Tài liệu Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân COPD cao tuổi tại khoa nội điều trị theo yêu cầu Bệnh viện Thống Nhất: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 97
ĐÁNH GIÁ LÃO KHOA TOÀN DIỆN Ở BỆNH NHÂN COPD CAO TUỔI TẠI
KHOA NỘI ĐIỀU TRỊ THEO YÊU CẦU BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Hoàng Ngọc Vân*, Đặng Thị Thùy Quyên*, Lê Thị Thanh Thảo*, Hồ Thị Thanh Tâm*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân COPD cao tuổi tại khoa Nội điều trị theo yêu cầu, bệnh
viện Thống Nhất.
Phương pháp: Cắt ngang mô tả 50 bệnh nhân COPD từ 60 tuổi trở lên nhập khoa Nội Điều Trị Theo Yêu
Cầu từ 04/2018 đến 04/2019.
Kết quả: 88% bệnh nhân COPD có suy giảm hoạt động sinh hoạt cơ bản. 20% bệnh nhân COPD có
suy giảm nhận thức, 24% có hoạt động chức năng cơ bản suy giảm và 28% có nguy cơ té ngã cao. 58%
bệnh nhân COPD có nguy cơ suy dinh dưỡng và tỷ lệ suy dinh dưỡng là 18%. 82% bệnh nhân COPD sử
dụng nhiều hơn 5 thuốc mỗi ngày.
Kết luận: Bệnh nhân COPD tại khoa Nội điều trị theo yêu cầu bệnh viện Thống Nhất đều có tỷ lệ bệ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 357 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân COPD cao tuổi tại khoa nội điều trị theo yêu cầu Bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 97
ĐÁNH GIÁ LÃO KHOA TỒN DIỆN Ở BỆNH NHÂN COPD CAO TUỔI TẠI
KHOA NỘI ĐIỀU TRỊ THEO YÊU CẦU BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Hồng Ngọc Vân*, Đặng Thị Thùy Quyên*, Lê Thị Thanh Thảo*, Hồ Thị Thanh Tâm*
TĨM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá lão khoa tồn diện ở bệnh nhân COPD cao tuổi tại khoa Nội điều trị theo yêu cầu, bệnh
viện Thống Nhất.
Phương pháp: Cắt ngang mơ tả 50 bệnh nhân COPD từ 60 tuổi trở lên nhập khoa Nội Điều Trị Theo Yêu
Cầu từ 04/2018 đến 04/2019.
Kết quả: 88% bệnh nhân COPD cĩ suy giảm hoạt động sinh hoạt cơ bản. 20% bệnh nhân COPD cĩ
suy giảm nhận thức, 24% cĩ hoạt động chức năng cơ bản suy giảm và 28% cĩ nguy cơ té ngã cao. 58%
bệnh nhân COPD cĩ nguy cơ suy dinh dưỡng và tỷ lệ suy dinh dưỡng là 18%. 82% bệnh nhân COPD sử
dụng nhiều hơn 5 thuốc mỗi ngày.
Kết luận: Bệnh nhân COPD tại khoa Nội điều trị theo yêu cầu bệnh viện Thống Nhất đều cĩ tỷ lệ bệnh
đồng mắc cao, sử dụng nhiều thuốc trong ngày, suy giảm hoạt động sinh hoạt cơ bản và nguy cơ suy dinh
dưỡng cao.
Từ khĩa: suy dinh dưỡng, bệnh nhân COPD
ABSTRACT
EVALUATION OF COMPREHENSIVE GERIATRIC ASSESSMENT IN ELDERLY COPD PATIENTS
AT MEDICAL DEPARTMENT IN THONG NHAT HOSPITAL
Hoang Ngoc Van, Dang Thi Thuy Quyen, Le Thi Thanh Thao, Ho Thi Thanh Tam
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 97 – 102
Objectives: To evaluate the comprehensive geriatric assessment in elderly COPD patients at Noi Dieu Tri
Theo Yeu Cau (Medical Department) in Thong Nhat hospital.
