Tài liệu Đánh giá kết quả sàng lọc khiếm thính trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương: Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 65
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SÀNG LỌC KHIẾM THÍNH TRẺ SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG.
Lâm Huyền Trân*, Tạ Thị Thùy Trang*, Nguyễn Bích Hạnh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Khiếm thính đem lại những hậu quả nặng nề cho trẻ, trước hết ảnh hưởng đến việc học nói tiếp
đến ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngôn ngữ và tính cách của trẻ. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài
“Đánh giá kết quả sàng lọc khiếm thính trẻ sơ sinh tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương” nhằm khảo sát tỉ lệ khiếm
thính ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai (OAE) qua đó xác định một số yếu tố nguy cơ gây khiếm thính từ mẹ và con.
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: Với thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang theo tiêu chuẩn chọn lọc
bệnh và qui trình chuẩn, chúng tôi tiến hành sàng lọc khiếm thính bằng phương pháp đo TEOAE cho các trẻ sơ
sinh tại Bệnh viện Nguyễn tri Phương từ tháng 9/2015 đến ...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả sàng lọc khiếm thính trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 65
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SÀNG LỌC KHIẾM THÍNH TRẺ SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG.
Lâm Huyền Trân*, Tạ Thị Thùy Trang*, Nguyễn Bích Hạnh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Khiếm thính đem lại những hậu quả nặng nề cho trẻ, trước hết ảnh hưởng đến việc học nói tiếp
đến ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngôn ngữ và tính cách của trẻ. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài
“Đánh giá kết quả sàng lọc khiếm thính trẻ sơ sinh tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương” nhằm khảo sát tỉ lệ khiếm
thính ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai (OAE) qua đó xác định một số yếu tố nguy cơ gây khiếm thính từ mẹ và con.
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: Với thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang theo tiêu chuẩn chọn lọc
bệnh và qui trình chuẩn, chúng tôi tiến hành sàng lọc khiếm thính bằng phương pháp đo TEOAE cho các trẻ sơ
sinh tại Bệnh viện Nguyễn tri Phương từ tháng 9/2015 đến tháng 6/2016 bằng bằng phương pháp đo TEOAE.
Kết quả: Nghiên cứu gồm 1351 trẻ sơ sinh được sàng lọc khiếm thính bằng phương pháp đo TEOAE tại
bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Nam, nữ chiếm tỉ lệ tương đương nhau (50,4% và 49,6%). Tuổi bé khi đo (tính
bằng ngày) là 2,85 ± 1,35. Tuổi thai trung bình là 38,54 ± 0,034. Kết quả đo OAE lần 1: có 108 trường hợp (8%)
không đạt trong đó có 4,6% trẻ không đạt 1 tai, 3,4% không đạt cả 2 tai. Các yếu tố từ mẹ ảnh hưởng đến khiếm
thính của trẻ sơ sinh bao gồm: Cảm cúm và động thai. Các yếu tố từ con bao gồm: Chỉ số Apgar thấp, vàng da,
thở oxy và sứt môi
Bàn luận: Chúng tôi bàn luận kết quả có so sánh với y văn trong nước và trên thế giới.
Kết luận: Thực hiện sàng lọc khiếm thính ở trẻ sơ sinh là cần thiết. Việc phát hiện và can thiệp kịp thời sẽ
mang lại cho trẻ một cơ hội lớn trong việc hồi phục khả năng nghe, phát triển các kỹ năng ngôn ngữ, giúp trẻ học
tập, hòa nhập cộng đồng và giảm gánh nặng cho bản thân trẻ, gia đình và xã hội.
Từ khóa: Khiếm thính, trẻ sơ sinh, phương pháp đo TEOAE
ABSTRACT
EVALUATION THE RESULTS OF NEWBORN HEARING LOSS SCREENING
IN NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL
Lam Huyen Tran, Ta Thi Thuy Trang, Nguyen Bich Hanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 65 - 73
Objective: Hearing loss (deafness) causes severe impacts on infant. It affects children’s speech development
and language development process on their characteristics. The project “Evaluation of newborn hearing loss
screening program in Nguyen Tri Phuong Hospital” hence was conducted to examine the rate of hearing loss
occurring in infants using Otoacoustic Emissions (OAE) to determine several causes of deafness from mothers
and children themselves.
Patients and Method: There are 1351 infants were screened deafness by TEOAR method at Nguyen Tri
Phuong hospital
Results: There are 1351 children at Nguyen Tri Phuong Hospital was screened using TEOAE. The
proportion of male and female infants was approximately equal (50.4% and 49.6%). Children’s age (in days) was
2.85 ± 1.35. The average fetal age was 38.64 ± 0.034. Results of the first OAE test: 108 (8%) cases failed the test
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: BS CKII Nguyễn Bích Hạnh ĐT: 0918647648 Email: drhanh91@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 66
with 4.6% children had unilateral hearing loss and 3.4% had hearing loss in both sides. Maternal factors causing
hearing loss to children included influenza and fetal derangement. Fetal factors include low Apgar level, jaundice,
oxygenation and orofacial cleft.
