Tài liệu Đánh giá mức độ độc lập và các yếu tố liên quan ở người bị tai biến mạch máu não tại huyện Tân Biên – Tây Ninh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 258
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐỘC LẬP VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở NGƯỜI BỊ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TẠI HUYỆN TÂN BIÊN – TÂY NINH
Nguyễn Thanh Duy*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tai biến mạch máu não (TBMMN) là nguyên nhân gây tử vong thường gặp hàng thứ hai trên
toàn thế giới. Mặt khác, có một số lượng lớn bệnh nhân còn chịu nhiều biến chứng, trở thành gánh nặng cho gia
đình và xã hội. Đặc biệt, bệnh ảnh hưởng đến khả năng tự chăm sóc bản thân của người bệnh và khả năng thực
hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu người bệnh
thường gặp phải những khó khăn nào hoạt động sống hàng ngày. Do đó, chương trình phục hồi chức năng có thể
không tối ưu. Hiểu được việc sử dụng các dịch vụ phục hồi chức năng tại địa phương hiện tại có thể giúp cải
thiện các dịch vụ này. Xác định các đặc điểm của tình hình chăm sóc tại nhà sẽ đưa ra các kiến ngh...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 379 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá mức độ độc lập và các yếu tố liên quan ở người bị tai biến mạch máu não tại huyện Tân Biên – Tây Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 258
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐỘC LẬP VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở NGƯỜI BỊ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TẠI HUYỆN TÂN BIÊN – TÂY NINH
Nguyễn Thanh Duy*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tai biến mạch máu não (TBMMN) là nguyên nhân gây tử vong thường gặp hàng thứ hai trên
toàn thế giới. Mặt khác, có một số lượng lớn bệnh nhân còn chịu nhiều biến chứng, trở thành gánh nặng cho gia
đình và xã hội. Đặc biệt, bệnh ảnh hưởng đến khả năng tự chăm sóc bản thân của người bệnh và khả năng thực
hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu người bệnh
thường gặp phải những khó khăn nào hoạt động sống hàng ngày. Do đó, chương trình phục hồi chức năng có thể
không tối ưu. Hiểu được việc sử dụng các dịch vụ phục hồi chức năng tại địa phương hiện tại có thể giúp cải
thiện các dịch vụ này. Xác định các đặc điểm của tình hình chăm sóc tại nhà sẽ đưa ra các kiến nghị cho nhân
viên chăm sóc sức khoẻ để lên kế hoạch chăm sóc dài hạn, giảm bớt gánh nặng chăm sóc cho thành viên trong gia
đình và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Mục tiêu: Đánh giá mức độ độc lập, xác định những hoạt động hàng ngày mà người bị TBMMN gặp khó
khăn. Xác định tình hình đặc điểm sử dụng dịch vụ phục hồi chức năng (PHCN). Xác định đặc điểm người chăm
sóc trợ giúp toàn bộ ở người bị di chứng TBMMN có nhu cầu PHCN trên toàn huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Phỏng vấn trực tiếp người bệnh hoặc người nhà
của người bị TBMMN có nhu cầu tập PHCN tại huyện Tân Biên, Tây Ninh bằng thang điểm đánh giá mức độ
độc lập Barthel.
Kết quả: Có 112 người (80 nam /32 nữ) tham gia nghiên cứu. Có 88 người (78,6%) gặp khó khăn trong các
hoạt động sinh hoạt. Các hoạt động và phần trăm số người bệnh gặp khó khăn: lên xuống cầu thang (74,1%), di
chuyển 45m và tự mặc áo quần (56,3%) và tự tắm rửa (54,5%). Chỉ một nửa (50,9%) bị TBMMN được điều trị
PHCN, nhưng hình thức phục hồi chức năng chủ yếu là các phương pháp Y học cổ truyền. Nguyên nhân chính
khiến không được can thiệp PHCN là do người nhà không biết hay do cán bộ y tế không ra y lệnh. Đa số người
chăm sóc chính là phụ nữ (69,4%), thời gian chăm sóc kéo dài nhiều giờ (trên 6giờ/ ngày) và trong nhiều năm
(trên 5 năm). Nam giới và người trẻ tuổi mắc bệnh chiếm tỷ lệ cao (71,4%).