Methods: A descriptive cross-sectiona study in 50 COPD patient aged 60 years and older at Noi Dieu Tri
Theo Yeu Cau Department in Thong Nhat hospital from 04/2018 to 04/2019.
Results: 88% of COPD patients had a decline in instrumental activities of daily living. Of which 20% had a
cognitive impairment, 24% had a decline in activities of daily living, 28% had a high risk of falls. 58% COPD
patients at risk of malnutrition, 18% were malnourished. 82% COPD patients used more than 5 medicine per day.
Conclusion: COPD patients at Noi Dieu Tri Theo Yeu Cau had a high prevalence of comorbidities, taking
multiple medicine, decline of instrumental activities of daily living and risk of malnutrition.
Keywords: risk of malnutrition, COPD patients
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các cột mốc quan trọng trong lịch sử phát
triển kỹ thuật tán sỏi qua da (PCNL) bao gồm:
Goodwin và cộng sự mơ tả kỹ thuật mở thận ra
da năm 1955(7) và Fernstrom and Johannson và
cộng sự mơ tả kỹ thuật PCNL lần đầu năm 1976(5).
Wickham năm 1979 đã mơ tả kỹ thuật trên(17,18) với
việc nong dần đường hầm vào da với vơ cảm tại
chỗ sau một vài ngày rồi lấy sỏi với mê tồn thân
bằng máy nội soi bàng quang 30o. Alken sử dụng
*Khoa Nội theo yêu cầu BV Thống Nhất, TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Hồng Ngọc Vân ĐT: 0988 881 789
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 98
kỹ thuật này để lấy các sỏi sĩt sau qua một thơng
mở thận ra da sau mổ mở(1).
Với sự tiến bộ của chẩn đốn hình ảnh và kỹ
thuật mổ, tỉ lệ thành cơng của PCNL tăng đáng
kể(13,16). Năm 1984, Wickham lần đầu mơ tả 100
bệnh nhân đầu tiên thực hiện kỹ thuật tán sỏi qua
da một thì(19), khi mà quá trình chọc dị, nong
hồn chỉnh bằng các ống nong rồi đặt vỏ Amplatz
và đặc biệt dùng máy soi thận chuyên biệt. Qua
hơn 2 thập kỷ, PCNL phát triển mạnh mẽ nhờ
vào sự phát triển của dụng cụ cũng như kỹ năng
mổ của các phẫu thuật viên niệu khoa(8,10,11,12,14).
Trong những nằm gần đây, “Mini percutaneous
nephrolithotomy” (Mini PCNL)(2,6,9) và “Tubeless
PCNL” được thực hiện với mục tiêu làm giảm
những bất tiện của kỹ thuật nêu trên.
Mini percutaneous nephrolithotomy
Chan và cộng sự mơ tả “Mini PCNL” với
máy nội soi thận 13 Fr theo một ống mở thận
ra da bằng thơng thận 8F với một thơng niệu
quản 7 Fr(2). Maheshwari và cộng sự báo cáo
việc giảm liều thuốc giảm đau nhờ thay thơng
pigtail 9 Fr mở thận ra da thay cho ống thơng
mở thận ra da 28 Fr. Việc sử dụng ống thơng
nhỏ hơn cũng cho thấy việc dị nước tiểu sau
rút thơng thận ra da cũng ngắn hơn. Một vài
nghiên cứu cũng ủng hộ dùng ống nhỏ cứng
mở thận ra da ngắn ngày sau mổ PCNL để làm
giảm bất tiện của PCNL(3,4,15). Tuy nhiên, Mini
PCNL cũng cĩ những bất lợi như khĩ khăn
trong việc quan sát vì ống kính nội soi nhỏ và
khĩ khăn trong việc sử dụng các kềm gắp sỏi.
