Tài liệu Đánh giá kết quả sớm về chức năng sau phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới ở trẻ pierre robin sơ sinh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
51
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM VỀ CHỨC NĂNG SAU PHẪU THUẬT
KÉO GIÃN XƯƠNG HÀM DƯỚI Ở TRẺ PIERRE ROBIN SƠ SINH
Đặng Hoàng Thơm*, Trần Đình Phượng*, Nguyễn Văn Sơn*, Phạm Tuấn Hùng*
Nguyễn Thị Hà*, Mai Thị Hương*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới điều trị
giảm tắc nghẽn đường thở nặng, giải quyết tình trạng khó ăn uống của trẻ Pierre robin sơ sinh.
Phương pháp nghiên cứu: Có 35 trẻ có hội chướng Pierre Robin sơ sinh được phẫu thuật kéo giãn
xương hàm dưới hai bên từ năm 2015 đến 2018, tại Khoa Sọ mặt và Tạo hình, bệnh viện Nhi Trung Ương.
Phương pháp nghiên cứu tiến cứu mô tả. Các bệnh nhân được theo dõi liên tục trong 3 năm.
Kết quả: Gồm 15 trẻ nam (chiếm 42,85%) và 20 trẻ gái (57,15%) trong đó có 1 trẻ sinh non dưới
35 tuần. Khoảng cách chênh lệch hàm trên hàm dưới của bệnh nhân: 14,45 ± 2,52 mm và độ dài kéo
giãn trung bì...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả sớm về chức năng sau phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới ở trẻ pierre robin sơ sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
51
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM VỀ CHỨC NĂNG SAU PHẪU THUẬT
KÉO GIÃN XƯƠNG HÀM DƯỚI Ở TRẺ PIERRE ROBIN SƠ SINH
Đặng Hoàng Thơm*, Trần Đình Phượng*, Nguyễn Văn Sơn*, Phạm Tuấn Hùng*
Nguyễn Thị Hà*, Mai Thị Hương*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới điều trị
giảm tắc nghẽn đường thở nặng, giải quyết tình trạng khó ăn uống của trẻ Pierre robin sơ sinh.
Phương pháp nghiên cứu: Có 35 trẻ có hội chướng Pierre Robin sơ sinh được phẫu thuật kéo giãn
xương hàm dưới hai bên từ năm 2015 đến 2018, tại Khoa Sọ mặt và Tạo hình, bệnh viện Nhi Trung Ương.
Phương pháp nghiên cứu tiến cứu mô tả. Các bệnh nhân được theo dõi liên tục trong 3 năm.
Kết quả: Gồm 15 trẻ nam (chiếm 42,85%) và 20 trẻ gái (57,15%) trong đó có 1 trẻ sinh non dưới
35 tuần. Khoảng cách chênh lệch hàm trên hàm dưới của bệnh nhân: 14,45 ± 2,52 mm và độ dài kéo
giãn trung bình sau điều chỉnh là 18,43 ± 2,37 mm. Đường kính khí quản trước can thiệp 3,89 ±
1,64mm và sau phẫu thuật 10,12 ± 2,23 mm. Tỷ lệ nhiễm trùng đường hô hấp giảm từ 72,35 % trước
và sau phẫu thuật 25.71%. Cân nặng trung bình đã tăng từ 4,25 ± 1,78 kg lên 5,42 kg ± 1,63 kg trong
3 tháng từ khi xoay kéo giãn đến khi lấy bỏ. 32 trẻ (91,42%) cần nuôi dưỡng hỗ trợ qua ống sonde dạ
dày trước khi kéo giãn, 30 trẻ (85,71 %) có thể tập ăn uống qua miệng ngay sau khi rút ống nội khí
quản và 100% cho ăn - bú được bằng đường miệng khi kết thúc quá trình xoay kéo giãn. Có 2 bệnh
nhân liệt mặt thoáng qua, cải thiện sau 3 tháng. Viêm phổi 9 trường hợp (25,71%). Nhiễm khuẩn chân
vis lộ dụng cụ kéo giãn 6 trường hợp (17,14%), Không có bệnh nhân nào cần đặt lại nội khí quản sau
khi rút ống. Kết quả về mặt thẩm mỹ: Sẹo nhỏ, mờ, đảm bảo yếu tố thẩm mỹ 29 ca (82,86%) và 6
(17,14) ca sẹo lồi vùng dưới hàm 2 bên. Không có tình trạng rối loạn tăng trưởng, xương, không có
biến chứng về nha khoa hay răng mọc lệch trong 3 năm theo dõi.