Kết luận: Đa số người bị TBMMN còn gặp khó khăn trong các hoạt động sống. Đa số còn phụ thuộc trong
các hoạt động sống. Lên xuống cầu thang, di chuyển 45m, tự mặc áo quần và tự tắm rửa là những hoạt động mà
nhiều người gặp phải khó khăn. Chỉ một nửa được điều trị PHCN, hình thức chủ yếu là can thiệp YHCT.
Nguyên nhân chính không được can thiệp PHCN là người nhà không biết hay không có y lệnh. Đa số người
chăm sóc chính là phụ nữ, thời gian chăm sóc kéo dài nhiều giờ trong ngày và nhiều năm. Nam giới và người trẻ
tuổi mắc bệnh chiếm tỷ lệ cao.
Từ khóa: Hoạt động sống hàng ngày, phục hồi chức năng tai biến mạch máu não.
* Bộ môn Vật lý trị liệu- Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: Ths Nguyễn Thanh Duy, ĐT: 0973017123, Email:thduypt@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 259
ABSTRACT
EVALUATING LEVEL OF INDEPENDENCE AND DETERMINATION OF DIFFICULTIES IN THE
DAILY LIVING AMONG PEOPLE WITH STROKE IN TAN BIEN DISTRICT - TAY NINH PROVINCE
Nguyen Thanh Duy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 258 - 264
Background: Stroke is the second most common cause of death around the world. In addition to the high
mortality rate, there ảe a large number of patients with complications, which becomes a burden for their families
and the whole society. Motor impairments affect many aspects in their life. Indeed, they affect the ability to take
care of patients’selves and the ability to perform activities of daily living (ADLs). However, until now, there have
been no studies to identify which daily activity that stroke patients are experiencing. Thus, the current
rehabilitation program might not be optimised. Understanding the current use of local rehabilitation services
mighthelp us improves these services. Identifying the characteristics of home care situation will provide
recommendations for health care workers to plan for long-term care, which relieve burden of care for their family
members and improve quality of life of the patients.
Objectives: Assessing the level of independence, identifying which daily activities that are difficult for people
with stroke. Determine the characteristics of the use of rehabilitation services. Identifying the characteristics of
caregivers in all stroke patients who require rehabilitation service in Tan Bien District, Tay Ninh Province.
Methods: Cross-sectional descriptive study. Direct interview of stroke patients or their family members who
wish to participate ina rehabilitation programme in Tan Bien district, Tay Ninh province usingthe Barthel index.
Results: There were 112 people with stroke (80 men / 32 women) who participated in this study. 88 (78.6%)
subjects had difficulty in daily activities. The most difficult activities and the percentage of patients experienced
difficulty were climbing stairs (74.1%), moving 45 meters and wearing clothes (56.3%) and self-cleaning
(54.5%). Only half (50.9%) of the stroke patients received rehabilitation services, but the main form of
interventions is traditional medicine. The main reason why patients did not receive rehabilitation intervention is
that family members do not know the role of rehabilitatiton or the physicians did not prescribe rehabilitatiton
intervention. Most of the primary caregivers were women (69.4%), caring hours lasted several hours (over 6
hours per day) and for many years (over 5 years). Males and young people have high rates in this study (71.4%).
Conclusions: Most people with stroke in the community have difficulty with some activities of daily living.
The majority are more likely to depend on others for their normal life. Going up and down stairs, moving in 45
meters, wearing clothes and self-bathing are activities that many people experience difficulty. Only half of stroke
patients received rehabilitation interventions, the main form of intervention was traditional medicine. The main
reason for them did not receive rehabilitation intervention is family members do not know or have no medical
prescribe. Most caregivers are women, the duration of caring is many hours per day and took many years. Males
and young people are significantly higher.
