Tài liệu Đánh giá nhận thức các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm của đột quỵ trên người bệnh tăng huyết áp ở bệnh viện: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 152
ĐÁNH GIÁ NHẬN THỨC CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ DẤU HIỆU SỚM
CỦA ĐỘT QUỴ TRÊN NGƯỜI BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP Ở BỆNH VIỆN
Cù Thị Thanh Tuyền*, Đỗ Văn Dũng**, Alison Merill***
TÓM TẮT
Mở đầu: Đột quỵ là một bệnh lý nguy hiểm và có tỷ lệ tử vong cao. Thiếu nhận thức về các yếu tố nguy cơ
và dấu hiệu sớm đột quỵ là nguyên nhân chính cho sự chậm trễ trong cấp cứu và điều trị đột quỵ.
Mục tiêu: Đánh giá nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm đột quỵ trên người bệnh tăng huyết
áp. Xác định mối liên quan giữa một số yếu tố với nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm đột quỵ của
người bệnh tăng huyết áp.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 208 người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Đa khoa tỉnh
Khánh Hòa từ tháng 7-9/2019.
Kết quả: 42,8% có nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ đột quỵ, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ
được kể đến nhiều nhất 64,9%. N...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 340 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá nhận thức các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm của đột quỵ trên người bệnh tăng huyết áp ở bệnh viện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 152
ĐÁNH GIÁ NHẬN THỨC CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ DẤU HIỆU SỚM
CỦA ĐỘT QUỴ TRÊN NGƯỜI BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP Ở BỆNH VIỆN
Cù Thị Thanh Tuyền*, Đỗ Văn Dũng**, Alison Merill***
TÓM TẮT
Mở đầu: Đột quỵ là một bệnh lý nguy hiểm và có tỷ lệ tử vong cao. Thiếu nhận thức về các yếu tố nguy cơ
và dấu hiệu sớm đột quỵ là nguyên nhân chính cho sự chậm trễ trong cấp cứu và điều trị đột quỵ.
Mục tiêu: Đánh giá nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm đột quỵ trên người bệnh tăng huyết
áp. Xác định mối liên quan giữa một số yếu tố với nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm đột quỵ của
người bệnh tăng huyết áp.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 208 người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Đa khoa tỉnh
Khánh Hòa từ tháng 7-9/2019.
Kết quả: 42,8% có nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ đột quỵ, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ
được kể đến nhiều nhất 64,9%. Nhận thức không đạt về dấu hiệu sớm đột quỵ là 51,5%, dấu hiệu tê và yếu liệt
vận động nửa người được kể đến nhiều nhất 51%. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức đạt các yếu tố nguy cơ
đột quỵ là trình độ văn hóa trên tiểu học, cư trú ở thành thị, thu nhập trung bình trở lên. Các yếu tố ảnh hưởng
đến nhận thức đạt dấu hiệu sớm đột quỵ là trình độ văn hóa trên tiểu học và sống một mình.
Kết luận: Nhận thức của người bệnh về yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm đột quỵ còn hạn chế. Các yếu tố
ảnh hưởng đến nhận thức đạt về các yếu tố nguy cơ đột quỵ là trình độ văn hóa trên tiểu học và cư trú ở thành
thị. Các yếu tố có ảnh hưởng đến nhận thức đạt về các dấu hiệu sớm đột quỵ là trình độ văn hóa trên tiểu học và
sống một mình.
Từ khóa: tăng huyết áp, đột quỵ, yếu tố nguy cơ, dấu hiệu sớm
ABSTRACT
EVALUATED PERCEPTION ABOUT RISK FACTORS AND WARNING SINGS OF STROKE
AMONG HYPERTENSIVE PATIENTS IN HOSPITAL
Cu Thi Thanh Tuyen, Đo Van Dung, Alison Merill
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 152 – 158
Background: Stroke is a dangerous disease and has a high mortality rate. Lack of perception of risk factors
and early signs of stroke is the main cause for delays in emergency care and stroke treatment.