Kết luận: Phương pháp phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới có hiệu quả để giảm tắc nghẽn
đường thở nghiêm trọng và giúp cho ăn uống dễ dàng ở trên những trẻ bị hội chứng Pierre Robin.
Từ khoá: Pierre robin sơ sinh, kéo giãn xương.
ABSTRACT
EVALUATION OF SHORT-TERM OUTCOMES OF FUNCTIONS IN INFANTS WITH PIERRE
ROBIN SYNDROME AFTER NEONATAL MANDIBLE DISTRACTION OSTEOGENESIS
SURGERY
Dang Hoang Thom, Tran Dinh Phuong, Nguyen Van Son, Phạm Tuan Hung, Nguyen Thi Ha,
Mai Thi Huong.* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 51 – 57
Objectives: This study aimed to evaluate the short-term outcomes after neonatal mandible
distraction osteogenesis surgery to treat severe airway obstruction and difficulties in breast-feeding
and eating among infants with Pierre Robin syndrome.
Methods: A total of 35 infants with Pierre Robin syndrome who underwent neonatal mandible
* Bệnh viện Nhi Trung Ương.
Tác giả liên hệ: ThS. BS Đặng Hoàng Thơm, ĐT: 0904136131, Email: dhthom@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 52
distraction osteogenesis surgery from 2015 to 2018 at the Department of Craniofacial and Plastic
Surgery, Vietnam’s National Hospital of Children. This study is a prospective descriptive study. All
study participants were followed up for three years.
Results: This study consisted of 15 (42.85%) male infants and 20 (57.15%) female infants,
including one preterm case at 35 weeks. The average distance between the upper and lower jaws was
14.45 ± 2.52 mm, and the average adjusted distraction was 18.43 ± 2.37 mm. The average preoperative
tracheal diameter was 3.89 ± 1.64 mm as compared to the postoperative value of 10.12 ± 2.23 mm. The
rate of respiratory infection decreased from 72.35% before surgery to 25.71% after surgery. The
average weight increased from 4.25 ± 1.78 kg to 5.42 ± 1.63 kg within three months since the initiation
of the distraction process until the process was completed. A total of 32 (91.42%) patients needed
gastric-tube-supported feeding before the distraction process; 30 (85.71%) patients were able to
practise eating through the mouth immediately after tracheal extubation; and 100% patients were able
to eat through the mouth after the distraction process was completed. Two patients had transient facial
nerve paralysis, which was improved after three months. Pneumonia was seen in 9 (25.71%) patients.
Surgical site infection was observed in 6 (17.14%) patients. Tracheal intubation was not required in
any patients after extubation. Regarding scar, 29 (82.86%) patients has small, unclear scars, not
affecting the appearance of the skin; and 6 (17.14%) patients had keloids in both sides of the lower jaw.
No case of growth disorder, skeletal disorder, dental complications or malocclusion occurred within
three years since the distraction process was completed.
Conclusions: Neonatal mandible distraction osteogenesis surgery was shown to be effective in
treating severe airway obstruction and difficulties in eating among infants with Pierre Robin
syndrome.
Keywords: Pierre Robin syndrome, neonatal mandible distraction osteogenesis surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng Pierre Robin (PRS) được mô
tả đầy đủ năm 1932 bởi bác sỹ Pierre Robin
(Pháp) bao gồm tam chứng kinh điển với sự
hiện diện hàm nhỏ (micrognathia), lưỡi tụt
(glossoptosis) và suy hô hấp, trong đó trên
50% kèm theo khe hở vòm với hình dạng
chữ U-V. Những rối loạn về mặt sinh lý của
trẻ bị hội chứng này là các vấn đề về hô hấp
(suy hô hấp) và khó khăn khi cho ăn, bú,
biến dạng cấu trúc hàm mặt (tình trạng hàm
nhỏ) và trong khoang miệng có hiện tượng
lưỡi tụt ra sau làm khoảng sau họng nhỏ bất
thường gây tắc nghẽn.