Discussion: The results were compared to the article around the world
Conclusion: The clarification of deafness in infant is necessary for helping infant. Timely detection and
intervention give children a great opportunity to recuperate their ability to listen, develop language skills, help
them to learn, integrate into the community and reduce the burden on the children themselves, their family and
the society.
Key words: Deafness, infant, TEOAR method.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khiếm thính là mất khả năng nghe một hoặc
cả hai tai ở cường độ từ 30-40 dBnHL trở lên và ở
tần số từ 500-4000Hz, là vùng quan trọng đối với
nhận biết ngôn ngữ và hiểu ngôn ngữ.
Hiện nay, vấn đề khiếm thính đặc biệt được
quan tâm ở trẻ em bởi lẽ việc phát hiện muộn
những trường hợp giảm thính lực vừa, nặng,
điếc sâu có thể dẫn đến khiếm thính gây tình
trạng chậm phát triển ngôn ngữ và trí tuệ một
cách trầm trọng, ảnh hưởng tính cách của trẻ,
biến trẻ giảm thính lực thành một trẻ tàn tật vĩnh
viễn(1).
Vấn đề khiếm thính trẻ sơ sinh là một vấn đề
cấp bách mà mỗi gia đình và xã hội đều quan
tâm. Hiện tại, ở nước ta nói chung và thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng, đã có một số nghiên cứu
về tình trạng khiếm thính ở trẻ sơ sinh, tuy nhiên
vẫn còn hạn chế về trang thiết bị, máy móc, đặc
biệt tại BV Nguyễn Tri Phương được sự quan
tâm của Ban lãnh đạo BV, Kết hợp Viện Trường;
phòng đo thính học được thành lập ngay tại
BVNTP. Đó là lý do chúng tôi tiến hành thực
hiện nghiên cứu “Đánh giá kết quả sàng lọc
khiếm thính trẻ sơ sinh tại bệnh viện Nguyễn Tri
Phương” với mục đích nhằm khảo sát tỉ lệ khiếm
thính ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai (OAE), và
xác định một số yếu tố nguy cơ gây khiếm thính
từ mẹ và con.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Thời gian từ tháng 9/2015 đến tháng 6/2016
có 1351 trẻ sơ sinh được sàng lọc khiếm thính
bằng phương pháp đo TEOAE tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Trẻ sơ sinh bình thường
Trẻ sơ sinh bệnh lý
Không mắc các bệnh lý có nguy cơ tử vong
ngay sau sinh
Được sự đồng ý nghiên cứu của cha mẹ trẻ
sơ sinh
Tiêu chuẩn loại trừ
Trẻ dị tật bẩm sinh cần phẫu thuật cấp cứu
(dị tật tiêu hóa, hô hấp), bệnh nặng cần chuyển
chuyên khoa
Trẻ sơ sinh có gia đình từ chối tham gia sàng
lọc
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang, với cở mẫu được tính = 1022
trẻ sơ sinh theo công thức
n = Z2
d
pp
2
)1(
Công cụ và phương tiện thu thập số liệu
Dụng cụ khám tai mũi họng
Một máy đo âm ốc tai kích thích thoáng qua
(TEOAE) hiệu Eclipse
Một máy đo điện thính giác thân não (ABR)
để kiểm tra lại
Phiếu nghiên cứu bao gồm:
Bệnh án mẫu: hành chính, tiền sử gia đình,
tiền sử của bé
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 67
Kết quả đo âm ốc tai kích thích thoáng qua
(TEOAE)
Kết quả đo điện thính giác thân não (ABR)
Kết quả đo âm ốc tai kích thích thoáng qua
(TEOAE) và đo điện thính giác thân não lần hai
Phòng thử thính lực trẻ sơ sinh tiêu chuẩn
Qui trình nghiên cứu: chúng tôi thực hiện
qui trình nghiên cứu theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ quy trình nghiên cứu
Khía cạnh đạo đức của nghiên cứu
Thông tin của trẻ sơ sinh và cha mẹ trẻ
được đảm bảo bí mật.
Cha mẹ trẻ sơ sinh tham gia nghiên cứu sẽ
được thông báo và giải thích về kết quả đo âm ốc
tai (OAE).
Kết quả nghiên cứu này chỉ sử dụng vì
mục đích sức khỏe cộng đồng và bệnh nhân,
ngoài ra không nhằm mục đích nào khác.
KẾT QUẢ
Kết quả khảo sát tỉ lệ khiếm thính ở trẻ sơ
sinh
Trong thời gian từ 1/9/2015 – 1/6/2016 chúng
tôi đã tiến hành tầm soát cho 1351 trẻ sơ sinh
trước khi xuất viện bằng phương pháp đo âm ốc
tai kích thích thoáng qua (TEOAE) tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương.