Objectives: Assess awareness of risk factors and stroke warning signs in hypertensive patients.
Determine the relationship between some factors with awareness of risk factors and stroke warning signs of
hypertensive patients
Method: A cross-sectional study of 208 hypertensive patients at Khanh Hoa General Hospital from July to
September 2019
Results: 42.8% of participant are unware of risk factors for stroke, hypertension is the most common
risk factor was aware (64.9%). 51.5% of participants are unaware of early signs of stroke, numbness and
weakness in half-body were aware in 51% of participant as a early sign. Factors affect perception of risk
factors for stroke are education, residence, and income. Factors that affect perception of early signs of stroke
*Khoa Điều dưỡng - Trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa
**Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ***Trường Đại học Điều dưỡng Bắc Colorado
Tác giả liên lạc: ThS.ĐD. Cù Thị Thanh Tuyền ĐT: 0906457144 Email: ctttuyencyk@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 153
are education and marriage status.
Conclusion: The perception of risk factors and early signs of stroke among hypertensive patients are limited.
Factors affect perception of risk factors for stroke are education level and residence. Factors affect perception of
early signs of stroke are education level and marriage status.
Keywords: hypertension, stroke, risk factors, warning signs
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ là tình trạng bệnh lý nguy hiểm gây
ra tỷ lệ tử vong đứng thứ hai và là nguyên nhân
gây ra khuyết tật thần kinh ở người lớn hàng
đầu trên toàn thế giới(11). Thống kê tại Mỹ(2,12) cho
thấy mỗi 40 giây có một người bị đột quỵ, mỗi 4
phút có một trường hợp tử vong do đột quỵ,
90% người bệnh đột quỵ để lại khuyết tật chỉ có
10% hồi phục hoàn toàn.
Ở Việt Nam theo thống kê của Bộ Y tế(3), tử
vong do đột quỵ đứng đầu trong các nguyên
nhân gây tử vong ở cả nam và nữ giới. Mỗi năm
có khoảng 15.990 người bị liệt, tàn phế, mất sức
lao động do đột quỵ. Chi phí trực tiếp để điều trị
đột quỵ tiêu tốn 144 tỷ đồng mỗi năm, đây là
một gánh nặng cho hệ thống y tế. Để làm giảm
gánh nặng này công tác dự phòng và điều trị
sớm đột quỵ là vấn đề hết sức quan trọng. Điều
này liên quan trực tiếp tới nhận thức của người
bệnh đối với các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm
của đột quỵ não.
Tuy nhiên, nhận thức về đột quỵ (ĐQ) của
người bệnh tăng huyết áp còn hạn chế và người
có nguy cơ cao thường đánh giá thấp xác suất
ĐQ của họ. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá nhận thức về các yếu tố nguy cơ,
dấu hiệu sớm của đột quỵ trên người bệnh tăng
huyết áp.
Xác định mối liên quan giữa nhận thức các
yếu tố nguy cơ và dấu hiệu sớm đột quỵ với một
số yếu tố.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả người bệnh có tăng huyết áp đang
được điều trị tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh
Hòa, thời gian từ tháng 1/2019 tới tháng 6/2019.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Người bệnh được chẩn đoán tăng huyết áp
theo tiêu chuẩn JNC 8, trên 18 tuổi, đủ khả
năng nhận thức và giao tiếp, đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những người bệnh có tiền sử bị đột quỵ
trước đó, có vấn đề về tâm lý, rối loạn ý thức,
không có khả năng nghe, nói, hiểu tiếng Việt.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
n = 208.
Công cụ thu thập dữ liệu
Tất cả các đối tượng được phỏng vấn theo
kiểu mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi đã được soạn
sẵn bao gồm các nội dung: Đặc điểm về nhân
khẩu học; Nhận thức của người bệnh về các yếu
tố nguy cơ của đột quỵ và Nhận thức của người
bệnh về các dấu hiệu sớm của đột quỵ
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 22.