Tubeless percutaneous nephrolithotomy
Trước đây, người ta cho rằng thơng thận giúp
cầm máu, tránh dị nước tiểu quanh thận và dẫn
lưu tồn bộ nước tiểu của thận(20). Tuy nhiên, dựa
trên nếu chỉ cần mục đích dẫn lưu nước tiểu từ
thận thì một thơng niệu quản hoặc một thơng
double-J là đủ để thay thế thơng thận ra da. Ý
tưởng về việc khơng mở thận ra da đã xuất hiện
rất sớm trong quá trình phát triển kỹ thuật PCNL.
Năm 1984, Wickham(19) đã giới thiệu kết quả 100
bệnh nhân khơng cĩ dẫn lưu trong hoặc dẫn lưu
ngồi tùy vào kết quả cuối từng trường hợp. Các
tác giả cũng cho rằng với việc khơng mở thận ra
da, bệnh nhân cĩ thể xuất viện sau 24 giờ mà vẫn
an tồn và hiệu quả. Tuy nhiên, Winfield và cộng
sự(20) báo cáo hai 2 bệnh nhân với biến chứng do
rút thơng thận sớm sau khi mổ lấy sỏi đường tiểu
trên đơn giản, họ bị mất máu nặng và dị nước
tiểu quanh thận phải truyền máu, dẫu lưu trong
và kéo dài thời gian nằm viện. Họ khuyến cáo
nên mở thận ra da trong 24 đến 48 giờ sau lấy sỏi,
và đã trở thành bước làm thường quy trên tồn
thế giới.
Năm 1997, Bellman và đồng nghiệp tiếp tục
thử nghiệm việc thay thế với kỹ thuật mở thận ra
da thường quy sau lấy sỏi bằng việc dẫn lưu
trong bằng thơng niệu quản. Thời gian nằm viện,
nhu cầu thuốc giảm đau, thời gian quay lại sinh
hoạt bình thường và chi phí đều giảm. Candela
và cộng sự cho rằng kỹ thuật khơng mở thận ra
da cĩ thể làm giảm chi phí từ 3.750 usd xuống
1.638 usd mỗi trường hợp. Một số nghiên cứu
trong những năm gần đây trên thế giới cũng cho
rằng kỹ thuật PNCL khơng mở thận ra da thì an
tồn và hiệu quả và ít hơn những bất lợi cho bệnh
nhân trong một số trường hợp cụ thể. Phần lớn
các nghiên cứu chỉ ra rằng chủ yếu là do kỹ thuật
bao gồm: một đường hầm vào thận, quá trình mổ
khơng quá 2 giờ, nhỏ hơn 3 sỏi và đường kính <
25 mm, sạch sỏi và khơng cĩ chảy máu nhiều sau
cuộc mổ.
Tại Việt Nam, phẫu thuật tán sỏi qua da
miniPerc ngày càng được sử dụng rộng khắp.
Tuy nhiên, mở thận ra da vẫn được xem là một
bước trong quy trình kỹ thuật. Với các chứng cứ
trên thế giới và tìm hiểu các nghiên cứu tại Việt
Nam, chúng tơi nhận thấy cĩ thể tiến hành
nghiên cứu về lượt bỏ việc mở thận ra da mà
khơng ảnh hưởng tới hiệu quả và an tồn của
bệnh nhân trong một số trường hợp vì chưa cĩ
bằng chứng khoa học trong tình hình Việt Nam.
Việc khơng mở thận ra da trong nghiên cứu này
nghĩa là sau mổ bệnh nhân khơng cĩ thơng mở
thận ra da và mang thơng niệu quản ra da được
rút sớm trong các ngày hậu phẫu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 99
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu tiến cứu hàng loạt ca.
