 67 ngày ở vụ Hè Thu.
3.2. Một số chỉ tiêu sinh trưởng của các dòng đậu
xanh nghiên cứu
Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu sinh trưởng của
các dòng đậu xanh trong vụ Xuân và vụ Hè Thu năm
2017 tại bảng 2 cho thấy:
- Chiều cao cây của các dòng đậu xanh trong vụ
Xuân đạt từ 65,7 - 90,4 cm, trong đó thấp nhất là các
giống G1 và G6, chiều cao dưới 70 cm, dòng G15 có
chiều cao lớn nhất (đạt 90,4 cm). Sự chênh lệch của
các dòng này so với đối chứng (đạt 80,5 cm) ở mức
có ý nghĩa thống kê. Ở vụ Hè Thu, chiều cao cây của
các dòng dao động từ 77,6 - 85,3 cm, trong đó các
dòng G7; G9; G13 và G15 có chiều cao lớn nhất (trên
80 cm). Tuy nhiên, chỉ có dòng G13 có chiều cao
vượt đối chứng (79,7 cm) ở mức có ý nghĩa.
- Số đốt/thân chính của các dòng đậu xanh ít có
sự khác biệt ở hai vụ trồng và dao động từ 11,5 - 14,3
đốt ở vụ Xuân, trong đó dòng G1 và G7 có số đốt/
thân chính thấp nhất, chỉ đạt 11,5 và 12,1 đốt. Dòng
G4 và G16 có số đốt/thân chính khá cao, đạt 13,8 và
14,3 đốt. Trong vụ Hè Thu số đốt/thân chính của các
dòng đạt từ 10,7 - 14,5 đốt, ba dòng G4; G8 và G16
có số đốt/thân chính cao nhất (trên 14 đốt). Giống
đối chứng ĐX11 có số đốt/thân chính đạt 13 đốt ở
vụ Xuân và 12,6 đốt ở vụ Hè Thu.
Bảng 2. Một số chỉ tiêu sinh trưởng của các dòng đậu xanh trong vụ Xuân và Hè Thu năm 2017
TT Kí hiệu
Chiều cao cây
(cm)
Số đốt/thân chính
(đốt)
Số lá/thân chính
(lá)
Số cành cấp 1
(cành)
Vụ
Xuân
Vụ
Hè Thu
Vụ
Xuân
Vụ
Hè Thu
Vụ
Xuân
Vụ
Hè Thu
Vụ
Xuân
Vụ
Hè Thu
1 ĐX11 (đ/c) 80,5 79,7 13,0 12,6 8,9 8,6 0,7 0,8
2 G1 65,7 73,6 11,5 11,9 7,6 7,4 0,5 0,8
3 G2 85,2 79,0 13,3 12,5 9,4 9,1 0,7 1,1
4 G3 84,2 73,9 12,7 13,2 9,1 8,7 0,5 1,0
5 G4 82,8 79,6 13,8 14,4 9,6 9,2 0,5 0,8
6 G5 80,6 77,6 13,1 13,4 9,4 9,0 0,7 0,9
7 G6 68,4 78,2 12,7 13,1 9,5 9,1 0,8 0,9
8 G7 86,7 80,6 12,1 12,4 9,0 8,6 0,9 1,1
9 G8 81,3 77,6 13,6 14,5 8,8 8,5 1,1 1,3
10 G9 83,1 81,1 12,8 12,5 9,2 8,8 0,4 0,8
11 G10 83,9 76,7 13,5 10,8 8,7 8,4 1,3 1,4
12 G11 87,4 76,3 13,5 11,6 9,4 9,0 0,7 1,1
13 G12 79,3 77,6 13,1 11,1 9,2 8,9 0,3 0,7
14 G13 79,7 85,3 12,8 13,6 9,0 8,7 0,8 1,3
15 G14 79,5 72,8 13,7 12,3 8,8 8,4 0,7 0,9
16 G15 90,4 83,9 13,0 10,7 9,7 9,3 0,6 1,1
17 G16 72,0 77,8 14,3 14,0 9,8 9,5 1,5 1,8
CV (%) 6,1 4,2 3,6 6,7 4,8 4,5 6,3 7,1
LSD0,05 3,1 2,1 0,8 1,2 0,67 0,71 0,42 0,58
- Số lá/thân chính của các dòng đậu xanh ít có sự
chênh lệch ở hai vụ trồng, dao động từ 7,6 - 9,8 lá/
thân trong vụ Xuân và từ 7,4 - 9,5 lá/thân trong vụ
Hè Thu. Ở vụ Xuân có 4 dòng có số lá dưới 9 lá/thân
gồm G1; G8; G10 và G14; giống đối chứng ĐX11 đạt
8,9 lá/thân, các dòng còn lại có số lá đều đạt trên 9
lá/thân nhưng chỉ có G15 và G16 có số lá/thân vượt
đối chứng ở mức có ý nghĩa. Trong vụ Hè Thu chỉ
có 7/17 dòng có số lá/thân chính đạt trên 9 lá/thân,
trong đó cao nhất là dòng G16, (đạt 9,4 lá/thân) vượt
30
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018
hơn giống đối chứng ĐX11 (đạt 8,6 lá/thân) ở mức
có ý nghĩa thống kê. Các dòng còn lại có số lá thấp
(dưới 9 lá/thân).