Thống kê mô tả (tần số, tỷ lệ %) và thống kê
phân tích (phép kiểm Chi bình phương, hồi quy
logistic) được sử dụng để phân tích số liệu.
Y đức
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Y
đức Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số
60/ĐHYD-HĐĐD.
KẾT QUẢ
Các đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng
nghiên cứu
Đa số người tham gia nghiên cứu này có độ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 154
tuổi từ 65 trở lên, trong đó lớn nhất là 96 tuổi và
nhỏ nhất là 26 tuổi, độ tuổi trung bình là
65,04±14,23. Tỷ lệ giữa nam và nữ là gần tương
đương nhau. Phần lớn người tham gia là dân
buôn bán (34,6%). Gần 3/4 đối tượng tham gia
nghiên cứu sống ở thành thị (71,6%). Trình độ
trung học phổ thông chiếm tỷ lệ cao nhất (28,4).
Đa số đang sống cùng vợ (chồng) (71,2%) và có
thu nhập bình quân thấp (77,4%) (Bảng 1).
Bảng 1. Các đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng
nghiên cứu
Đặc điểm N Tỷ lệ %
Tuổi Dưới 65 tuổi 97 46,6
Từ 65 tuổi trở lên 111 53,4
Nghề nghiệp Thất nghiệp 65 31,3
Buôn bán 72 34,6
Làm nông 40 19,2
Công nhân – Viên chức 20 9,6
Khác 11 5,3
Địa chỉ Nông thôn 59 28,4
Thành thị 149 71,6
Hôn nhân Sống cùng vợ (chồng) 148 71,2
Sống một mình 60 28,8
Giới Nam 97 46,6
Nữ 111 53,4
Trình độ văn
hóa
Không biết chữ 16 7,7
Tiểu học 57 27,4
Trung học cơ sở 39 18,8
Trung học phổ thông 59 28,4
Cao đẳng – Đại học 37 17,8
Thu nhập Thấp 161 77,4
Trung bình trở lên 47 22,6
Nhận thức của đối tượng nghiên cứu về các yếu
tố nguy cơ và dấu hiệu sớm của đột quỵ
Bảng 2. Tỷ lệ nhận thức của đối tượng nghiên cứu về
yếu tố nguy cơ gây đột quỵ và dấu hiệu sớm gây đột
quỵ (n = 208)
Tần số (n=208) Phần trăm (%)
Nhận thức về yếu tố nguy cơ gây đột quỵ
Không đạt 87 41,8
Đạt 121 58,2
Tần số (n=208) Phần trăm (%)
Nhận thức về dấu hiệu sớm gây đột quỵ
Không đạt 105 50,5
Đạt 103 49,5
Không đạt: kể tối đa 1 YTNC/DHS; Đạt: kể ít nhất 2
YTNC/DHS
Đối tượng nghiên cứu có nhận thức đạt về
yếu tố nguy cơ gây đột quỵ chiếm tỷ lệ 58,2%,
nhận thức đạt về dấu hiệu sớm gây đột quỵ là
49,5% (Bảng 2).
Mối liên quan giữa các đặc điểm nhân khẩu
học với nhận thức về yếu tố nguy cơ và dấu
hiệu sớm của đột quỵ
Mối liên quan giữa nhận thức đạt về các yếu
tố nguy cơ đột quỵ với địa chỉ, trình độ văn hóa,
thu nhập có ý nghĩ thống kê với p <0,05. Trong
đó, người bệnh cư trú ở thành thị có số chênh về
nhận thức đạt các yếu tố nguy cơ đột quỵ gấp
2,03 lần (OR=2,03; KTC 95% 1,10–3,73) so với đối
tượng cư trú ở nông thôn. Người bệnh có trình
độ văn hóa trên tiểu học có số chênh về nhận
thức đạt các yếu tố nguy cơ đột quỵ gấp 5,21
lần (OR=5,21; KTC 95% 2,82–9,65) so với người
bệnh có trình độ văn hóa dưới tiểu học. Người
bệnh có mức thu nhập từ trung bình trở lên có số
chênh về nhận thức đạt các yếu tố nguy cơ đột
quỵ gấp 2,54 lần (OR=2,54; KTC 95% 1,23–5,25)
so với người bệnh có mức thu nhập thấp.