Trong 1351 trẻ có 681 nam (50,4%) và 670 nữ
(49,6%). Tuổi bé khi đo (tính bằng ngày) là 2,85 ±
1,35 (1 – 28).
Tuổi thai trung bình (tính theo tuần) là 38,54
± 0,03 (27 – 41).
Kết quả đo âm ốc tai kích thích thoáng qua
(TEOAE)
Bảng 1: Kết quả đo TEOAE lần 1 (n = 1351)
Kết quả đo TEOAE Số TH (n) Tỉ lệ (%)
Đạt 1243 92
Không đạt 108 8
Tai trái 38 2,8
Tai phải 24 1,8
Cả 2 tai 46 3,4
Tổng 1351 100
Nhận xét: Có 62/1351 TH (4,6%) trẻ không
đạt 1 tai và 46/1351 TH (3,4%) không đạt cả 2 tai.
Thực hiện phép kiểm Chi bình phương, chúng
tôi nhận thấy sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (P = 0,124).
Bảng 2: Kết quả đo TEOAE lần 2 (n=108)
Kết quả Số trường hợp (n) Tỉ lệ (%)
Đạt lần 2 96 88,9
Không đạt lần 2 5 4,6
Không kiểm tra lần 2 7 6,5
Tổng cộng 108 100
Nhận xét: Có 5 trường hợp không đạt lần 2
được chúng tôi chỉ định đo ABR. Kết quả 4
trường hợp cho kết quả tốt, 1 trường hợp nghi
ngờ không đo được do dị tật ống tai ngoài. Có 7
trường hợp không đến tái khám TEOAE lần 2 do
gia đình ở các tỉnh thành xa thành phố Hồ Chí
Minh mặc dù đã được chúng tôi liên hệ nhiều
lần.
Các yếu tố liên quan
Các yếu tố liên quan từ mẹ
Tiền sử gia đình
Tiền sử gia đình chỉ 1% có người bị giảm
thính lực (n = 1351). Thực hiện phép kiểm Chi
bình phương chúng tôi nhận thấy tiền sử gia
đình có người bị giảm thính lực không ảnh
hưởng đến kết quả đo TEOAE.
Sàng lọc khiếm thính trẻ sơ sinh
tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Đo TEOAE sàng lọc
Pass Refer 1 hoặc 2 tai
Pass
Thông báo và trả kết quả
cho gia đình
Refer 1 hoặc 2 tai
Đo TEOAE lần 2 sau 3-5 ngày
Đo ABR
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 68
Tuổi mẹ
Bảng 3: Mối liên quan giữa tuổi mẹ và kết quả đo
TEOAE
Đặc tính
Đạt (n= 1243) Không đạt (n=108)
P n (%) hoặc trung bình
(độ lệch chuẩn)
Tuổi mẹ 28 (5,3) 28 (4,7) 0,6
Phân
nhóm
<20 tuổi 51 (4,1) 3 (2,8)
0,2 20-30 tuổi 730 (58,7) 72 (66,7)
>30 tuổi 462 (37,2) 33 (30,6)
Nhận xét: Sự khác biệt về độ tuổi mẹ giữa 2
nhóm không có ý nghĩa thống kê. Tuổi mẹ nhỏ
nhất là 18 tuổi, lớn nhất là 45 tuổi.
Đặc điểm bệnh lý của mẹ trong thời kỳ mang thai
Bảng 4: Mối liên quan giữa bệnh lý mẹ với kết quả đo
TEOAE
Bệnh lý
Đạt Không đạt OR (Khoảng
tin cậy 95%)
P
(b)
Số TH (tỉ lệ %)
(a)
Cả m cúm 92 (7,4) 25 (23,1) 3,7 (2,3-6,2) < 0,001
Quai bị 2 (0,2) 1 (0,9) 5,8 (0,5-64,4) 0,23
Viêm gan 56 (4,5) 4 (3,7) 0,8 (0,3-2,3) 0,6
Động thai 15 (1,2) 9 (8,3) 7,4 (3,7-11,4) < 0,001
Bướu cổ 7 (0,6) 1 (0,9) 1,08 (1,0-1,1) 0,9
Nhiễm trùng 18 (1,4) 1 (0,9) 0,6 (0,09-4,8) 0,9
Cao huyết áp 8 (0,7) 1 (0,9) 0,7 (0,4-2,3) 0,5
Tiểu đường 12 (1,1) 3 (2,7) 3,6 (0,6-4,7) 0,08
Khác 1 (0,1) 1 (0,9) 6,4 (0,3-9,9) 0,21
Nhận xét: Có mối liên quan giữa cảm cúm và
động thai với kết quả đo TEOAE.