Trong thực tế điều trị, có nhiều phương
thức khác nhau đã được áp dụng để làm
giảm tình trạng tắc nghẽn đường thở của
bệnh nhân PRS, từ đơn giản đến phức tạp,
có sử dụng các biện pháp hỗ trợ không xâm
lấn đến can thiệp phẫu thuật. Mặc dù theo
lý thuyết tình trạng tắc nghẽn đường thở có
thể được cải thiện khi xương sọ mặt phát
triển, xương hàm dưới phát triển ra trước
do vậy một số trường hợp trẻ Pierre Robin
sơ sinh độ 1, 2 có thể đáp ứng với các can
thiệp như thay đổi tư thế, thở áp lực dương
liên tục. Tuy nhiên theo các tác giả trên thế
giới có gần 25 % trẻ em Pierre robin, cần can
thiệp xâm lấn như đặt nội khí quản và mở
khí quản, phẫu thuật kéo giãn xương hàm
dưới, đây chính là các bệnh nhân Pierre
robin độ 3.
Trước đây, biện pháp mở khí quản đã
được chấp nhận như là lựa chọn cuối cùng
cho trẻ Pierre Robin sơ sinh có tắc nghẽn
đường thở nghiêm trọng. Tuy nhiên, mặc dù
Mở khí quản có thể cứu sống bệnh nhân,
nhưng thời gian nằm viện kéo dài, tăng chi
phí viện phí và có nhiều biến chứng nguy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
53
hiểm do chăm sóc cannula để lâu.
Chính McCarthy (1990), người đầu tiên
áp dụng phương pháp kéo giãn xương
(MDO) cho các thương tổn xương hàm dưới
và ngày nay đã trở thành một trong những
phương pháp can thiệp phẫu thuật phổ biến
nhất đối với cấu trúc xương vùng sọ mặt, là
một giải pháp thay thế phương pháp mở khí
quản ở bệnh nhân PRS bị tắc nghẽn đường
thở nặng.
Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm đánh giá về chức năng áp dụng
phương pháp phẫu thuật kéo giãn xương hàm
dưới để giảm tắc nghẽn đường thở nặng các
khó khăn khi ăn, bú của trẻ Pierre Robin sơ
sinh đồng thời thảo luận về những ưu và
nhược điểm có thể xảy ra. Đồng thời chia sẻ
kinh nghiệm về phẫu thuật kéo giãn xương
hàm dưới điều trị cho trẻ PRS sơ sinh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Của chúng tôi gồm 35 trẻ sơ sinh được
chẩn đoán bị hội chứng Pierre Robin, được
phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới hai
bên, từ 3/2015 đến 6/2018. Tại Khoa Sọ Mặt
và Tạo hình, bệnh viện Nhi Trung Ương.
Trẻ bị Pierre Robin sơ sinh có các đặc điểm
lâm sàng của hội chứng Pierre Robin và suy
hô hấp do thiểu sản xương hàm dưới, lưỡi
tụt (micrognathia và glossoptosis).
Tất cả các bệnh nhân được theo dõi ít
nhất 3 tháng, nhiếu nhất 3 năm, các bệnh
nhân được theo dõi, chụp Xquang Sọ mặt,
CT Scanner dựng hình 3D cả giai đoạn trước
phẫu thuật và sau phẫu thuật, khám lại sau
mổ. Dị tất khe hở vòm (Cleft Palate) được
sửa chữa khi xương hàm được kéo giãn và
ổn định.
Phương pháp nghiên tiến cứu mô tả
Các chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm: giới
tính, cân nặng khi sinh, tuổi thai, sinh non,
dị tật liên quan và ghi nhận bệnh kèm theo.
Các chỉ tiêu nghiên cúu trong mổ như tuổi,
vị trí cắt xương kéo giãn, hướng Vector kéo
giãn, chênh lệch hàm trên hàm dưới ban
đầu, tiền sử cho ăn- bú, tổng chiều dài kéo
giãn, tổng chiều dài tại thời điểm rút ống,
ngày rút ống NKQ, cân nặng khi mổ và sau
1 tháng, 3 tháng, 6 tháng sau mổ, theo dõi
các biến chứng sau phẫu thuật, nhiễm
khuẩn, tình trạng ăn bú, tình trạng bệnh
nhân lúc xuất viện được ghi lại.