Mối liên quan giữa nhận thức đạt các dấu
hiệu sớm đột quỵ với trình độ văn hóa, hôn
nhân có ý nghĩ thống kê với p <0,05. Trong đó,
người bệnh có trình độ văn hóa trên tiểu học có
số chênh về nhận thức đạt các dấu hiệu sớm của
đột quỵ gấp 2,63 lần (OR=2,63; KTC 95%: 1,45-4,75)
so với người bệnh có trình độ văn hóa dưới tiểu
học. Người bệnh sống một mình có nhận thức
đạt các dấu hiệu sớm của đột quỵ thấp hơn so
với người bệnh sống cùng vợ (chồng) (OR=0,39;
KTC 95% 0,21–0,73) (Bảng 3).
Bảng 3. Mối liên quan giữa các đặc điểm nhân khẩu học với nhận thức về yếu tố nguy cơ gây đột quỵ và nhận
thức về dấu hiệu sớm gây đột quỵ
Đặc điểm
Nhận thức YTNC ĐQ Nhận thức DHS ĐQ
OR KTC 95% P OR KTC 95% P
> 65 tuổi 0,64 0,37 -1,12 0,116 1,17 0,68 – 2,02 0,572
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 155
Đặc điểm
Nhận thức YTNC ĐQ Nhận thức DHS ĐQ
OR KTC 95% P OR KTC 95% P
Nam 1,44 0,83 – 2,51 0,198 1,26 0,73 – 2,17 0,410
Trên tiểu học 0,68 0,37 – 1,24 0,204 0,59 0,33 – 1,07 0,082
Thành thị 2,03 1,10 – 3,73 0,022 1,12 0,61 – 2,05 0,708
Trên tiểu học 5,21 2,82 – 9,65 0,000 2,63 1,45 – 4,75 0,001
Trung bình trở lên 2,54 1,23 – 5,25 0,010 0,97 0,51 – 1,86 0,928
Sống một mình 0,69 0,38 – 1,26 0,226 0,39 0,21 – 0,73 0,003
Phép kiểm chi bình phương, OR (odds ratio): tỷ suất chênh, KTC: khoảng tin cậy
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức đạt các
yếu tố nguy cơ đột quỵ là trình độ văn hóa trên
tiểu học và cư trú ở thành thị. Các yếu tố có ảnh
hưởng đến nhận thức đạt các dấu hiệu sớm đột
quỵ là trình độ văn hóa trên tiểu học và sống
một mình (Bảng 4).
Bảng 4. Phân tích hồi quy đa biến logistic về mối liên
quan giữa các đặc điểm nhân khẩu học nhận thức về
yếu tố nguy cơ gây đột quỵ và nhận thức về dấu hiệu
sớm gây đột quỵ
Đặc điểm P OR KTC (95%)
Nhận thức yếu tố nguy cơ đột quỵ
Sinh sống ở thành thị 0,010 0,38 0,18 - 0,79
Trình độ văn hóa trên tiểu học 0,000 0,16 0,07 - 0,34
Nhận thức dấu hiệu sớm đột quỵ
Sống một mình 0,041 1,99 1,03 - 3,85
Trình độ văn hóa trên tiểu học 0,020 0,48 0,26 - 0,89
BÀN LUẬN
Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu
sớm của đột quỵ trên người bệnh tăng huyết áp
Những gánh nặng kinh tế và xã hội của đột
quỵ là rất lớn, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển nơi các nguồn lực là ít ỏi và có kỹ năng
nguồn nhân lực là không đầy đủ. Để giảm bớt
gánh nặng này cần có một chương trình phòng
ngừa ban đầu tốt với nền tảng là kiến thức tốt về
các yếu tố nguy cơ đột quỵ (YTNC ĐQ)(17). Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu này cho thấy nhận
thức không đạt chiếm 41,8% khi kể được tối đa 1
YTNC ĐQ. Dữ liệu thu nhận từ nghiên cứu của
Jones (2010)(9) xác định khả năng kể tên 1 YTNC
ĐQ của NB dao động từ 18%-94%. Nghiên cứu
của Al Shafaee(1) cho kết quả thấp hơn khi chỉ có
43% NB có nguy cơ đột quỵ xác định được ít
nhất 1 YTNC ĐQ. Tương tự, kết quả nghiên cứu
của Wahab(17) có tới 60 % NB không thể xác định
YTNC nào.