Keywords: Activities of Daily Living (ADL), stroke rehabilitation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) được xem
là nguyên nhân gây tử vong phổ biến hàng thứ
hai trên thế giới(4,9,13,15). Tại Việt Nam, tuy không
có số liệu chính xác trên cả nước nhưng số bệnh
nhân TBMMN cũng chiếm đa số tại các khoa
thần kinh của các bệnh viện lớn(6). Bên cạnh tỷ lệ
tử vong cao, số bệnh nhân bị di chứng cũng rất
lớn và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã
hội(4,9,13). Di chứng về hoạt động ảnh hưởng đến
nhiều khía cạnh cuộc sống thường ngày và sự
tham gia hoạt động xã hội của người bệnh
nhưng trước hết là làm suy giảm khả năng tự
chăm sóc bản thân và khả năng thực hiện các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 260
hoạt động sống hàng ngày.
Tuy nhiên, người kỹ thuật viên (KTV) hay
nhân viên phục hồi chức năng (PHCN) hiện
khó có được cái nhìn cụ thể, khó biết được đầy
đủ liệu những khó khăn nào là chủ yếu ở
người bệnh. Hậu quả trong việc tập luyện là
họ có thể bỏ sót tập những hoạt động mà đa số
người bệnh gặp khó khăn. Mặt khác, việc hiểu
được tình hình cung cấp và sử dụng các dịch
vụ PHCN tại địa phương cũng giúp cải thiện
về cách thức cung cấp dịch vụ sao cho người
bệnh được hưởng lợi tối đa. Cuối cùng, cũng
cần xác định đặc điểm tình hình chăm sóc tại
nhà để có thể đưa ra đề xuất cho nhân viên y
tế có kế hoạch tập luyện lâu dài sao cho phần
nào giúp giảm nhẹ gánh nặng chăm sóc của
người thân trong gia đình. Từ đó cải thiện chất
lượng cuộc sống của người bệnh và người nhà.
Từ những lý do trên, nghiên cứu này được
thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu sau
Đánh giá mức độ độc lập, xác định những
hoạt động mà đa số người bị di chứng TBMMN
gặp khó khăn trong hoạt động sống hàng ngày.
Xác định tình hình đặc điểm sử dụng dịch vụ
PHCN.
Xác định đặc điểm người chăm sóc trợ giúp
chính ở toàn bộ người bị di chứng TBMMN có
nhu cầu PHCN trên toàn huyện Tân Biên, tỉnh
Tây Ninh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả đối tượng được chẩn đoán TBMMN
và được nhận định bởi chuyên viên y tế xã là có
thể có nhu cầu tập luyện phục hồi theo chương
trình PHCN dựa vào cộng đồng tại huyện Tân
Biên, tỉnh Tây Ninh.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những người bị TBMMN nhưng phục hồi
tốt, không gặp khó khăn gì trong cuộc sống liên
quan tới TBMMN và tự tham gia sản xuất, kiếm
sống. Những người sống trên địa bàn nhưng nói
ngôn ngữ khác và không có người trung gian
phiên dịch khi phỏng vấn thu thập số liệu.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Từ 05/06/2016 – 02/06/2017. Địa điểm thu
thập số liệu tại huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
Công cụ đo lường và phương pháp thu thập số liệu
Chỉ số Barthel (Barthel Index) là một thang
điểm có tính giá trị và độ tin cậy cao, vốn được
dùng rất phổ biến trong đo lường mức độ độc
lập của bệnh nhân TBMMN(2,8,12,16). Gồm hai
nhóm chính là nhóm hoạt động sống hàng ngày
và các nhóm hoạt động di chuyển. Tổng điểm
được tính cộng lại của mười mục và dao động từ
0 đến 100 điểm(5). Các thông tin liên quan đến
tình trạng bệnh và việc cung cấp dịch vụ PHCN
của người khuyết tậtcũng được thu thập. Người
thu thập số liệu sẽ phỏng vấn trực tiếp người
bệnh hoặc người nhà với sự hiện diện của cán bộ
chuyên trách PHCN cộng đồng.
Quản lý dữ liệu và các kiểm định xác suất thống kê
Dữ liệu được nhập vào phần mềm Excel
2007 và xử lý phân tích bằng phần mềm SPSS
20.0. Thống kê mô tả được sử dụng cho các biên
số phù hợp. Kiểm định Kolmogorov-Smirnov
(K-S) được dùng để xác định liệu các dữ liệu có
đạt phân phối chuẩn không. Nếu các giá trị này
đạt phân phối chuẩn, giá trị trung bình và độ
lệch chuẩn sẽ được ghi nhận. Ngược lại, giá trị
trung vị và khoảng tứ phân vị sẽ được báo cáo(14).