Bệnh nhân được làm Bilan trước mổ,
chụp Xquang sọ mặt thẳng nghiêng, vô cảm
dưới gây mê toàn thân, phẫu thuật được
thực hiện qua đường rạch da dọc theo dờ
dưới xương hàm dưới, dụng cụ kéo giãn của
hãng KLS Martin (Đức) kích thước kéo giãn
20 hoặc 25 mm, cắt xương vùng góc hàm
theo hình L, bảo tồn động mạch và dây thần
kinh ống răng và mầm răng. Khung kéo
giãn được cố định bằng các vít với 1.0 mm.
Khung kéo giãn được cố định bên trong, kéo
giãn được bắt đầu sau mổ 48 giờ. Độ trễ với
tốc độ 2mm/ngày (hai lần mỗi ngày với nhịp
1mm mỗi lần) và tiếp tục cho đến khi đạt
được kích thước mong muốn. Khung kéo
giãn được lấy ra sau 12 tuần.
Đánh giá đường thở: Khoảng cách giữa
thành họng thanh quản và đáy lưỡi được đo
để tính diện tích mặt cắt ngang của đường
thở bằng cách sử dụng X trước phẫu thuật
và sau phẫu thuật, thời điểm đánh giá sau
phẫu thuật được thực hiện vào cuối giai
đoạn can xương, tại thời điểm loại bỏ dụng
cụ kéo giãn. Để đánh giá hiệu quả của sự
phân tâm, ngoài việc so sánh khoảng cách
tại các vùng đường thở trước phẫu thuật và
hậu phẫu, sự kéo giãn xương cũng được so
sánh với sự phản xạ của nó trên khoảng
cách đường thở.
Số liệu nghiên cứu được thực hiện xử lý
bằng phần mềm SPSS 21.0.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 54
KẾT QUẢ
Trong nghiên cứu của chúng tôi gồm 15 trẻ
nam (chiếm 42,85%) và 20 trẻ gái (57,15%)
trong đó có 3 trẻ sinh non dưới 35 tuần. Trọng
lượng lúc sinh trung bình của trẻ là 2,857, 36 ±
460,16 g và một trẻ có cân lúc sinh thấp 2,4 kg
< 2,500 g là trẻ đẻ non và 33 trẻ bị hở hàm ếch
kèm theo chiếm 94,28%.
Can thiệp điều trị trước phẫu thuật kéo giãn
xương
Có 6 bệnh nhân (17,14%) được điều trị
bằng cách thay đổi tư thế, 10 bệnh nhân
(28,57%) được điều trị bằng thở oxy (CPAP)
bổ sung qua Mask áp lực dương liên tục và
19 bệnh nhân thở máy (54,28%) cần đặt nội
khí quản. Khoảng cách chênh lệch hàm trên
hàm dưới của bệnh nhân: 14,45 ± 2,52 mm
và độ dài kéo giãn trung bình sau điều
chỉnh là 18,43 ± 2,37 mm. Đường kính khí
quản trước can thiệp 3,89 ± 1,64mm và sau
phẫu thuật 10,12 ± 2,23 mm. Tỷ lệ nhiễm
khuẩn đường hô hấp nặng cũng giảm đáng
kể từ 72,35% trước phẫu thuật và sau phẫu
thuật 25,71%.
Thay đổi cân nặng của trẻ
Cân nặng trung bình đã tăng từ 4,25 ±
1,78 kg lên 5,42 kg ± 1,63 kg khoảng thời
gian 3 tháng từ khi xoay kéo giãn đến khi
lấy bỏ. Đối với nuôi dưỡng: 32 bệnh nhân
(91,42%) cần nuôi dưỡng hỗ trợ qua ống
sonde dạ dày trước khi kéo giãn, trong khi
30 bệnh nhân (85,71%) có thể tập ăn uống
qua miệng ngay sau khi rút ống nội khí
quản và 35 bệnh nhân (100%) cho ăn - bú
được bằng đường miệng khi kết thúc quá
trình xoay kéo giãn, chuyển sang giai đoạn
can xương.
Biến chứng phẫu thuật
Có 2 bênh nhân có biểu hiện liệt mặt
thoáng qua gây trễ miệng và biến dạng góc
mép khi cười, sau đó dần dần cải thiện sau 3
tháng. Viêm phổi 9 trường hợp (25,71%).