- Số cành cấp 1: Ở vụ Xuân, các dòng đậu xanh
phân cành ít hơn so với vụ Hè Thu. Số cành cấp 1
của các dòng đậu xanh dao động từ 0,3 - 1,5 cành
trong vụ Xuân và từ 0,7 - 1,8 cành trong vụ Hè Thu.
Trong vụ Hè Thu, một số dòng phân cành mạnh
hơn, tuy nhiên chỉ có dòng G10 và G16 có số cành
cao vượt trội và cao hơn đối chứng, sai khác có ý
nghĩa thống kê.
3.3. Mức độ nhiễm sâu bệnh hại, khả năng chống
đổ và tính tách vỏ quả
Kết quả theo dõi mức độ nhiễm sâu bệnh hại cho
thấy, các dòng đậu xanh nghiên cứu bị sâu cuốn lá,
sâu đục quả, bệnh lở cổ rễ và bệnh đốm nâu gây hại,
tuy nhiên mức độ gây hại ở mức nhẹ (Bảng 3).
Sâu cuốn lá không gây hại nhiều với các dòng đậu
xanh trong vụ Xuân và vụ Hè Thu năm 2017. Tỷ lệ lá
bị gây hại ở các dòng dao động từ 2,5 - 6,6% trong vụ
Xuân và từ 1,4 - 5,7% trong vụ Hè Thu. Sâu đục quả
xuất hiện khi đậu xanh bắt đầu trong giai đoạn hình
thành quả non đến khi thu hoạch quả. Kết quả cho
thấy, các dòng đậu xanh nghiên cứu đều bị sâu đục
quả gây hại ở cả hai vụ trồng, tuy nhiên mức độ gây
hại ở mức nhẹ, trong đó ở vụ Hè Thu (tỷ lệ bị hại từ
10,2 - 21,3%) mức độ gây hại nhẹ hơn so với vụ Xuân
(tỷ lệ bị hại từ 7,1 - 26,4%).
Bệnh lở cổ rễ và bệnh đốm nâu gây hại cho các
dòng đậu xanh trong cả hai vụ trồng ở mức độ nhẹ.
Trong vụ Xuân mức độ nhiễm bệnh lở cổ rễ của các
dòng ở mức 1 - 3 điểm. Ở vụ Hè Thu mức độ nhiễm
bệnh của các dòng nhẹ hơn so với vụ Xuân, chỉ ở
mức 1 - 2 điểm. Đối với bệnh đốm nâu, trong cả
hai vụ trồng các dòng đậu xanh nghiên cứu bị gây
hại ở mức nhẹ, điểm từ 1 - 2. Các dòng G10; G13;
G15; G16 và giống đối chứng ĐX11 chỉ bị hại ở mức
điểm 1.
Khả năng chống đổ của các dòng đậu xanh đều
ở mức nhẹ trong cả hai vụ Xuân và vụ Hè Thu ngoại
trừ 3 dòng là G1; G9 và G16 không bị đổ (hầu hết
các cây đều đứng thẳng). Giống đối chứng ĐX11 đổ
trung bình ở vụ Xuân, còn ở vụ Hè Thu bị đổ nhẹ.