Ngoài ra, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn
cũng được báo cáo để tiện so sánh đối chiếu với
các nghiên cứu khác.
KẾT QUẢ
Trong số 226 người có di chứng TBMMN
trong danh sách người khuyết tật do cán bộ xã
cung cấp, có 116 người có nhu cầu tập PHCN do
yếu nửa người. Có 3 người bị loại do có chẩn
đoán yếu nửa người do chấn thương sọ não và 1
người do không chẩn đoán ra bệnh lý. Tổng số
112 người (80 nam/32 nữ) bị TBMMN thỏa các
tiêu chuẩn nhận vào tham gia nghiên cứu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 261
Đặc điểm của người bị di chứng TBMMN tại
huyện Tân Biên
Bảng 1. Độ tuổi, tổng số điểm theo thang Barthel,
thời gian bị bệnh đến khi tham gia nghiên cứu,
thời gian được can thiệp phục hồi sau TBMMN
Biến số Trung bình (độ
lệch chuẩn)
Trung vị (cực
tiểu, cực đại)
Tuổi
a
63,3 (13,5) 63,0 (24-86)
Tổng điểm theo thang
Barthel
66,9 (31,3) 70,0 (0-100)
Thời gian bệnh (năm) 5,6 (4,4) 5,0 (0-20)
Thời gian được can thiệp
sau TBMMN (tuần)
18,7 (36,3) 8,0 (1-216)
a Kết quả K-S test cho thấy biến số đạt phân phối chuẩn
Đặc điểm về độ tuổi, tổng điểm tính bằng
thang Barthel, thời gian bị bệnh, và thời gian đã
được tập PHCN của người bệnh tham gia
nghiên cứu được mô tả trong bảng 1.
Mức độ độc lập và các hoạt động sinh hoạt
hàng ngày thường gặp khó khăn
Mức độ độc lập theo thang điểm Barthel
Mức tổng điểm theo thang Barthel và phân
loại mức độ độc lập của người bệnh đã tham gia
nghiên cứu được trình bày trong bảng 2.
Các hoạt động sinh hoạt hàng ngày thường
gặp khó khăn
Tỷ lệ phần trăm người khuyết tật do di
chứng TBMMN gặp khó khăn trong các hoạt
động sống hàng ngày được mô tả trong biểu đồ 1.
Bảng 2. Mức điểm theo thang Barthel và phân loại
mức độ độc lập của người bệnh
Stt Mức
điểm
Mức độ độc lập Số người bệnh
(%)
1 100 Độc lập hoàn toàn 24 (21,4%)
2 85-95 Cần trợ giúp tối thiểu 25 (22%)
3 60-80 Cần trợ giúp trung bình 15 (13%)
4 0-55 Phụ thuộc 48 (42,9%)
Tổng 112 (100%)
Biểu đồ 1. Tỷ lệ phần trăm người khuyết tật cần trợ giúp trong mỗi hoạt động sống.
Tình hình và đặc điểm sử dụng dịch vụ VLTL-
PHCN
Trong số 112 người bệnh, số người được
can thiệp PHCN sau TBMMN là 57 người
(50,9%); 53 người (97,7%) được tập ngay tại
tỉnh Tây Ninh. Trong số 48 người (84,2%) được
ghi nhận về phương pháp can thiệp, chi tiết về
các loại can thiệp được tình bày trong bảng 3.