Mẹ dùng thuốc khi mang thai
Bảng 5: Mối liên quan giữa kết quả với mẹ dùng
thuốc khi mang thai
Kết quả đo TEOAE Đạt
(a)
Không đạt
(a)
P
(b)
Không dùng thuốc 1204 (96,9) 101 (93,5)
0,06 Dùng
thuốc
Augmentine 21 (1,7) 3 (2,8)
Tenofovir 13 (1,0) 3 (2,8)
Tamidan 5 (0,4) 1 (0,9)
Tổng 1243 (100) 108 (100)
Nhận xét: Sử dụng thuốc Augmentine,
Tenofovir, Tamidan trong thời kì mang thai
không ảnh hưởng đến kết quả đo TEOAE.
Sức khỏe sinh sản trong thời kì mang thai
Kiểu sinh của bà mẹ không liên quan đến kết
quả đo TEOAE.
Bảng 6: Mối liên quan giữa kiểu sinh với kết quả đo
Kiểu sinh Đạt
(a)
Không đạt
(a)
P
(b)
Thường 332 (26,7) 35 (32,4)
P = 0,1
Mổ 780 (62,8) 70 (64,8)
Hút 42 (3,4) 2 (1,9)
Forceps 1 (0,1) 0 (0)
Đẻ chỉ huy 88 (7,1) 1 (0,9)
Tổng 1243 (100) 108 (100)
Các yếu tố nguy cơ từ con
Trọng lượng trẻ
Bảng 7: Mối liên quan giữa trẻ nhẹ cân với kết quả đo
TEOAE
Cân nặng
trẻ (gram)
Đạt (n=1243)
Không đạt
(n=108) OR (Khoảng
tin cậy 95%)
P
Số trường hợp (Tỉ lệ %)
Trên 2500 1176 (94,6) 102 (94,4) 1,1 (0,4 – 2,4)
0,8
Dưới 2500 67 (5,4) 6 (5,6)
Nhận xét: Trẻ có cân nặng trên 2500 gram
chiếm tỉ lệ cao 1278/1351 (94,5%). Sự khác biệt về
kết quả đo TEOAE giữa 2 nhóm trẻ không có ý
nghĩa thống kê.
Tuổi thai
Bảng 8: Tuổi thai trung bình
Đặc tính Đạt (n=1243)
Không đạt
(n=108)
Cở mẫu
(n=1351)
Tuổi thai (tuần) 38,55 (1,2) 38,45 (1,3) 38,5 (1,2)
P 0,4
Nhận xét: Sự khác biệt về tuổi thai giữa 2
nhóm không có ý nghĩa thống kê (phép kiểm
Mann – Whitney).
Bảng 9: Mối liên quan giữa tuổi thai với kết quả đo
TEOAE
Tuổi thai
(tuần)
Đạt
(n=1243)
Không đạt
(n=108) OR (Khoảng
tin cậy 95%)
P
Số trường hợp (Tỉ lệ %)
Trên 37 1185 (95,3) 99 (91,7) 1,8 (0,8 – 3,8)
0,08
Dưới 37 58 (4,7) 9 (8,3)
Nhận xét: Ở những trẻ sinh dưới 37 tuần,
nguy cơ có kết quả đo TEOAE không đạt cao gấp
1,8 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa
thồng kê.
Chỉ số apgar
Sự khác biệt apgar giữa 2 nhóm có ý nghĩa
thống kê (phép kiểm Mann – Whitney).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 69
Bảng 10: Mối liên quan giữa kết quả đo với chỉ số
Apgar
Apgar
Đạt (n=1243) Không đạt (n=108)
P Trung vị (khoảng tứ phân vị)
(Khoảng biến thiên)
1 phút 8 (0) (5-8) 8 (0) (4-8) < 0,001
5 phút 9 (0) (8-9) 9 (0) (8-9) <0,001
Vàng da
Bảng 11: Mối liên quan giữa kết quả đo với vàng da
Đặc tính
Đạt
(n=1243)
Không đạt
(n=108) OR (khoảng
tin cậy 95%)
P
Số TH (Tỉ lệ %)
Vàng da
Có 13 (1) 5 (4,6) 4,5
(1,6 - 13,1)
0,01
Không 1230 (99) 103 (95,4)
Nhận xét: Có mối liên quan giữa vàng da tán
huyết với kết quả đo TEOAE
Nhiễm trùng sau sinh
Bảng 12: Mối liên quan giữa kết quả đo với nhiễm
trùng sau sinh
Nhiễm trùng
sau sinh
Đạt
(n=1243)
Không đạt
(n=108) OR (khoảng
tin cậy 95%)
P
(b)
Số TH (Tỉ lệ %)
(a)
Có 1 (0,9) 3 (0,2) 0,3
(0,02 – 2,5)
0,28
Không 107 (99,1) 1240 (99,8)
Nhận xét: Không có mối liên quan (phép
kiểm Chi bình phương) giữa nhiễm trùng sơ
sinh và kết quả đo TEOAE.