Thời gian nghiên cứu
Thời gian từ tháng 9/2018 đến hết tháng
3/2019 tại bệnh viện Bình Dân do nhĩm nghiên
cứu tiến hành phẫu thuật. Nghiên cứu đã trình tại
hội đồng Y đức Bệnh viện Bình Dân.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chọn mẫu khi cĩ sỏi thận
đường kích lớn nhất từ 10 – 25 mm, cĩ chỉ định
lấy sỏi qua da miniPerc, chỉ cần một đường hầm
vào thận và thời gian tán sỏi dự kiến khơng quá 2
giờ. Loại trừ các bất thường giải phẫu, nhiễm
khuẩn đường tiết niệu chưa điều trị ổn, rối loạn
đơng máu, tổng trạng bệnh nhân cĩ các bệnh nội
khoa phức tạp đi và các trường hợp sỏi phức tạp
địi hỏi tiếp cận nhiều đường nong, kích thước
lớn hơn 25 mm. Tất cả các bệnh nhân được thực
hiện kỹ thuật tán sỏi qua da miniPerc bởi cùng
một nhĩm phẫu thuật viên và tiến hành thận
trọng. Chúng tơi sử dụng máy tán sỏi thận qua da
của Karl Storz với kích thước của Amplatz là
16,5F hoặc 20,5F. Sau khi lấy sỏi, nếu thời gian tán
sỏi khơng quá 2 giờ, khơng cĩ tổn thương đài bể
thận nghiêm trọng, mất máu ít, khơng cần can
thiệp lần sau; chúng tơi tiến hành khơng mở thận
ra da và nhĩm cịn lại phải mở thận ra da. Qua
đĩ, bước đầu đánh giá tính hiệu quả và tính an
tồn của kỹ thuật tán sỏi qua da khơng mở thận
ra da. Tính hiệu quả bao gồm: tỉ lệ sạch sỏi, thời
gian nằm viện, thời gian phẫu thuật và tính an
tồn: dùng thuốc giảm đau, tỉ lệ biến chứng theo
than điểm Clavien – Dindo cải biên.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 9/2018 đến tháng
3/2019 tại khoa Niệu A và khoa Niệu C, Bệnh viện
Bình Dân, nhĩm phẫu thuật đã thực hiện phẫu
thuật trên 34 bệnh nhân thỏa điều kiện tiến hành
nghiên cứu. Chúng tơi ghi nhận được những kết
quả như sau:
Về đặc điểm chung của bệnh nhân
Chúng tơi ghi nhận cĩ tổng số 34 bệnh nhân.
Trong đĩ tỉ lệ giới tính nam/nữ là: 23/11. Với độ
tuổi trung bình là: 50,97 ± 11,53 (tuổi).
Về tỉ lệ bên tiến hành phẫu thuật trái/phải
22/12 (bệnh nhân). Kích thước sỏi lớn nhất
trung bình là: 20,47 ± 4,27 mm. Trong đĩ cĩ 9/34
trường hợp là sỏi tái phát, đã cĩ tiền căn mổ mở
lấy sỏi thận trước đây.
Về độ ứ nước của thận ghi nhận
Cĩ 7 trường hợp thận khơng ứ nước; 7 trường
hợp thận ứ nước độ 1; 15 trường hợp thận ứ nước
độ 2; 5 trường hợp thận ứ nước độ 3.
Chúng tơi tiến hành thống kê và so sánh các
chỉ số trên ở nhĩm bệnh nhân cĩ mở thận ra da
và khơng mở thận ra da (Bảng 1).
Bảng 1. So sánh các đặc điểm chung của nhĩm bệnh nhân mở thận ra da và khơng mở thận ra da
Đặc điểm Mở thận ra da n = 11 Khơng mở thận ra da n = 23 p
Tỉ lệ giới tính nam/nữ 9/2 14/9
Tuổi trung bình (tuổi) 51,55 ± 12,92 50,7 ± 11,1 p = 0,84
Bên phẫu thuật trái/phải 5/6 17/6
Kích thước sỏi lớn nhất (mm) 21,45 ± 4,61 20 ± 4,12 p = 0,36
Sỏi tái phát 2/11 7/23 p = 0,46
Độ ứ nước của thận (bệnh nhân)
Khơng 1 2 3 Khơng 1 2 3
2 3 4 2 5 4 11 3
Trong quá trình phẫu thuật, chúng tơi đánh
giá và quyết định khơng mở thận ra da với 23
bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 67,64 % trường hợp. Trong
đĩ cĩ khơng mở thận ra da kèm đặt thơng double
J: 3/23 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ: 13,04% trường hợp.