Bảng 3. Đặc điểm loại hình can thiệp phục hồi
chức năng
Stt Loại can thiệp Số lượng (%)
1 Chỉ can thiệp Y học cổ truyền 29 (60,4%)
2 Có châm cứu và tập vận động 14 (29,2%)
3 Chỉ tập vận động 2 (4%)
4 Tập với dụng cụ hoặc tự tập 3 (6%)
Tổng 48 (100%)
Trong số 55 người (49,1%) không được can
thiệp PHCN, có 49 người (89%) được ghi nhận
33.0
54.5
25.9
56.3
20.5 19.6
49.1
42.0
56.3
74.1
0.0
10.0
20.0
30.0
40.0
50.0
60.0
70.0
80.0
Ăn uống Tắm rửa Rửa mặt Mặc áo
quần
Đại tiện Tiểu tiện Sử dụng
wc
Dịch
chuyển
Di chuyển Cầu thang
Tỷ
lệ
p
h
ần
t
ră
m
n
gư
ờ
i c
ần
t
rợ
g
iú
p
Các hoạt động chức năng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 262
lý do và được thể hiện trong bảng 4 bao gồm:
Bảng 4. Lý do không tham gia can thiệp phục hồi
chức năng
Stt Lý do không tập phục hồi
chức năng
Số lượng (%)
1 Không biết và không được chỉ
định
27 (55,1%)
2 Không đủ điều kiện kinh tế 9 (18,4%)
3 Thấy không cần thiết 8 (16,3%)
4 Lý do khác (quá yếu, không đáp
ứng)
5 (10,2%)
Tổng 49 (100%)
Đặc điểm về hoạt động chăm sóc trợ giúp của
người chăm sóc
Trong số 62 người khuyết tật được ghi
nhận về đặc điểm tình hình chăm sóc tại nhà,
đặc điểm người chăm sóc thể hiện trong bảng
5. Trong số 44 trường hợp có ghi nhận về thời
gian chăm sóc mỗi ngày, có 25 (56,8%) trường
hợp chăm sóc trên 6 giờ một ngày.
Bảng 5. Đặc điểm người chăm sóc người bệnh
Stt Người chăm sóc Số lượng (%)
1 Chị 3 (4,8%)
2 Con dâu 4 (6,4%)
3 Con gái 12 (19,2%)
4 Mẹ 4 (6,4%)
5 Vợ 23(36,8%)
6 Cha 1 (1,6%)
7 Chồng 2 (3,2%)
8 Con trai 6 (9,6%)
9 Cháu, em 2 (3,2%)
10 Không có, tự chăm sóc bản thân 5 (8%)
Tổng 62 (100%)
BÀN LUẬN
Mức độ độc lập và các hoạt động sinh hoạt
hàng ngày thường gặp khó khăn
Mức độ độc lập theo thang điểm Barthel
Kết quả nghiên cứu này cho thấy mức điểm
trung bình của người có di chứng TBMMN tại
cộng đồng là 66,9 (31,3) điểm, có nghĩa họ thuộc
nhóm cần trợ giúp tối thiểu trong các hoạt động
sống hàng ngày. Theo Pham(11), mức điểm trung
bình theo thang điểm Barthel của bệnh nhân nội
trú là 54,4 (19,8), tương tự, theo Joseph(7) tại thời
điểm bắt đầu tập PHCN bệnh nhân bị TBMMN
có điểm trung bình là 58,9 (24,7). Hay tại thời
điểm xuất viện của bệnh nhân, theo Hoàng
Trọng Hạnh(6) ghi nhận, mức điểm của bệnh
nhân là 56,6 (21,2) hay theo Nguyễn Tấn Dũng(10)
là 61,1 (31,3) điểm. Tuy nhiên, khi so sánh với
những nhóm được nhận một chương trình
PHCN hoàn chỉnh, mức điểm theo thang Barthel
của nhóm người tại cộng đồng trong nghiên cứu
này lại thấp hơn. Cụ thể là 81,6 (14,9) điểm trong
nghiên cứu của tác giả Joseph(7). Tương tự,
Nguyễn Tấn Dũng(10) ghi nhận tại thời điểm một
năm sau tai biến đối với người được tập luyện
PHCN toàn diện, với mức điểm là 82,9 (22,1).
Khác biệt này có thể được giải thích do người
khuyết tật tại cộng đồng sau khi xuất viện có thể
tiếp tục tập luyện hoặc tự thích nghi với hoàn
cảnh để đạt được một khả năng độc lập tốt hơn
trong sinh hoạt nên số điểm cao hơn nhóm mới
bị, đang nằm nội trú, hay mới xuất viện. Tuy
nhiên, có thể do chưa được tập một cách bài bản,
không có phương pháp, không được tập luyện
có hệ thống từ trước nên họ không đạt được
mức điểm cao như nhóm bệnh nhân được tập
luyện với chương trình hoàn thiện.