Nhiễm khuẩn chân vis lộ dụng cụ kéo giãn 6
trường hợp (17,14%), Không có bệnh nhân
nào cần đặt lại nội khí quản sau khi rút ống.
Kết quả về mặt thẩm mỹ: Sẹo nhỏ, mờ, đảm
bảo yếu tố thẩm mỹ 29 ca (82,86%) và 6 ca
(17,14%) sẹo lồi vùng dưới hàm 2 bên - đây
là những trường hợp lộ chân vis. Không có
tình trạng rối loạn tăng trưởng, xương,
không có biến chứng về nha khoa hay răng
mọc lệch trong 3 năm theo dõi.
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng
Tình trạng suy hô hấp do lưỡi sa tụt về
phía sau (phía gốc lưỡi) ở bệnh nhân thiểu
sản xương hàmg dưới (hàm nhỏ) được báo
cáo và mô tả đầy đủ lần đầu bởi Pierre
Robin bác sĩ tai mũi họng người Pháp, năm
1923(4,5,13). PRS là dị tật bẩm sinh hiếm gặp
với tỷ lệ trung bình là 1: 8,5001. Các đặc
điểm lâm sàng của Pierre Robin có thể tồn
tại như một dị tật độc lập hoặc có thể là một
phần của hội chứng. Cho đến nay nguyên
nhân gây bệnh không rõ ràng, Tuy nhiên giả
thuyết được chấp nhận là sự nén ép của thai
nhi trong tử cung gây ra, có mang yếu tố di
truyền. Trong trường hợp PRS bị tắc nghẽn
nghiêm trọng dẫn đến các vấn đề về ăn, mất
nước, gắng sức, không phát triển thể chất và
khi tình trạng này kéo dài sẽ gây ra bệnh lý
tim và gây tử vong.
Sử dụng lực kéo tác động trực tiếp vào
xương hàm dưới để kéo ra trước nhằm tránh
hiện tượng lưỡi sa tụt ra sau làm giảm tắc
nghẽn đường thở đã được nghiên cứu trong
nhiều thập kỷ. Năm 1937, lần đầu tiên
Callister báo cáo sử dụng lực kéo xương
hàm điều trị cho bệnh nhân PRS với kết quả
tốt. Tiếp đến năm 1949, Longmire và
Sanford đưa ra phương pháp kép xương gắn
với ròng rọc qua 1 quả cân nặng. Mặc dù
tình trạng chèn ép đường thở được cải thiện
tuy nhiên do phải kéo giãn trong thời gian
dài 1 tư thế, phương pháp thô bạo và đặc
biệt là gây nên hiện tượng cứng khớp thái
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
55
dương hàm tạm thời, nên phương pháp kéo
giãn xương dùng lực ngoại vi đã không
được áp dụng. Tuy nhiên năm 1990,
McCarthy(6,11) ứng dụng kéo giãn xương
trong phẫu thuật tạo hình sọ mặt- thẩm mỹ.
Chính việc kéo giãn xương hàm dưới, ngoài
tác dụng kéo dài xương, sẽ đồng thời kéo
lưỡi về phía trước do sự di chuyển ra trước
của cơ và mô mềm đưa đến điều chỉnh tăng
khoảng rộng sau họng giải quyết được tình
trạng tắc nghẽn đường thở.
Thông thường với trẻ bị Pierre Robin độ
1, độ 2 thường được sủ dụng các biện pháp
không xâm lấn và hy vọng về sự điều chỉnh
tự nhiên của xương hàm sẽ giúp cải thiện
được tình trạng lâm sàng vì trong 1 năm đầu
xương hàm dưới phát triển mạnh. Các tác
giả trên thế gioi cho rằng trong các trường
hợp có tắc nghẽn đường thở nghiêm trọng
thì sự tăng trưởng xương hàm dưới trong
năm đầu chắc chắn không đủ nhô ra trước
để kéo gốc lưỡi ra trước do đó không thể
làm giảm được tình trạng tắc nghẽn đường
thở một cách bền vững, ổn định. Bên cạnh
đó nếu chỉ sủ dụng can thiệp đơn thuần
thay đổi tư thế thì thời gian chờ đợi và thời
gian nằm viện kéo dài và gây viêm phổi, đôi
khi cần phải mở khí quản nếu không cải
thiện. Trong nghiên cứu của chúng tôi 19 trẻ
PRS sơ sinh bị nghẽn đường thở nặng được
sử dụng kéo giãn hàm dưới để tránh mở khí
quản, phù hợp với các nghiên cứu của
Denny (2005). Theo Sesenna (2012- Italia)(3,14)
đã cho thấy vai trò và lợi ích thu được khi
phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới sớm ở
bệnh nhân PRS làm giảm tình trạng tắc
nghẽn đường thở do lưỡi tụt và tránh phải
sử dụng biện pháp mở khí quản.