Dị tật kèm theo
Bảng 13: Mối liên quan giữa kết quả đo với dị tật bẩm sinh
Đặc điểm
Đạt (n=1243) Không đạt (n=108) OR (Khoảng tin
cậy 95%)
P
(b)
Số TH (Tỉ lệ %)
(a)
1/ Sứt môi
Có 0 (0) 4 (3,7) 12,9
(10,7 – 15,5)
< 0,001
Không 1243 (100) 104 (96,3)
2/ Dò luân nhĩ
Có 8 (0,6) 3 (2,8)
4,4 (1,1 – 16,8) 0,06
Không 1235 (99,4) 105 (97,2)
3/ Tai nhỏ
Có 2 (0,2) 1 (0,9)
5,7 (0,5 – 64,4) 0,2
Không 1241 (99,8) 107 (99,1)
4/ Không có
ống tai ngoài
Có 0 (0) 1 (0,9)
12,6 (10,5 – 15,1) 0,08
Không 1243 (100) 107 (99,1)
Nhận xét: Sứt môi là dị tật có ảnh hưởng
đến kết quả đo TEOAE (phép kiểm Chi bình
phương).
Dùng thuốc kháng sinh sau sinh
Sự khác biệt giữa 2 nhóm có và không có
dùng thuốc kháng sinh không có ý nghĩa
thống kê (phép kiểm Chi bình phương).
Bảng 14: Mối liên quan giữa kết quả đo với thuốc
kháng sinh sau sinh
Thuốc kháng
sinh sau sinh
Đạt
(n=1243)
Không đạt
(n=108) OR (khoảng
tin cậy 95%)
P
(b)
Số TH (Tỉ lệ %)
(a)
Có 4 (0,3) 1 (0,9) 2,8
(0,3-26,1)
0,3
Không 1239 (99,7) 107 (99,1)
BÀN LUẬN
Tỉ lệ nam, nữ trong nghiên cứu
Tỉ lệ nam nữ trong nghiên cứu của chúng tôi
tương đương nhau 1,02:1,. Kết quả này cũng phù
hợp với tỉ lệ giới tính trong nghiên cứu của tác
giả Phạm thị Tỉnh (2011)(11) là 1,27:1, tác giả
Nguyễn Thu Thủy (2005)(8) là 1,17:1. Theo
Daniela Polo Camargo (2015)(13) giới tính nam, nữ
trong nghiên cứu không ảnh hưởng đến quả đo
âm ốc tai kích thích thoáng qua.
Tuổi của trẻ khi đo âm ốc tai
Chúng tôi tiến hành đo âm ốc tai cho trẻ
sơ sinh trước khi xuất viện. Đa số trẻ sơ sinh tại
tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương được đo âm ốc
tai khi trẻ được 2 – 3 ngày tuổi. Một vài trường
hợp có thời gian đo lâu hơn do phải điều trị các
bệnh lý của mẹ và bé.
Theo Iihan Unlun (2015)(15) thời điểm tốt nhất
để đo âm ốc tai là trước 5 ngày sau sinh, nếu
không đạt lần thứ 1 tác giả khuyến cáo nên kiểm
tra ngày thứ 15 sau sinh, và ngày 30 nếu lần thứ
2 khi kết quả đo không đạt. Trong Nghiên cứu
của Ramzan Shahid (2015) nếu đo âm ốc tai
trước 24h, có thể ảnh hưởng đến kết quả đo vì
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 70
trong tai của trẻ vẫn còn một lượng dịch nhất
định dẫn đến kết quả đo âm ốc tai âm tính.
Kết quả đo âm ốc tai kích gợi thoáng qua
Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định,
phương pháp đo âm ốc tai kích thích là phương
pháp sàng lọc giảm thính lực có nhiều ưu điểm
như đơn giản, dễ thực hiện, không đòi hỏi người
đo có trình độ chuyên sâu về thính lực học,
không đòi hỏi sự phối hợp từ phía trẻ, giá thành
thấp. Bên cạnh đó phương pháp này có độ nhạy
và độ đặc hiệu cao(14,12). Chính vì vậy, đây là
phương pháp được khuyến cáo trong sàng lọc
giảm thính lực ở cộng đồng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi với 1351
trẻ sơ sinh được sàng lọc bằng âm ốc tai kích gợi
thoáng qua được so sánh:
Bảng 15: So sánh tỉ lệ giảm thính lực giữa các tác giả
Tác giả Năm
Cỡ mẫu
(n)
Tỉ lệ
(%)
Nguyễn Thu Thủy
(16)
2005 12202 3,4
Phạm Thị Tỉnh và Cs
(5)
2011 6571 5,9
Benedicte Vos
(15)
2014 245219 12,79
Baran Acar
(6)
2015 1000 11,1
Ramzan Shahid
(Error! Reference source not
found.)