Khả năng cao nhất của đa số người bị di
chứng TBMMN tại cộng đồng vẫn chỉ ở mức
phụ thuộc người khác trong hoạt động sống cơ
bản hàng ngày. Kết quả này tương đương với
kết quả của Vũ Văn Cường(16) khi tác giả này báo
cáo nhóm người bị TBMMN phụ thuộc trong
hoạt động hàng ngày chiếm 50% (n = 40). Tuy
nhiên, ở nghiên cứu của Cao Minh Châu(1), số
liệu người phụ thuộc tại cộng đồng lại thấp hơn
đáng kể, chỉ ở mức 23,8% (n = 629). Tác giả
Joseph(7) ghi nhận nhóm phụ thuộc có điểm số
Barthel dưới 60 chiếm đến 50% (n = 67) trong
giai đoạn mới nhập viện, nhưng sau thời gian
tập luyện phục hồi chỉ còn chiếm rất ít, chỉ còn
7,6% tổng số bệnh nhân xuất viện.
Các hoạt động người bị TBMMN thường gặp
khó khăn
Kết quả nghiên cứu này cho thấy đa số
người bị di chứng TBMMN gặp khó khăn trong
việc di chuyển lên xuống cầu thang, di chuyển,
mặc áo quần và tắm rửa, sử dụng nhà vệ sinh và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 263
dịch chuyển. Nghiên cứu của tác giả Pham(11) ghi
nhận mức độ khó khăn nhiều hơn đáng kể do
nhóm bệnh nhân được nghiên cứu của tác giả
này trong giai đoạn cấp và đang điều trị nội trú.
Joseph(7) lại ghi nhận hoạt động dịch chuyển,
mặc áo quần, tiểu tiện, tắm rửa của người bệnh
lúc xuất viện gần như không còn khó khăn.
Nguyên nhân sự khác biệt đáng kể giữa nghiên
cứu là do người bệnh của nghiên cứu này đa số
chỉ được can thiệp một số hình thức điều trị
YHCT một số ít được can thiệp tập luyện vận
động bởi KTV VLTL nên khả năng độc lập thấp
hơn. Ngoài ra còn do không có can thiệp hoạt
động trị liệu (HĐTL) để tập các hoạt động mặc
quần áo, tắm rửa Do vậy, việc tuyển chọn
chuyên viên có đầy đủ trình độ chuyên môn
HĐTL vào trong đội PHCN là việc hết sức cần
thiết để từ đó có thể cung cấp cho bệnh nhân
một chương trình hoàn thiện hơn.
Tình hình và đặc điểm sử dụng dịch vụ VLTL-
PHCN
Đặc điểm nhóm được can thiệp PHCN
Gần như toàn bộ (97,7%) người bị TBMMN
được can thiệp PHCN ngay tại địa phương.
Cho thấy nhu cầu nâng cao nhân lực và năng
lực của tuyến cơ sở để tránh quá tải cho tuyến
trên. Đa số (60,4%) lại được nhận can thiệp
theo phương pháp y học cổ truyền (YHCT)
như châm cứu, bấm huyệt, uống thuốc đông
dược mà không hề được tập luyện vận động.
Chỉ có 33,4% được tập vận động. Hướng dẫn
điều trị của các nước có tiên tiến(9) nhấn mạnh
rằng việc chỉ can thiệp bằng thuốc đông y và
châm cứu mà thôi sẽ không cải thiện chức
năng vận động của bệnh nhân TBMMN.
Nguyên nhân là tại tuyến huyện và tỉnh đa
phần chỉ có nhân viên y tế lĩnh vực YHCT.
Như vậy, người y sĩ, bác sĩ YHCT tại địa
phương rất cần được đào tạo định hướng, bổ
sung kiến thức về chuyên ngành PHCN để có
thể hiểu rõ và có biện pháp kết hợp phù hợp
và hiệu quả nhất trong điều trị PHCN cho
bệnh nhân.
Đặc điểm nhóm chưa được can thiệp PHCN
Nghiên cứu cho thấy có 49,1% người bị
TBMMN không được nhận bất kỳ hình thức
can thiệp PHCN nào. Trong số đó có 55,1% là
do không biết đến khái niệm PHCN, hay
không có chỉ định tập từ phía bác sĩ điều trị.