Những người bệnh tăng huyết áp có nguy cơ
cao bị đột quỵ. Việc nhận thức tốt các dấu hiệu
sớm đột quỵ (DHS ĐQ) rất quan trọng đối với
người bệnh, giúp họ đến bệnh viện sớm hơn,
được tiếp nhận điều trị sớm, hiệu quả hơn và
hạn chế được tối đa biến chứng do đột quỵ gây
ra. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho thấy
nhận thức của người bệnh về DHS ĐQ còn hạn
chế, có đến 50% người bệnh nhận thức không
đạt chỉ kể được tối đa 1 DHS ĐQ. Các nghiên
cứu trước đây cũng cho thấy sự hạn chế kể trên
cũng đã nhấn mạnh bởi một số tác giả: nghiên
cứu tổng quan tổng hợp bằng chứng 39 nghiên
cứu (2010)(9) cho thấy khả năng kể tên một dấu
hiệu sớm dao động từ 25% đến 75%. Kết quả
nghiên cứu của Duque (2015)(4) thực hiện bệnh
viện ở Anh cũng nhận thấy số người bệnh kể
được ít nhất một dấu hiêu sớm chiếm tỷ lệ
74,2%. Bên cạnh đó, nghiên cứu ở cộng đồng còn
cho kết quả thấp hơn: nghiên cứu của Anne
Hickey (2012)(8) cho thấy chỉ có 69% người bệnh
kể được tối đa 1 dấu hiệu sớm đột quỵ.
Như vậy, kết quả cho thấy sự nhận thức của
người bệnh về các yếu tố nguy cơ đột quỵ và
dấu hiệu sớm của đột quỵ còn hạn chế đặc biệt ở
nhóm người bệnh nguy cơ cao như tăng huyết
áp. Trong khi đó, để việc dự phòng đột quỵ hiệu
quả chúng ta cần người bệnh có nhận thức tốt về
các yếu tố nguy cơ. Điều này tác động trực tiếp
đến việc quản lý bệnh và thay đổi lối sống
không tốt, duy trì và phát triển lối sống lành
mạnh tốt cho sức khỏe. Bên cạnh đó, về mặt lý
thuyết, cứ mỗi phút trôi qua có gần 2 triệu tế bào
não mất đi(7). Như vậy có thể thấy tổn thương
não do đột quỵ gây ra có diễn tiến rất nhanh và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 156
khả năng hồi phục lại kém.
Điều đó càng nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc cần nâng cao nhận thức của người bệnh
về dấu hiệu sớm đột quỵ, vì:
Cải thiện nhận thức về đột quỵ làm gia tăng
sự hài lòng và giảm các triệu chứng trầm cảm và
lo lắng cho người bệnh(6).
Tăng cường nhận thức dấu hiệu sớm cho
người bệnh về đột quỵ có thể dẫn đến việc
người bệnh được đưa đến khoa cấp cứu sớm
hơn. Để tăng khả năng tự quản lý của nhóm
người bệnh có nguy cơ cao, việc truyền thông về
các yếu tố rủi ro và sửa đổi hành vi cần được
nhấn mạnh.