Cĩ 20/23 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 86,96% khơng mở
thận ra da kèm khơng đặt thơng double J.
Về lý do mở thận ra da của 11 trường hợp,
chúng tơi ghi nhận: 3 trường hợp (36,36%) chảy
máu nhiều trong phẫu thuật, 5 trường hợp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 100
(36,36%) nghi ngờ nhiễm khuẩn niệu, 3 trường
hợp (27,27%) cịn sĩt sỏi.
Về thời gian mổ
Trung bình là: 90 ± 23,1 phút.
Về lượng máu mấ
Chúng tơi ghi nhận chỉ số Heamoglobin
(Hgb) trung bình trước mổ là: 13,99 ± 1,71 g/dl.
Chỉ số Hgb trung bình sau mổ là: 12,64 ± 1,41 g/dl.
Chúng tơi tiến hành vào thận với đường vào
ở đài dưới là 28 bệnh nhân và 6 bệnh nhân ở đài
trên. Chúng tơi lựa chọn nguồn năng lượng tán
sỏi với nguồn năng lượng siêu âm là 7/34 bệnh
nhân và nguồn năng lượng laser với 27/34 bệnh
nhân (Bảng 2).
Tỉ lệ sạch sỏi ngay sau mổ qua C-arm là:
27/34, chiếm 79,41% trường hợp.
Bảng 2. So sánh các đặc điểm trong quá trình phẫu
thuật của nhĩm bệnh nhân mở thận ra da và khơng mở
thận ra da
Đặc điểm Mở thận ra da
n = 11
Khơng mở thận
ra da n = 23
p
Thời gian phẫu
thuật (phút)
99,55 ± 22,74 85,43 ± 22,31 p=0,096
Hgb trước phẫu
thuật (g/dl)
14,71 ± 1,52 13,6 ± 1,75 p=0,78
Hgb sau phẫu
thuật (g/dl)
12,76 ± 1,1 12,7 ± 1,55 p=0,904
Tỉ lệ sạch sỏi ngay
sau phẫu thuật
qua C-arm
6/11 21/23 p=0,048
Đường vào đài
thận (bệnh nhân)
Đài dưới: 7
Đài trên: 4
Đài dưới: 21
Đài trên: 2
Năng lượng tán
sỏi (bệnh nhân)
Siêu âm: 4/11
Laser: 7/11
Siêu âm: 3/23
Laser: 20/23
Về kết quả sau phẫu thuật
Chúng tơi ghi nhận tình trạng sốt sau phẫu
thuật với 1/34 bệnh nhân, 1/34 bệnh nhân đau
quặn thận sau mổ, tỉ lệ 2,94%. Khơng cĩ bệnh
nhân nào bị rị nước tiểu và chảy máu sau mổ.
Về thời gian rút thơng niệu quản và thơng
niệu đạo: 53,65 ± 28,37 giờ.
Chúng tơi ghi nhận thời gian nằm viện trung
bình là: 99,53 ± 45,43 giờ.
Về tỉ lệ sạch sỏi sau tái khám 2 tuần tới 1
tháng với cận lâm sàng siêu âm hệ tiết niệu và
chụp phim X–quang hệ tiết niệu (KUB) là: 28/34
bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 82,35%.