2015 1272 8,5
Paula Van Dommelen
(8)
2015 18636 2,2
Chúng tôi 2016 1351 8
Qua các số liệu nghiên cứu của các tác giả,
chúng tôi nhận thấy tỉ lệ giảm thính lực chiếm tỉ
lệ 2,2% -12,79%. Sự khác biệt về tỷ lệ OAE (-)
trong các nghiên cứu có thể do ảnh hưởng của
nhiều yếu tố. Trước hết là ảnh hưởng của những
yếu tố bên ngoài tới kết quả sàng lọc nghe kém
bằng OAE. Kết quả của OAE có thể bị ảnh
hưởng bởi tiếng ồn xung quanh nơi diễn ra đo.
Bên cạnh đó kết quả của OAE sẽ bị ảnh hưởng
bởi các dị hình ống tai, ráy tai, hoặc dịch trong
tai. Những yếu tố này làm tăng tỷ lệ âm tính giả
của nghiệm pháp sàng lọc(14).
Hình 1: Kết quả đo âm ốc tai : REFER (Nguồn: Mẹ Trịnh Thị L, số nhập viện 16002148)
Kết quả sàng lọc nghe kém qua đo âm ốc tai
cho thấy, nghe kém cả 2 tai là hình thức nghe
kém phổ biến nhất, chiếm 42,5% tổng số nghe
kém. Chỉ nghe kém tai phải hoặc tai trái chiếm tỉ
lệ thấp 22,5% và 35% (Bảng 1). Kết quả này cũng
tương tự các kết quả nghiên cứu trước đây qua
sàng lọc nghe kém bằng đo âm ốc tai. Nghiên
cứu của Nguyễn Thu Thủy (2005)(8) cho thấy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 71
nghe kém cả hai tai chiếm 85,0%, chỉ nghe kém
tai phải hoặc tai trái chỉ chiếm 15,0%. Tương tự
như vậy, tác giả Phạm Thị Tỉnh sàng lọc nghe
kém cho 6571 trẻ sơ sinh tại Thái Bình cũng cho
thấy trẻ có kết quả OAE âm tính ở cả 2 tai chiếm
tỷ lệ cao nhất (51,6%)(11). Tuy nhiên nghiên cứu
của Hung Meng Huang (2013)(5) cho thấy tỉ lệ
nghe kém cả hai tai 48%, tỉ lệ nghe kém 1 bên là
51%. Như vậy tỉ lệ nghe kém có sự khác nhau
giữa các tác giả.
Các yếu tố liên quan đến kết quả đo
Bệnh của mẹ khi mang thai
Phân tích kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy
nguy cơ trẻ sơ sinh có kết quả đo OAE không đạt
thuộc nhóm mẹ bị cảm cúm cao gấp 3,7 lần,
động thai cao gấp 7,4 lần trẻ sơ sinh thuộc nhóm
mẹ không có những nguy cơ trên. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với P < 0,001. Tuy nhiên do
số lượng trẻ ít nên không tính được nguy cơ và
sự khác biệt do các yếu tố bệnh lý khác của Mẹ.
Nhiễm virút có thể là nguyên nhân gây giảm
thính lực. Theo Jun-ichi-Kawada, mẹ bị nhiễm
Cytomegalovirus khi mang thai thì 30% trẻ sơ
sinh sẽ bị giảm thính lực, nếu không có triệu
chứng lâm sàng thì khoảng 20% có giảm thính
lực(6). Ngoài ra, còn có nhiều yếu tố nguy cơ
trong khi mang thai có thể dẫn đến nghe kém ở
trẻ em bao gồm mẹ bị nhiễm rubella khi mang
thai, giang mai hoặc một nhiễm trùng nào đó
trong quá trình mang thai(10). Chúng tôi chưa có
điều kiện để khảo sát các yếu tố trên trong
nghiên cứu này.
Mẹ dùng thuốc khi mang thai
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận một số
trường hợp các bà mẹ dùng thuốc trong lúc
mang thai (Bảng 5). Tuy nhiên, nghiên cứu
không ghi nhận các biến số trên có mối liên
quan đến giảm thính lực ở trẻ. Sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên,
một số tác giả khác ghi nhận việc người Mẹ
dung thuốc trong thai kỳ có nguy cơ gây giảm
thính lực ở trẻ sơ sinh(8,2).
Tuổi mẹ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi mẹ
trung bình là 28,7 ± 5,3. Tương tự các báo cáo
trên y văn(4,12) chúng tôi nhận thấy tuổi mẹ không
ảnh hưởng đến kết quả đo OAE.
Chúng tôi nhận thấy tỉ lệ trẻ nhẹ cân nhỏ
hơn 2500 gram cũng như mối liên hệ trọng
lượng và kết quả đo OAE thay đổi khác nhau
theo từng nghiên cứu. Đó có thể do tiêu chuẩn,
địa điểm chọn mẫu khác nhau.