Bàn luận về ảnh hưởng của một số yếu tố liên
quan đến nhận thức về yếu tố nguy cơ và dấu
hiệu sớm của đột quỵ
Đa số người bệnh trong nghiên cứu này đến
từ khu vực thành thị với tỷ lệ 71,6%, người bệnh
đến từ nông thông chiểm tỷ lệ thấp 28,4%.
Nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa nơi cư
trú với nhận thức đạt về các yếu tố nguy cơ đột
quỵ có ý nghĩ thông kê p <0,05. Trong đó, người
bệnh cư trú ở thành thị có số chênh về khả năng
nhận thức đạt các yếu tố nguy cơ đột quỵ cao
gấp 2,03 lần so với người bệnh cư trú ở nông
thôn với p <0,05, OR=2,03, KTC 95%: 1,1-3,75.
Hồi quy logistic đa biến cho thấy cư trú khu vực
thành thị có ảnh hưởng đến nhận thức đạt về
yếu tố nguy cơ đột quỵ với p=0,016, OR=0,43;
KTC 95%: 0,23–0,86. Điều này cũng được khẳng
định bởi nghiên cứu của Fitzpatrick (2012)(5) tại
Đà Nẵng cho thấy có mối liên quan giữa nơi cư
trú và nhận thức yếu tố nguy cơ đột quỵ với
p<0,05, OR=2,36; KTC 95%: 1,41–3,97. Nghiên
cứu của Wahab (2008)(17) cũng đồng quan điểm
khi cho thấy việc cư trú ở thành thị có liên quan
đến khả năng nhận thức chính xác một số yếu tố
nguy cơ đột quỵ ở nhóm người bệnh có nguy cơ
cao với (p=0,011, OR=2,73; KTC 95%: 1,26–5,92).
Trong nghiên cứu này không tìm thấy mối liên
quan giữa nơi cư trú và nhận thức đạt về dấu
hiệu sớm đột quỵ. Điều này cũng được tìm thấy
ở các nghiên cứu trước đây(14,16). Xu hướng nhận
thức về đột quỵ cao hơn ở khu vực thành thị là
điều có thể lý giải, do người bệnh ở thành thị có
cơ hội tiếp xúc với các kênh thông tin điện tử
nhiều hơn, họ cũng nhận được sự chăm sóc y tế
tốt hơn, dễ dàng được tiếp cận với dịch vụ y tế
tốt, hiện đại. Trong khi đó người dân nông thôn
gặp khó khắn hơn rất nhiều trong việc nhận
được dịch vụ y tế tốt, hiện đại. Họ cũng khó
khăn để tiếp cận với các thông tin sức khỏe hơn.
Nhận thấy điều này chúng ta cần phải xây dựng
nhiều chương trình can thiệp toàn diện, chăm sóc
và tư vấn, giá dục sức khỏe đến tận người dân.
Trong nghiên cứu này, số lượng người bệnh
có trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống chiếm
đa số với tỷ lệ 64,9% trong đó tỷ lệ người bệnh
không biết chữ chiếm 7,7%. Qua phân tích đơn
biến và đa biến (Bảng 3 và Bảng 4) cho thấy có
mối liên quan giữa nhận nhận thức đạt về DHS
ĐQ và trình độ học vấn trên tiểu học (p <0,01,
OR=0,18; KTC 95% 0,1–0,34). Tương tự có mối
liên quan giữa nhận thức đạt về dấu hiệu sớm
đột quỵ với trình độ học vấn trên tiểu học
(p<0,05, OR=0,46; KTC 95% 0,25–0,86). Điểm
tương đồng cũng có trong nghiên cứu của Al
Shafaee (2006)(1) (p=0,002; OR=6,91; KTC 95%:
2,07-22,99). Qua đây, chúng ta có thể thấy trình
độ học vấn là một yếu tố quan trọng liên quan
đến nhận thức về đột quỵ não của người bệnh
trong nhóm nguy cơ cao. Chúng ta cần xây dựng
một chương trình tuyên truyền riêng phù hợp
cho những người có trình độ học vấn thấp và có
kế hoạch theo dõi, giám sát và bổ sung nhận
thức cho họ một cách kịp thời vì khả năng tiếp
thu và ghi nhớ của họ kém hơn.