Tất cả các dòng đậu xanh đều không bị tách vỏ quả
trong cả hai vụ trồng.
Bảng 3. Mức độ nhiễm sâu, bệnh hại, khả năng chống đổ và tính tách vỏ quả
của các dòng đậu xanh trong vụ Xuân và vụ Hè Thu năm 2017
TT Kí hiệu
Sâu cuốn lá
(%)
Sâu đục quả
(%)
Bệnh lở cổ rễ
(điểm)
Bệnh đốm
nâu (điểm) Khả năng chống đổ
VX VHT VX VHT VX VHT VX VHT VX VHT
1 ĐX11 (đ/c) 3,5 3,3 25,2 12,8 2 2 1 1 Trung bình Nhẹ
2 G1 2,8 1,4 21,4 12,6 1 1 2 1 Không đổ Không đổ
3 G2 3,9 2,6 24,0 17,5 1 1 2 2 Nhẹ Nhẹ
4 G3 6,4 1,5 26,4 12,8 2 1 2 1 Nhẹ Nhẹ
5 G4 5,6 3,3 7,1 12,4 2 1 2 2 Trung bình Trung bình
6 G5 3,7 3,1 15,1 12,7 3 2 1 2 Nhẹ Nhẹ
7 G6 2,9 2,3 24,2 21,3 2 1 2 1 Nhẹ Nhẹ
8 G7 4,7 3,0 23,6 15,4 1 1 2 2 Nhẹ Nhẹ
9 G8 3,8 2,0 15,6 12,1 2 1 1 2 Nhẹ Không đổ
10 G9 3,2 3,7 16,6 12,7 2 1 2 1 Không đổ Không đổ
11 G10 3,6 2,2 11,2 10,2 2 1 1 1 Nhẹ Nhẹ
12 G11 2,6 4,1 13,3 12,3 3 2 2 1 Nhẹ Nhẹ
13 G12 2,9 4,7 17,2 18,1 2 1 1 2 Nhẹ Trung bình
14 G13 4,4 3,8 20,0 15,6 2 1 1 1 Nhẹ Không đổ
15 G14 4,3 2,6 15,3 13,0 2 2 2 1 Nhẹ Nhẹ
16 G15 6,6 5,7 21,5 18,4 1 1 1 1 Nhẹ Nhẹ
17 G16 2,5 2,3 8,2 7,6 2 1 1 1 Không đổ Không đổ
31
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018
Bảng 4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng đậu xanh
trong vụ Xuân và vụ Hè Thu năm 2017
3.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
của các dòng đậu xanh
Kết quả thí nghiệm ở bảng 4 cho thấy:
- Số quả/cây: Trong điều kiện vụ Xuân 2017, số
quả/cây của các dòng đậu xanh thấp hơn so với vụ
Hè Thu và dao động từ 8,8 - 15,4 quả, trong đó G8
và G16 có số quả/cây cao nhất, đạt 14 và 15,4 quả.
Còn ở vụ Hè Thu số quả/cây của các dòng đậu xanh
nghiên cứu cao hơn và đạt từ 10,5 - 16,8 quả. Các
dòng G2; G13 và G16 có số quả/cây cao nhất (trên
15 quả). Giống đối chứng ĐX11 có số quả/cây ở vụ
Xuân là 10,2 quả, vụ Hè Thu - 10,5 quả/cây.
- Số ngăn hạt/quả của các dòng đậu xanh dao
động từ 11,7 - 14,1 ngăn hạt ở vụ Xuân và từ 12,2 -
14,2 ngăn hạt ở vụ Hè Thu. Giống đối chứng ĐX11
có số ngăn hạt/quả đạt ở vụ Xuân và vụ Hè Thu lần
lượt là 12,0 và 12,4 ngăn hạt.