Cân nặng trẻ
Bảng 16: So sánh cân nặng trẻ giữa các nghiên cứu
Tác giả (Năm) Cỡ mẫu (n) Tỉ lệ trẻ Cân nặng < 2500 gram (%) Cân nặng trung bình (gram) P
Nguyễn Thu Thủy (2005)
(5)
12,202 0,9 <0,001
Bolajoko (2010)
(16)
1745 12,3 >0,05
Ramzan Shahid (2015)
(18)
1272 4,5 0,9
Bacar Acar (2015)
(7)
1000 0,4 3331 >0,5
Inae Costa (2016)
(17)
140 60,72 2299 <0,001
Chúng tôi (2016) 1351 5,4 3151 ± 386 0,8
Tuổi thai
Nghiên cứu của chúng có 67 trẻ sơ sinh có
tuổi thai dưới 37 tuần, trong đó có 9/67 chiếm
8,3% trẻ có kết quả đo OAE không đạt. Trong
nghiên cứu của Ramzan Shahid (2015)(12) tuổi
thai nhỏ hơn 37 tuần chiếm 10,7% trẻ không đạt,
tỉ lệ này cao hơn chúng tôi. Tuy nhiên, sự khác
biệt này không có ý nghĩ thống kê.
Chỉ số Apgar
Chỉ số Apgar đo tại phút thứ 5 đóng vai trò
quan trọng trong việc dự đoán tỉ lệ tổn thương
thần kinh ở trẻ sơ sinh.
Mối liên quan giữa chỉ số Apgar với tình
trạng khiếm thính của trẻ được báo cáo từ năm
1982 tại Hội thính lực trẻ sơ sinh của Mỹ (JCIH).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 72
Gần đây, một nghiên cứu so sánh có đối chứng
giữa 64 trẻ sơ sinh giảm thính lực với 270 trẻ
bình thường đã đưa ra kết luận: những trẻ có
điểm Apgar đo ở phút thứ 5 thấp hơn 7 có nguy
cơ mắc bệnh cao gấp 5 lần so với nhóm còn lại.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác được thực
hiện tại các khoa săn sóc đặc biệt hoặc các trẻ có
yếu tố nguy cơ cao lại không tìm được mối liên
quan này.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có
trường hợp nào có chỉ số Apgar dưới 8 tại phút
thứ 5, tuy nhiên khi kiểm định bằng phép kiểm
Mann-Whitney sự khác biệt về chỉ số Apgar giữa
2 nhóm đạt và không đạt là có ý nghĩa thống kê
(P < 0,001).
Kiểu sinh
Nghiên cứu về mối liên quan giữa giảm
thính lực và yếu tố kiểu sinh, chúng tôi sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê (P = 0,1).
Trong các báo cáo của mình các tác giả Tiejun
Xiao(18), Ramzan shahid(12) cũng ghi nhận không
có mối liên quan giữa giảm thính lực với kết quả
đo OAE. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của
Nguyễn Thị Bích Thủy và Đỗ Hồng Giang
(2007)(7) trong các kiểu sinh: sinh thường, sinh
mổ, sinh hút, forceps, sanh chỉ huy, thì sanh mổ
có mối liên quan tới giảm thính lực ở trẻ.
Vàng da sau sinh phải điều trị
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 18 trẻ bị
vàng da sơ sinh cần phải điều trị (chiếu đèn,
truyền dịch), trong đó có 5 trẻ có kết quả đo OAE
không đạt. Nguy cơ trẻ sơ sinh bị vàng da bất
thường có kết quả đo âm ốc tai kích thích thoáng
qua không đạt cao gấp 4,5 lần sơ với trẻ không
có nguy cơ. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(P = 0,01).
Nghiên cứu ở trẻ có nguy cơ cao tại Hà Nội
nhận thấy vàng da tăng bilirubin tự do không
phải là yếu tố nguy cơ của giảm thính lực. Tuy
nhiên vàng da do tăng bilirubin tự do phải thay
máu và có vàng nhân não ở trẻ có nguy cơ cao
đều là những yếu tố nguy cơ của nghe kém (OR
= 5,3, 95%CI: 4,19-6,72)(2).
Nhiễm trùng sau sinh
Tỉ lệ trẻ sơ sinh được chẩn đoán nhiễm trùng
sau sinh trong nghiên cứu của chúng tôi tương
đối thấp (0,2%), nguy cơ trẻ sơ sinh bị nhiễm
trùng sau sinh có kết quả đo âm phát ốc tai kích
thích không đạt cao gấp 3 lần so với trẻ không bị
nhiễm trùng. Sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (P = 0,28). Các trường hợp nhiễm trùng
được phát hiện trong nghiên cứu là viêm phổi,
viêm đường hô hấp trên, nhiễm trùng ối. Kết
quả nghiên cứu này cũng giống với y văn trên
thế giới và tại Việt Nam(7).