Căn cứ vào quy định của chính phủ về mức
thu nhập bình quân(15) các đối tượng trong
nghiên cứu có thu nhập thấp chiếm 77,4% là rất
cao. Thu nhập thấp đi kèm với đó là sự thiếu hụt
về các dịch vụ y tế cơ bản bao gồm cả tiếp cận
dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế, trình độ học vấn của
mỗi người. Theo Kapral (2012)(10) tỷ lệ người
bệnh có nguy cơ đột quỵ não có thu nhập cao
được tiếp cận với dịch vụ y tế nhiều hơn so với
những người bệnh có thu nhập thấp hơn (21%,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 157
18%, và 16% cho lần lượt thu nhập bình quân ở
mức cao, trung bình và thấp với OR=1,18; p<0,05;
KTC 95%: 1,03-1,29). Qua phân tích đơn biến
chúng tôi tìm ra mối liên quan giữa thu nhập
trung bình trở lên với nhận thức đạt về các yếu
tố nguy cơ đột quỵ có ý ngĩa thống kê, tuy nhiên
điều này không còn khi phân tích đa biến (Bảng
3, Bảng 4) cho thấy người có thu nhập bình quân
trung bình trở lên có sự chênh lệch về nhận thức
đạt các yếu tố nguy cơ đột quỵ cao gấp 2,54 lần
so với người có thu nhập thấp (p <0,05, OR=2,54;
KTC 95%: 1,23–5,25). Kết quả tương tự được tìm
thấy ở nghiên cứu của Hường (2016)(16) khi
người bệnh có thu nhập trung bình trở lên có xu
hướng nhận thức đạt cao gấp 2,42 lần với p<0,05;
KTC 95% 1,05–5,6.
Trong nghiên cứu này đa số người bệnh
sống cùng với gia đình (71,2%), trong khi đó số
người bệnh sống một mình chiếm tỷ lện thấp
(28,8%). Qua phân tích đơn biến và đa biến tìm
thấy mối liên quan độc lập giữa tình trạng hôn
nhân với nhận thức về dấu hiệu sớm đột quỵ có
ý nghĩa thống kê (Bảng 3 và Bảng 4). Kết quả cho
thấy những người bệnh sống chung cùng vợ
hoặc chồng có chênh lệch về nhận thức đạt dấu
hiệu sớm đột quỵ gấp 2,56 lần so với người bệnh
sống một mình với p <0,05; KTC 95% 0,21-0,73.
Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu ở
DakLak với tỷ lệ người bệnh sống cùng vợ hoặc
chồng có xu hướng nhận thức đạt về dấu hiệu
sớm đột quỵ cao gấp 3,1 lần so với người sống
một mình (p <0,05, KTC 95% 1,64–6,02)(16).
Nghiên cứu của Prak ở Hàn Quốc(13) cũng cho
kết quả tương tự.
Kết quả của nghiên cứu này không tìm thấy
mối liên quan giữa hôn nhân và nhận thức yếu
tố nguy cơ đột quỵ (Bảng 3). Kết quả này cũng
được khẳng định trong các nghiên cứu trước
đây(14,17). Những người sống một mình thường là
người già góa bụa, ly dị, độc thân do đó sẽ khó
khăn trong việc tự chăm sóc và không có khả
năng ứng phó khi xảy ra đột quỵ. Điều này sẽ
ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị đột quỵ tại
bệnh viện và đe dọa tính mạng của người bệnh.