- Số hạt/quả của các dòng đậu xanh biến động
từ 8,6 - 11,2 hạt/quả ở vụ Xuân và từ 9,7 - 11,3
hạt/quả ở vụ Hè Thu. Trong vụ Xuân hai dòng G3
và G7 có số hạt/quả đạt cao nhất và vượt hơn đối
chứng ở mức so ý nghĩa thống kê (đạt 11,2 và 11,1
hạt/quả). Ở vụ Hè Thu, số hạt/quả không có sự
khác biệt và ít chênh lệch so với đối chứng. Trong
số các dòng nghiên cứu chỉ có G5; G10 và G16 đạt
số hạt/quả cao trên 11 hạt/quả, tuy nhiên sự sai
khác không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng
(đạt 10,5 hạt/quả).
- Khối lượng 1000 hạt của các dòng đậu xanh
ở vụ Xuân biến động trong khoảng 45,4 - 63,5 g
và ở vụ Hè Thu khoảng 52,1 - 64 g. Các dòng G1;
G4; G8; G16 và giống đối chứng ĐX11 đều có khối
lượng 1000 hạt đạt cao trong cả hai vụ trồng (đều
trên 60 g).
- Năng suất thực thu (NSTT): Ở vụ Xuân NSTT
của các dòng đậu xanh dao động từ 0,84 - 1,5 tấn/
ha. Trong đó có 5 dòng G1; G3; G7; G8 và G16 có
NSTT đạt khá cao (đạt trên 1,4 tấn/ha) và vượt hơn
đối chứng ĐX11 (đạt 1,11 tấn/ha) ở độ tin cậy 95%.
Trong điều kiện vụ Hè Thu, NSTT của các dòng
TT Kí hiệu
Số quả/cây
(quả)
Số ngăn hạt/quả
(ngăn)
Số hạt/quả
(hạt)
Khối lượng
1000 hạt (g)
Năng suất thực
thu (tấn/ha)
VX VHT VX VHT VX VHT VX VHT VX VHT
1 ĐX11 (đ/c) 10,2 10,5 12,0 12,4 8,6 10,5 61,3 61,6 1,11 1,32
2 G1 10,3 10,6 12,2 12,8 10,3 10,4 60,8 61,4 1,46 1,48
3 G2 11,0 15,7 13,7 14,2 10,7 10,3 57,2 59,7 1,38 1,50
4 G3 12,7 12,7 12,9 13,6 11,2 11,0 52,4 61,1 1,41 1,43
5 G4 11,7 12,7 12,2 12,8 9,8 10,1 63,9 62,7 1,09 1,44
6 G5 10,7 11,3 14,1 13,8 10,8 11,3 55,9 54,8 1,07 1,42
7 G6 8,8 13,1 12,4 13,0 9,7 9,9 55,3 61,8 0,84 1,45
8 G7 10,3 12,7 12,9 13,5 11,1 9,8 51,5 62,7 1,40 1,44
9 G8 14,0 14,5 11,8 12,4 9,3 9,7 65,3 64,0 1,50 1,71
10 G9 12,0 12,3 11,7 12,2 9,2 10,5 57,4 61,7 1,34 1,54
11 G10 11,3 13,6 11,9 12,4 9,7 11,2 48,3 52,1 1,30 1,25
12 G11 10,3 13,5 13,0 13,6 10,6 10,3 60,8 52,5 1,35 1,25
13 G12 10,0 10,8 12,5 13,1 10,2 10,1 58,5 57,1 1,09 0,76
14 G13 10,7 16,8 12,5 13,1 10,0 10,5 63,4 58,0 1,24 1,41
15 G14 11,0 12,9 11,7 12,3 9,6 10,7 57,5 56,5 1,19 1,44
16 G15 11,0 12,8 12,5 13,1 10,6 10,8 45,4 55,5 1,29 1,45
17 G16 15,4 15,8 12,7 13,6 10,7 11,1 63,5 62,1 1,49 1,70
CV (%) 8,7 7,8 5,4 4,2 4,6 6,3 4,4 4,1 8,2 3,5
LSD0,05 2,7 2,4 1,3 0,9 0,8 1,2 2,3 2,2 0,25 0,21
32
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018
đậu xanh đạt từ 0,76 - 1,71 tấn/ha. Trong đó 3 dòng
có NSTT cao vượt trội hơn đối chứng ĐX11 (đạt
1,32 tấn/ha) ở mức có ý nghĩa thống kê là G8; G9
và G16.