Trong nghiên cứu của chúng tôi với 35
trẻ sơ sinh PRS được mổ kéo giãn xương, có
cắt xương hàm dưới dạng chữ L ngược, làm
giảm tình trạng tắc nghẽn đường thở nặng
và có khó khăn khi cho ăn uống. Chúng tôi
lựa chọn đường rạch da bên ngoài, dọc theo
bờ dưới xương hàm vì với đường rạch da
này sẽ tránh hạn chế nguy cơ nhiễm khuẩn
do không thong vào khoang miệng, dễ chăm
sóc vết mổ, dễ dàng thao tác xoay và kéo
giãn xương, tuy nhiên có để lại sẹo dưới
hàm. Việc cắt xương theo hình L vùng thân
và góc xương hàm dưới giúp bảo tồn các
mầm răng và không gây biến chứng nha
khoa, ngoài ra để tránh tác động vào các
mầm rang thì chúng tôi đặt dụng cụ kéo
giãn ở sát bờ dưới của bản xương hàm và sử
dụng các vis cố định nhỏ đường kính 1 mm.
nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy kéo
giãn xương hàm dưới trẻ sơ sinh được thực
hiện sớm giúp trẻ thở dễ dàng, không phải
thở máy, ăn uống dễ dàng tránh nguy cơ
viêm phổi hay phải mở khí quản. Ngoài ra
chúng tôi nhận thấy sau khi xoay kéo giãn
xương khoảng 4 ngày (tức là kéo dài xương
khoảng 68 mm) thì tình trạng lâm sàng đã
cải thiện và có thể rút ống an toàn, phù hợp
với các tác giả khác trên thế gioi đề xuất
rằng ít nhất 6 mm là điều kiện đủ cần thiết
để rút ống an toàn và có thể được chấp nhận
như là một giới hạn cắt giảm triệu chứng
lâm sàng.
Bên cạnh việc đưa hàm nhỏ
micrognathic, cằm về phía nhằm cải thiện
thẩm mỹ, kéo giãn xương hàm dưới giúp
làm tăng đáng kể đường kính đường thở (từ
thành sau họng đến gốc lưỡi) trong một
khoảng thời gian ngắn, giúp làm giảm các
triệu chứng liên quan đến tắc nghẽn đường
thở. Kéo giãn xương cũng được ghi nhận có
vai trò trong việc ngăn ngừa nhiễm khuẩn
đường hô hấp.
Về vấn đề khó khăn khi cho trẻ Pierre
robin ăn uống(7,8): đa số trẻ sơ sinh không
thể được cho ăn bằng miệng và đòi hỏi phải
đặt ống mũi dạ dày nuôi dưỡng(11). Do lưỡi
tụt ra sau chèn vao đường thở gây khó khăn
khi thực hiện động tác nuốt, và do mất sự
phối hợp giữa động tác hút và nuốt. Chính
kéo giãn xương làm kéo lưỡi ra trước, để
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 56
lưỡi dễ dàng vận động hơn, không chèn ép
vào đường thở và phối hợp động tác hút và
nuốt được dễ dàng, nhịp nhàng. Trong
nghiên cứu của chúng tôi có 32 bệnh nhân
(91,42%) cần nuôi dưỡng hỗ trợ qua ống
sonde dạ dày trước khi phẫu thuật kéo giãn,
tuy nhiên sau phẫu thuật: có 30 (85,71%)
bệnh nhân có thể tập ăn uống qua miệng
ngay sau khi rút ống nội khí quản (sau mổ 4
ngày – thời gian nằm hồi sức sau mổ) và 35
bệnh nhân (100%) có thể ăn - bú được bằng
đường miệng khi kết thúc quá trình xoay
kéo giãn.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kéo
giãn xương hàm dưới là phương pháp điều
trị an toàn ngay cả trong giai đoạn sơ sinh,
không có biến chứng phẫu thuật trầm trọng
nào được quan sát và ghi nhận. Phù hợp với
các so sánh của Tahiri Y, qua báo cáo nghiên
cứu hồi cứu 121 trẻ bị pierre robin được
phẫu thuật trong 11 năm liên tục, cho rằng
không có sự khác biệt về kết quả điều trị
trong 2 nhóm bệnh nhân: cân nặng thấp
dưới 4 kg và nhóm trẻ có cân nặng trên 4 kg.