Như vậy, khi xây dựng các chương trình giáo
dục sức khỏe cần lưu ý đến đối tượng này để họ
có thể nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ gia đình
và xã hội.
KẾT LUẬN
Nhận thức của người bệnh về yếu tố nguy cơ
và dấu hiệu sớm đột quỵ còn hạn chế.
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức đạt về
các yếu tố nguy cơ đột quỵ là trình độ văn hóa
trên tiểu học và cư trú ở thành thị.
Các yếu tố có ảnh hưởng đến nhận thức đạt
về các dấu hiệu sớm đột quỵ là trình độ văn hóa
trên tiểu học và sống một mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al Shafaee MA, et al (2006). "Perception of stroke and
knowledge of potential risk factors among Omani patients at
increased risk for stroke". BMC Neurol, 6:38.
2. Benjamin EJ, et al (2017). "Heart Disease and Stroke Statistics-
2017 Update: A Report from the American Heart Association".
Circulation, 135(10):e146-e603.
3. Bộ Y Tế (2015). Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014 -
Tăng cường kiểm soát và dự phòng kiểm soát bệnh không lây
nhiễm. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.
4. Duque S, et al (2015). "Awareness of Stroke Risk Factors and
Warning Signs and Attitude To Acute Stroke". IMED,
https://imed.pub/ojs/index.php/iam/article/view/1236.
5. Fitzpatrick AL, et al (2012). "Symptoms and risk factors for
stroke in a community-based observational sample in Viet
Nam". Journal of Epidemiology and Global Health, 2(3):155-163.
6. Forster A, et al (2012). "Information provision for stroke patients
and their caregivers". Cochrane Database Syst Rev, 11:Cd001919.
7. Go AS, et al (2014). "Heart disease and stroke statistics--2014
update: a report from the American Heart Association".
Circulation, 129(3):e28-e292.
8. Hickey A, et al (2012). "Knowledge of stroke risk factors and
warning signs in Ireland: development and application of the
Stroke Awareness Questionnaire (SAQ)". International Journal of
Stroke, 7(4):298-306.
9. Jones SP, et al (2010). "Stroke knowledge and awareness: an
integrative review of the evidence". Age Ageing, 39(1):11-22.
10. Kapral MK et al (2012). "Neighborhood income and stroke care
and outcomes". Neurology, 79(12):1200-1207.
11. Mozaffarian D, et al (2016). "Executive Summary: Heart Disease
and Stroke Statistics--2016 Update: A Report from the American
Heart Association". Circulation, 133(4):447-454.
12. Ovbiagele B, et al (2013). "Forecasting the future of stroke in the
United States: a policy statement from the American Heart
Association and American Stroke Association". Stroke,
44(8):2361-2375.
13. Park MH, et al (2006). "No difference in stroke knowledge
between Korean adherents to traditional and western medicine -
the AGE study: an epidemiological study". BMC Public Health,
6: 153.
14. Samsa GP et al (1997). "Knowledge of risk among patients at
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 158
increased risk for stroke". Stroke, 28 (5):916-921.
15. Văn phòng chính phủ Việt Nam (2015). Chuẩn nghèo tiếp cận
đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020. Quyết định số 59-
2015/QĐ-TTg.
16. Vũ Thị Thu Hường (2016). Nghiên cứu nhận thức của người
bệnh có nguy cơ cao đột quỵ não về yếu tố nguy cơ và biểu hiện
cảnh báo đột quỵ não đang điều trị tại khoa Nội, Bệnh viện đa
khoa tỉnh Đắk Lắk năm 2016. Đại học Điều dưỡng Nam Định.
17. Wahab KW, et al (2008). "Awareness of warning signs among
suburban Nigerians at high risk for stroke is poor: a cross-
sectional study". BMC Neurol, 8:8-18.
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_nhan_thuc_cac_yeu_to_nguy_co_va_dau_hieu_som_cua_do.pdf