Qua kết quả đánh giá đã xác định hai dòng G8 và
G16 sinh trưởng phát triển tốt và cho năng suất thực
thu cao trong cả hai vụ Xuân và vụ Hè Thu.
IV. KẾT LUẬN
Các dòng, giống đậu xanh nhập nội sinh trưởng
phát triển tốt ở hai vụ trồng, có thời gian sinh trưởng
đạt 65 - 78 ngày trong vụ Xuân và từ 61 - 73 ngày
ở vụ Hè Thu. Chiều cao cây đạt 65,7 - 90,4 cm (vụ
Xuân) và 77,6 - 85,3 cm (vụ Hè Thu). Các dòng đậu
xanh nhiễm nhẹ sâu cuốn lá, sâu đục quả, bệnh lở
cổ rễ và bệnh đốm nâu ở cả hai vụ trồng, có khả
năng chống đổ tốt và không bị tách vỏ quả. Số quả/
cây và năng suất thực thu của các dòng đậu xanh ở
vụ Hè Thu (đạt 10,5 - 16,8 quả/cây; 0,76 - 1,71 tấn/
ha) cao hơn so với vụ Xuân (đạt 8,8 - 15,5 quả/cây và
0,84 - 1,5 tấn/ha. Hai dòng đậu xanh G8 và G16 sinh
trưởng phát triển tốt, phù hợp trồng trong vụ Xuân
và vụ Hè Thu cho năng suất thực thu cao hơn so với
đối chứng, đạt 1,5 và 1,49 tấn/ha (vụ Xuân); 1,71 và
1,7 tấn/ha (vụ Hè Thu).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2011. Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng
của giống đậu xanh. QCVN 01-62 : 2011/BNNPTNT.
Trần Văn Lài, Trần Nghĩa, Ngô Quang Thắng, Lê Trần
Tùng và Ngô Đức Dương, 1993. Kỹ thuật gieo trồng
Lạc, Đậu, Vừng. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội.
Đỗ Tất Lợi, 2001. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam,
NXB Y học. Hà Nội.
Phạm Văn Thiều, 2009. Cây đậu xanh: Kỹ thuật trồng
và chế biến sản phẩm. Tái bản lần thứ 6. NXB
Nông nghiệp.
Keatinge J.; W. Easdown; Y. S. Chadha and S.
Shanmugasundaram, 2011. Overcoming chron ic
malnutrition in a future warming world: the key
inportance of mungbean and vegetable soybean.
Euphytica 80: 129-141.
Nair R. M., R. Y. Yang, W. J. Easdown, D.
Thavarajah, J. A. Hughes and J. D. Keatinge, 2014.
Biofortification of mungbean (Vigna radiate L.) as
a whole food to enhance human health. J Sci Food
Agric. 93: 1805-1815.
Evaluation of growth, development and yield
of introduced mungbean lines in Gia Lam district, Hanoi city
Nguyen Thanh Tuan
Abstract
The evaluation in growth, development and yield of 17 mung bean lines introduced from Thailand and Cuba was
carried out in two growing seasons including spring and summer-autumn of 2017 in Gia Lam district, Hanoi. The
experiment was designed in a randomized complete block with three replications The results showed that all studied
mung bean lines had growth duration of 65 - 78 days (spring season) and 61 - 73 days (summer-autumn season).
Moreover, the mung bean lines grew well in both growing seasons and slightly infected by leaf folder, fruit borer,
root rot and leaf brown spot. Furthermore, our results indicated that the average yield of mung bean lines ranged
from 0.84 to 1.5 tons/ha in spring season and from 0.76 to 1.71 tons/ha in summer-autumn season. In this study,
two promising lines of mung bean with high yield potential, G8 and G16, were adapted to growing conditions in Gia
Lam district, Hanoi city.
Keywords: Mung bean, growth, yield, spring, summer-autumn
Ngày nhận bài: 17/3/2018
Ngày phản biện: 22/3/2018
Người phản biện: PGS. TS. Ninh Thị Phíp
Ngày duyệt đăng: 16/4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3_4238_2152834.pdf