Bảng 3. So sánh các đặc điểm sau phẫu thuật của
nhĩm bệnh nhân mở thận ra da và khơng mở thận ra da
Đặc điểm
Mở thận ra da
n = 11
Khơng mở
thận ra da
n = 23
p
Sốt sau phẫu thuật
(bệnh nhân)
0/11 1/23 p=0,49
Thời gian rút thơng
niệu quản và thơng
niệu đạo (giờ)
54,55±37,32 53,22±23,95 p=0,9
Thời gian nằm viện
(giờ)
126,55±45,65 86,61±40,12 p=0,014
Sạch sỏi sau tái
khám 2 tuần tới 1
tháng (bệnh nhân)
8/11 20/23 p=0,32
Trong nhĩm khơng mở thận ra da: thời gian
sử dụng thuốc giảm đau: 100mg Péthidine: 22%;
50mg Péthidine: 13%; khơng dùng Péthidine:
65%. Tất cả bệnh nhân cĩ thể đi lại từ ngày thứ
hậu phẫu thứ 2 và chỉ cần dùng paracetamol 0,5g
uống (Bảng 3, Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. Phân bố thời gian hậu phẫu giữa nhĩm
khơng mở thận và cĩ mở thận ra da
BÀN LUẬN
Về tính hiệu quả như tỉ lệ sạch sỏi, thời gian
nằm viện, thời gian phẫu thuật.
Chúng tơi tiến hành so sánh về tỉ lệ sạch sỏi
với một số tác giả (Bảng 4).
Tỉ lệ sạch sỏi (SFR: Stone free rate) của chúng
tơi bước đầu cho thấy khơng thay đổi so với các
tác giả về SFR 83,35%. Theo chúng tơi tỉ lệ này cĩ
thể tăng lên theo đường cong học tập và quá trình
tích lũy kinh nghiệm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 101
Bảng 4: So sánh về tỉ lệ sạch sỏi với một số tác giả
Tác giả Số trường hợp Tỉ lệ sạch sỏi (%)
Desai (2013) 36 97,2
Datta (2015) 94 81
Wilhelm (2015) 25 92
Shah (2015) 22 81,8
Schoenthaler (2015) 30 84
Karakan (2016) 47 89,3
Chúng tơi (2018) 34 82.35
Thời gian nằm viện kéo dài là do thủ tục bắt
buộc về bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, thời gian hậu
phẫu trung bình là 99,53 ± 45,43 giờ. Số trường
hợp xuất viện sau phẫu thuật trong vịng 48 - 72
giờ của nhĩm khơng mở thận ra da là 14/23
(60,87%). Để đảm bảo tính khách quan chúng tơi
để các bác sĩ niệu đánh giá hiệu quả qua việc rút
thơng niệu quản kèm thơng niệu đạo. Sự kéo dài
do kỹ thuật tương đối mới, bệnh nhân nằm rải rác
ở nhiều khoa, một số bác sỹ lo lắng nên chưa dám
cho rút thơng niệu đạo – niệu quản trong những
ngày hậu phẫu thứ nhất và thứ hai. Đặc biệt là
những ca đầu nghiên cứu nằm tại bệnh phịng
của một bác sĩ chỉ cho rút thơng niệu quản và
thơng tiểu sau 5 ngày.
Thời gian phẫu thuật trung bình là
99,55±22,74 phút trong đĩ nhĩm khơng mở thận
ra da chỉ mất trung bình 85,43 ± 22,31 phút. Do
đặt mục tiêu khơng mở thận nên chúng tơi chọn
lựa kiểu tán sỏi vụn như bụi nên thời gian đầu cĩ
thể kéo dài hơn và những trường hợp càng về sau
càng rút ngắn dần.
Tất cả các trường hợp chỉ cần tối đa 100mg
Péthidine sau mổ từ 4-6 giờ, trong cĩ dùng 100mg
Péthidine: 22%; 50mg Péthidine: 13%; khơng
dùng Péthidine: 65%. Đây chủ yếu là thĩi quen
của bác sĩ hồi tỉnh thường dùng Péthidine sau
mổ. Tất cả bệnh nhân cĩ thể đi lại từ ngày thứ
hậu phẫu thứ 2 và chỉ cần dùng paracetamol 0,5g
uống. 65% trường hợp khơng cần dùng thuốc
giảm đau hướng thần kinh trung ương sau mổ.