Điều này cho thấy ngành PHCN còn phải tiếp
tục tăng cường hoạt động phù hợp để nâng
cao nhận thức về vai trò, sự nhiệm vụ của
ngành cho các nhân viên y tế, thân nhân, bệnh
nhân biết được vai trò của PHCN.
Đặc điểm về hoạt động chăm sóc trợ giúp của
người người chăm sóc
Kết quả khảo sát cho thấy người chăm sóc
như đa số là nữ giới chiếm tỷ lệ 69,4% và có
56,8% người bệnh cần thời gian chăm sóc trên 6
giờ/ngày. Cùng với đặc điểm nhóm bệnh nhân
chủ yếu là đàn ông bị mạn tính trên 5 năm. Như
vậy, khi người chăm sóc là phụ nữ phụ giúp họ
có nguy cơ gặp nhiều nguy cơ chấn thương thể
chất trong lúc phụ giúp người bệnh. Thêm vào
đó, chăm sóc với thời gian dài mỗi ngày và kéo
dài trong nhiều năm có thể là một gánh nặng rất
lớn cho người chăm sóc. Do vậy, việc tập PHCN
đúng đắn, nâng cao tính độc lập sẽ rất quan
trọng trong việc cải thiện, duy trì chất lượng
cuộc sống của cả người bệnh và người thân sau
TBMMN.
Đặc điểm của người bị di chứng TBMMN tại
huyện Tân Biên
Nghiên cứu này cho thấy tại huyện Tân
Biên, tỉnh Tây Ninh, trong số những người bị
di chứng TBMMN có nhu cầu PHCN, nam giới
bị TBMMN chiếm tỷ lệ cao vượt trội so với nữ
giới, nam giới chiếm đến 71,4%. Độ tuổi trung
bình mắc bệnh của người bị TBMMN tại
huyện Tân Biên là 63,3 (13,5) và thuộc nhóm
tai biến mạn tính trên 5 năm. Xét về độ tuổi
trung bình, các nhóm tác giả khác báo cáo độ
tuổi trung bình gần như không khác biệt với
nghiên cứu này, độ tuổi bị trung bình là 64,4
(12,2)(11). Điểm đặc biệt trong nghiên cứu này là
khi chúng tôi tính toán, độ tuổi người bệnh
được kỳ vọng sẽ lệch về phía có tuổi cao do
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 264
bệnh này thường xảy ra ở người cao tuổi hơn
là người trẻ. Nhưng trong nghiên cứu này,
biến số tuổi lại đạt phân phối chuẩn. Điều đó
có nghĩa số lượng bệnh nhân trẻ mắc bệnh
TBMMN nhiều đáng kể, hay nói cách khác
người mắc các bệnh chuyển hóa có độ tuổi
ngày càng trẻ. Thời gian mắc bệnh trên 5 năm
cho thấy áp lực trong việc chăm sóc, gánh
nặng của bệnh này trên bản thân người khuyết
tật và người thân là lâu dài và đáng quan tâm.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này cho thấy còn nhiều người
bệnh TBMMN phụ thuộc một phần trong các
hoạt động sống hàng ngày. Đa số họ gặp khó
khăn hay không thể thực hiện hoạt động cơ bản
như lên xuống cầu thang, bậc tam cấp, đi quãng
đường dài, khó khăn khi phải tự mặc áo quần,
tắm rửa. Trong khi số người được can thiệp định
hướng PHCN đã thấp, họ lại chưa được can
thiệp hiệu quả nhất khi mà đa số chỉ được châm
cứu, bấm huyệt. Do thiếu thông tin mà đa số
nhân viên y tế và người nhà không tạo điều kiện
cho người bệnh tham gia PHCN. Bệnh TBMMN
để lại gánh nặng cho gia đình và xã hội vì người
bị chủ yếu là đàn ông ở độ tuổi lao động nên cần
có người phụ nữ ở nhà chăm sóc thường xuyên
trong ngày và kéo dài nhiều năm.