Biến chứng phẫu thuật ghi nhận 2 trường
hợp tổn thương nhánh nhỏ của dây thần
kinh mặt (5,71%), qua theo dõi chúng tôi
nhận thấy hiện tượng liệt mặt thoáng qua
sau khoảng 1 tháng đã được cải thiện, tỷ lệ
của chúng tôi thấp hơn Sesena 2012-Ý(14) tỷ
lệ liệt mặt là 10%. Và 06 trường hợp có hiện
tượng lộ chân vị, viêm và toác vết mổ, đây
là những trường hợp này được sử dụng
kháng sinh, chăm sóc vết mổ, theo dõi quá
trình liền xương chúng tôi thấy không có
trường hợp nào bị viêm xương, quá trình
can liền xương diễn ra tốt. Tuy nhiên những
trường hợp này thường để lại sẹo xấu, ảnh
hưởng đến thẩm mỹ. Mặc dù kéo giãn
xương hàm dưới an toàn ở trẻ sơ sinh, tuy
nhiên báo cáo biến chứng xa Tibesar(18) cho
thấy biến dạng cắn mở opens bites (28%),
biến chứng nha khoa (16%) và chấn thương
dây thần kinh mặt (9%) là biến chứng hàng
đầu trong thời gian dài. Trong nghiên cứu
của chúng tôi không có trường hợp nào có
khớp cắn ngược, tuy nhiên có 10 trường hợp
có hiện tượng co hồi xương, tức là xương co
lại so với thời điểm tháo dụng cụ kéo giãn.
Thời gian xuất hiện hiện tượng này xảy ra
khoảng 6 tháng sau khi tháo bỏ dụng cụ kéo
giãn, phù hợp với các nghiên cứu của các tác
giả trên thế giới.
Sự ổn định lâu dài trong chỉnh hàm và
phẫu thuật sọ mặt phụ thuộc vào sức căng
tạo ra trên các tổ chức mô mềm(13,15,16) vì kéo
giãn tất cả các khối cơ trong quá trình kéo
giãn xương rất khó khăn. Nó đóng vai trò
rất quan trọng, do vậy nguy cơ tái phát có
thể được xuất hiện do sự thiếu thích ứng cơ.
Hiện tượng tái phát (co rút xương) xuất
hiện khi xương và tổ chức mô mềm xung
quanh có xu hướng co lại về tình trạng
giống như trước khi tiến hành can thiệp
phẫu thuật. Đây là một biến chứng thường
gặp nhưng khó dự đoán trước Murage
KP(10). Hiện tượng tái phát ảnh hưởng đến
khớp cắn, làm thời gian điều trị kéo dài và
ảnh hưởng đến thẩm mỹ của khuôn mặt,
Kéo giãn xương diễn ra đồng thời với kéo
giãn mô mềm. Năm 2001, Swennen 2001
nghiên cứu trên 3,278 trường hợp kéo giãn
xương sọ mặt được theo dõi trong thời gian
dài, cho thấy 30% trường hợp có hiện tượng
xương bị co rút lại.