Các ngày hậu phẫu cịn lại, bệnh nhân đều vận
động sớm và chỉ cần dùng paracetamol uống từ
hậu phẫu thứ hai.
Chỉ cĩ 1 trong 34 trường hợp cĩ triệu chứng
sốt sau mổ và chỉ cần dùng kháng sinh tĩnh mạch
điều trị 1 tuần mà khơng cần bất cứ can thiệp
thêm sau đĩ. Bệnh nhân lưu thơng niệu quản đến
khi cĩ kết quả nuơi cấy vi khuẩn trong máu và
nước tiểu âm tính. Bệnh nhân được rút thơng
niệu đạo bàng quang kèm với thơng niệu quản
khi sau 5 ngày và xuất viện sau 7 ngày. Ghi nhận
1 trường hợp đau quặn thận sau khi rút thơng
niệu quản ngày thứ hai; chúng tơi tiến hành tầm
sốt và ghi nhận kết quả âm tính với xét nghiệm
về nhiễm khuẩn đường tiết niệu và đáp ứng tốt
với điều trị piroxicam 20 mg sau 3 ngày. Sau đĩ,
bệnh nhân được siêu âm kiểm tra khơng cịn thận
ứ nước. Theo ghi nhận bệnh nhân sau tiểu ra máu
cục thì hết đau và nhẹ nhàng hơn.
Trong nhĩm 11 trường hợp phải mở thận ra
da, các lí do gặp phải là: sĩt sỏi (3 TH), nghi ngờ
nhiễm khuẩn đường tiết niệu (5 TH), chảy máu (3
TH). Với các trường hợp này cũng khơng cần can
thiệp thêm trong các ngày hậu phẫu gần. Sỏi sĩt
đường kính lớn nhất là 8 mm, được chỉ định điều
trị nội khoa sau đĩ. Các trường hợp nghi ngờ
nhiểm khuẩn niệu cĩ 3 trường hợp cấy nước tiểu
sau mổ âm tính và 2 trường hợp cấy dương tính
được điều trị theo kháng sinh đồ khơng ghi nhận
biến chứng. Các trường hợp chảy máu tự cầm mà
khơng cần dùng thuốc cầm máu sau đĩ.
Trong 23 trường hợp khơng cần mở thận ra
da, chỉ cĩ 1 trường hợp sốt và đáp ứng điều trị
kháng sinh tĩnh mạch 1 tuần, 1 trường hợp đau
quặn thận đáp ứng kháng viêm piroxicam 20mg
trong 3 ngày. Như vậy cĩ thể kết luận khi đã
quyết định khơng mở thận ra da thì tỉ lệ biến
chứng rất thấp và chỉ cần điều trị nội khoa, chỉ ghi
nhận 2/23 trường hợp xảy ra biến chứng độ II
theo phân độ Clavien – Dindo cải tiến. Như vậy,
việc mở thận ra da trong tán sỏi qua da miniperc
cĩ thể lược bỏ nếu thỏa các điều kiện trước và
trong mổ đã nêu mà khơng cần lo lắng về tính
hiệu quả và an tồn cho bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật tán sỏi qua da miniPerc khơng mở
thận ra da bước đầu cho kết quả tốt trên những
bệnh nhân lựa chọn (sỏi dưới 25 mm, một đường
hầm vào thận, khơng cĩ biến chứng nghiêm trọng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 102
lúc mổ, thời gian mổ khơng quá 2 giờ, khơng bất
thường giải phẫu, khơng sỏi phức tạp) với ưu thế
khơng giảm tỉ lệ sạch sỏi, nhưng vẫn giảm đau tốt
và xuất viện sớm. Chúng tơi sẽ tiếp tục mở rộng
mẫu nghiên cứu cho ra các số liệu lớn hơn nhằm
khẳng định chỉ định của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alken P, Hutschenreiter G, Günther R, Marberger M (1981).
“Percutaneous stone manipulation”. J Urol, 125:463–466.
2. Chan DY, Jarrett TW (2000). “Mini-percutaneous
nephrolithotomy”. J Endourol, 14:269– 273.