KIẾN NGHỊ
Như vậy, thay vì tập tầm vận động khớp và
sức mạnh cơ đơn thuần, người VLTL-PHCN cần
tập luyện các bài tập hướng về tác vụ và chức
năng. Nhất là các chức năng đi cầu thang, đi
đường dài. Cũng cần tập luyện và thay đổi môi
trường sống sao cho người bệnh có thể tiếp cận
và tự thực hiện hoạt động tắm rửa, mặc áo quần
một cách độc lập nhất. Quan trọng nhất là tăng
cường thay đổi nhận thức và cải thiện năng lực
chuyên môn để cả nhân viên y tế và người nhà
hiểu được vai trò PHCN từ đó người bệnh có
nhiều cơ hội tham gia chương trình PHCN ngay
tại địa phương. Có như vậy mới có thể giúp
giảm bớt gánh nặng chăm sóc của người nhà,
mang lại chất lượng sống tốt hơn cho cả người
bệnh TBMMN và người nhà trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Minh Châu (2003). Đánh giá mức độ độc lập trong sinh
hoạt hàng ngày ở bệnh nhân liệt nửa người sau tai biến mạch
máu não tại cộng đồng. Tạp chí nghiên cứu Y Học, 22(2), tr. 54-59.
2. Collin C et al (1988). The Barthel ADL Index: a reliability study.
International disability studies 10(2): 61-63.
3. Hoàng Trọng Hạnh (2015). Nghiên cứu nồng độ protein S100
và NSE máu ở bệnh nhân nhồi máu não ở giai đoạn cấp. Luận
án tiến sỹ y học, Trường Đại Học Y Dược Huế, tr. 41-49.
4. Feigin VL et al (2014). Global and regional burden of stroke
during 1990–2010: findings from the Global Burden of Disease
Study 2010. The Lancet 383(9913): 245-255.
5. Granger CV et al (1979). Stroke rehabilitation: analysis of
repeated Barthel index measures. Archives of physical medicine
and rehabilitation 60(1): 14-17.
6. Hoàng Trọng Hạnh (2015). Nghiên cứu nồng độ protein S100
và NSE máu ở bệnh nhân nhồi máu não ở giai đoạn cấp. Luận
án tiến sỹ y học, Trường Đại Học Y Dược Huế, tr. 41-49.
7. Joseph C, Rhoda A (2013). Activity limitations and factors
influencing functional outcome of patients with stroke
following rehabilitation at a specialised facility in the Western
Cape. African health sciences, 13(3), 646-654.
8. Mahorney F (1965). Functional evaluation: The Barthel index.
Maryland St Med J, 14: 61-65.
9. National Stroke Foundation (2010). Clinical Guidelines for
Stroke Management 2010. Retrieved
stroke_managment_2010_interactive.pdf
10. Nguyễn Tấn Dũng (2012), Nghiên cứu chất lượng sống và hiệu
quả phục hồi chức năng nâng cao chất lượng sống của người
bệnh sau tai biến mạch máu não tại Đà Nẵng, Luận Án Tiến Sỹ
Y Học, Trường Đại Học Y Hà Nội, tr.89-102.
11. Pham Thi Thuy Vu (2015), Factors related to the degree of
independence in daily activities of patients with cerebral
vascular accident, Master of nursing thesis, University of
medicine and pharmacy Ho Chi Minh City.p.120-122.
12. Quinn TJ et al. (2011). Barthel Index for stroke trials. Stroke
42(4): 1146-1151.
13. Roger VL et al (2012). Heart disease and stroke statistics—2012
update a report from the American heart association.
Circulation, 125(1): p. e2-e220.
14. Thabane L, Akhtar-Danesh N (2008). Guidelines for reporting
descriptive statistics in health research. Nurse researcher 15(2): 72-81.
15. Trần Văn Chương (2010). Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt
nửa người do tai biến mạch máu não, NXB Y học, tr 83-145.
16. Vũ Văn Cường (2012). Hiệu quả của phương pháp vận động
sớm đối với bệnh nhân tai biến mạch máu não ở giai đoạn cấp.
Tạp chí Y Học Thực Hành, 838(8), tr. 53-56.
17. Wade DT, Hewer RL (1987). Functional abilities after stroke:
measurement, natural history and prognosis. Journal of
Neurology, Neurosurgery and Psychiatry 50(2): 177-182.
Ngày nhận bài báo: 31/07/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_muc_do_doc_lap_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_bi_t.pdf