Kéo giãn xương hàm dưới liên quan mật
thiết đến sự thích nghi của các cơ trên khuôn
mặt, tốc độ kéo giãn xương phải phù hợp với
sự kéo căng của tổ chức phần mềm xuang
quanh. Sự thích nghi này phụ thuộc vào mức
độ kéo giãn, hướng của lực kéo và khoảng
cách cần thiết của xương được kéo giãn. Ngoài
ra, sự thích nghi của các khối cơ còn phụ thuộc
vào độ tuổi của bệnh nhân được can thiệp, các
thay đổi trong các khối cơ, tạo sự thích nghi
dần dần của cơ tại vị trí mới.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
57
KẾT LUẬN
Phương pháp phẫu thuật kéo giãn xương
hàm dưới có hiệu quả điều trị làm giảm tắc
nghẽn đường thở nghiêm trọng và giúp cho
ăn uống dễ dàng ở trên những trẻ bị hội
chứng Pierre Robin sơ sinh. Đây là phương
pháp an toàn, hiệu quả, khả thi, có thể áp dụng
tại các trung tâm phẫu thuật nhi khoa lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bear SE, Priest JH (1980). Sleep apnea syndrome:
correction with surgical advancement of the mandible. J
Oral Surg, 38: pp.543-549.
2. Caouette-Laberge L, Bayet B, Larocque Y (1994). The
Pierre Robin sequence: review of 125 cases and
evolution of treatment modalities. Plast Reconstr Surg,
93: pp.934-942.
3. Dauria D, Marsh JL (2008). Mandibular distraction
osteogenesis for Pierre Robin sequence: what percentage
of neonates need it? J Craniofac Surg, 19: pp.1237-1243.
4. Denny A, Amm C (2005). New technique for airway
correction in neonates with severe Pierre Robin
sequence. J Pediatr, 147: pp.97-101.
5. Evans KN, Sie KC, Hopper RA (2011). Robin sequence:
from diagnosis to development of an effective
management plan. Pediatrics, 127: pp.936-948.
6. Jakobsen LP, Knudsen MA, Lespinasse J (2006). The
genetic basis of the Pierre Robin Sequence. Cleft Palate
Craniofac J, 43: pp.155-159.
7. Karp NS, Thorne CH, McCarthy JG (1990). Bone
lengthening in the craniofacial skeleton. Ann Plast Surg;
24: pp.231-237.
8. Longmire WP Jr, Sanford MC (1949). Stimulation of
mandibular growth in congenital micrognathia by
traction. Am J Dis Child, 78: pp.750-754.
9. Marques IL, de Sousa TV, Carneiro AF (2001). Clinical
experience with infants with Robin sequence: a
prospective study. Cleft Palate Craniofac, 38: pp.171-178.
10. McCarthy JG, Schreiber J, Karp N (1992). Lengthening
the human mandible by gradual distraction. Plast
Reconstr Surg; 89: 1-8; discussion 9-10.
11. Mobin SS, Francis CS, Karatsonyi AL (2012) Mandibular
distraction instead of tracheostomy in Pierre Robin
sequence patients: is it worth it? Plast Reconstr Surg; 130:
766e-767e.
12. Murage KP, Tholpady SS, Friel M (2013). Outcomes
analysis of mandibular distraction osteogenesis for the
treatment of Pierre Robin sequence. Plast Reconstr Surg;
132: pp.419-421.
13. Papoff P, Guelfi G, Cicchetti R (2013). Outcomes after
tongue-lip adhesion or mandibular distraction
osteogenesis in infants with Pierre Robin sequence and
severe airway obstruction. Int J Oral Maxillofac Surg; 42:
pp.1418-1423.
14. Schaefer RB, Stadler JA, Gosain AK (2004). To distract or
not to distract: an algorithm for airway management in
isolated Pierre Robin sequence. Plast Reconstr Surg; 113:
pp.1113-1125.
15. Sesenna E, Magri AS (2012). Mandibular distraction in
neonates: indications, technique, results. Ital J Pediatr;
38: pp.7.
16. Stevenson DA, Carey JC (2007). A novel multiple
congenital anomaly-mental retardation syndrome with
Pierre Robin sequence and cerebellar hypoplasia in two
sisters. Am J Med Genet A; 143A: pp.2221-2226.
17. Tibesar RJ, Scott AR, McNamara C (2010). Distraction
osteogenesis of the mandible for airway obstruction in
children: long-term results. Otolaryngol Head Neck Surg;
143: pp.90-96.
18. Tomaski SM, Zalzal GH, Saal HM (1995). Airway
obstruction in the Pierre Robin sequence. Laryngoscope;
105: pp.111-114.
Ngày nhận bài báo: 20/06/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/06/2018
Ngày bài báo được đăng: 15/08/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_som_ve_chuc_nang_sau_phau_thuat_keo_gian_xu.pdf