3. Cormio L, et al (2013). “Exit strategies following percutaneous
nephrolithotomy (PCNL): a comparison of surgical outcomes in
the Clinical Research Office of the Endourological Society
(CROES) PCNL Global Study”. World J Urol, 31:1239.
4. Desai MR, Kukreja RA, Desai MM, Mhaskar SS, Wani KA, Patel
SH, et al (2004). “A prospective randomized comparison of type
of nephrostomy drainage following percutaneous
nephrostolithotomy: Large bore versus small bore versus
tubeless”. J Urol, 172:565– 567.
5. Fernstrưm I, Johansson B (1976). “Percutaneous pyelolithotomy: A
new extraction technique”. Scand J Urol Nephrol, 10:257–259.
6. Garofalo M, et al (2013). “Tubeless procedure reduces
hospitalization and pain after percutaneous nephrolithotomy:
results of a multivariable analysis”. Urolithiasis, 41:pp.347.
7. Goodwin WE, Casey WC, Woolf W (1955). “Percutaneous trocar
(needle) nephrostomy in hydronephrosis”. J Am Med Assoc,
157:891–894.
8. Henriksson C, Geterud K, Grenabo L, Hedelin H, Nauclér J,
Pettersson S, et al (1989). “Percutaneous renal and ureteric stone
extraction: Report on the first 500 operations”. Scand J Urol
Nephrol, 23:291– 297.
9. Jackman SV, Docimo SG, Cadeddu JA, Bishoff JT, Kavoussi LR,
Jarrett TW (1998). “The ‘mini-perc’ technique: A less invasive
alternative to percutaneous nephrolithotomy”. World J
Urol,16:371–374.
10. Jones DJ, Russell GL, Kellett MJ, Wickham JE (1990). “The
changing practice of percutaneous stone surgery: Review of 1000
cases 1981 -1988”. Br J Urol, 66:1–5.
11. Lee JY, et al (2017). “Intraoperative and postoperative feasibility
and safety of total tubeless, tubeless, small-bore tube, and
standard percutaneous nephrolithotomy: a systematic review and
network meta-analysis of 16 randomized controlled trials”. BMC
Urol, 17:pp.48.
12. Lu Y, et al (2013). “Randomized prospective trial of tubeless
versus conventional minimally invasive percutaneous
nephrolithotomy”. World J Urol, 31:pp.1303.
13. Miller RA, Payne SR, Wickham JE (1984). “Review of accessories
for percutaneous renal surgery”. Br J Urol, 56:577– 581.
14. Paul EM, Marcovich R, Lee BR, Smith AD (2003). “Choosing the
ideal nephrostomy tube”. BJU Int, 92:672– 677.
15. Pietrow PK, Auge BK, Lallas CD, Santa-Cruz RW, Newman GE,
Albala DM, et al (2003). “Pain after percutaneous
nephrolithotomy: Impact of nephrostomy tube size”. J Endourol,
17:411– 414.
16. Segura JW (1989). “The role of percutaneous surgery in renal and
ureteral stone removal”. J Urol, 141:780–781.
17. Wickham JE, Kellet MJ (1981). “Percutaneous nephrolithotomy”.
Br Med J, 283:1571–1572.
18. Wickham JE, Kellett MJ (1981). “Percutaneous nephrolithotomy”.
Br J Urol, 53:297– 299.
19. Wickham JE, Miller RA, Kellett M.J, Payne SR (1984).
“Percutaneous nephrolithotomy: One stage or two?” Br J Urol,
56:582– 585.
20. Winfield HN, Weyman P, Clayman RV (1986). “Percutaneous
nephrostolithotomy: Complications of premature nephrostomy
tube removal”. J Urol, 136:77–79.
Ngày nhận bài báo: 15/05/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/05/2019
Ngày bài báo được đăng: 02/07/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_lao_khoa_toan_dien_o_benh_nhan_copd_cao_tuoi_tai_kh.pdf