Dùng kháng sinh ở trẻ sơ sinh
Phân tích số liệu nghiên cứu chúng tôi
thấy có 5 trẻ sơ sinh dùng kháng sinh điều trị
nhiễm trùng ối, nhiễm trùng sau sinh. Kết quả
đo âm ốc tai kích thích thoáng qua không đạt
ở 1/5 trẻ (20%) trẻ có sử dụng kháng sinh so
với nhóm trẻ không dùng thuốc 107/1346
(7,9%). Nguy cơ trẻ dùng kháng sinh thì kết
quả đo âm ốc tai kích thích thoáng qua không
đạt cao gấp 2,8 lần trẻ sơ sinh không sử dụng.
Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (P = 0,3).
Nghiên cứu ở Mỹ cho thấy nhiễm độc trong
y khoa là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây nghe kém
ở các trẻ sơ sinh có nguy cơ cao phải điều trị tích
cực. Nghiên cứu cho thấy 44,4% trẻ bị nghe kém
có tiền sử sử dụng các loại thuốc gây nhiễm
độc(3).
Dị tật bẩm sinh vùng đầu mặt
Nghiên cứu của chúng tôi có có 18 trẻ sơ
sinh có dị tật bẩm sinh vùng đầu mặt, trong đó
có 9/18 (50%) trẻ có kết quả đo âm ốc tai kích
thích thoáng qua không đạt. Các dị tật bẩm
sinh bao gồm sứt môi, dò luân nhĩ, tai nhỏ,
không có ống tai ngoài. Hạn chế trong nghiên
cứu do cỡ mẫu nhỏ nên chưa phát hiện được
nhiều trẻ bị dị tật vùng đầu mặt. Kết quả
nghiên cứu này cũng tương tự với các báo cáo
y văn trên thế giới(9,17).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 73
Tiền sử gia đình
Nghiên cứu về mối liên quan giữa trẻ giảm
thính lực với tiền sử gia đình có người bị khiếm
thính, trong 14 trẻ sơ sinh được chúng tôi phát
hiện trong gia đình có người bị điếc thì có 2/14
(14,2%) trẻ có kết quả đo âm ốc tai kích thích
thoáng qua không đạt, so với nhóm trẻ không có
tiền sử gia đình bất thường thì tỉ lệ trẻ không đạt
khi đo âm ốc tai là 7,9%, mặc dù có sự chênh lệch
về tỉ lệ giữa 2 nhóm. Ghi nhận này tương tự kết
quả nghiên cứu của tác giả Thủy(7) sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (P = 0,3). Tuy
nhiên, một số nghiên cứu của các tác giả trên thế
giới nhận định rằng yếu tố di truyền liên quan
đến kết quả đo âm ốc tai(1).
KẾT LUẬN
Việc phát hiện muộn những trường hợp
giảm thính lực vừa, nặng, điếc sâu có thể dẫn
đến khiếm thính gây tình trạng chậm phát triển
ngôn ngữ và trí tuệ một cách trầm trọng, biến trẻ
giảm thính lực thành một trẻ tàn tật vĩnh viễn(1).
Do đó việc phát hiện và can thiệp kịp thời sẽ
mang lại cho trẻ một cơ hội lớn trong việc hồi
phục khả năng nghe, phát triển các kỹ năng
ngôn ngữ, giúp trẻ học tập, hòa nhập cộng đồng
và giảm gánh nặng cho bản thân trẻ, gia đình và
xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Acar B, Ocak E, Acar M, Kocaoz D, (2015), "Comparison of risk
factors in newborn hearing screening in a developing country",
The Turkish journal of pediatrics, 57(4), pp.334-338.
2. Alaee E, Sirati M, Taziki MH, Fouladinejad M, (2015), "Risk
Factors for Sensorineural Hearing Loss Among High-Risk
Infants in Golestan Province, Iran in 2010 - 2011", Iranian Red
Crescent medical journal, 17(12), pp.204-209.
3. Bielecki I, Horbulewicz A, Wolan T (2011), "Risk factors
associated with hearing loss in infants: An analysis of 5282
referred neonates", International journal of pediatric
otorhinolaryngology, pp. 925-930.
4. Cavalcanti HG, Guerra R (2012), "The role of maternal
socioeconomic factors in the commitment to universal newborn
hearing screening in the Northeastern region of Brazil",
International journal of pediatric otorhinolaryngology, 76(11),
pp.1661-1667.
5. Huang HM, Chiang S et al (2013), "The universal newborn
hearing screening program of Taipei City", International journal of
pediatric otorhinolaryngology, 77(10), pp.1734-7.
6. Kawada J et al (2015), "Viral load in children with congenital
cytomegalovirus infection identified on newborn hearing
screening", Journal of clinical virology, 65(1), pp.41-45.
7. Nguyễn Thị Bích Thủy, Đỗ Hồng Giang, (2007), "Giá trị của các
phương tiện thính học đơn giản trong sàng lọc khiếm thính trẻ
sơ sinh", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 11(3), tr.23-26.
8. Nguyễn Thu Thủy, (2005), "Nghiên cứu giảm thính lực ở trẻ sơ
sinh bằng đo âm ốc tai sàng lọc, thiết lập chương trình can thiệp
sớm phụ hồi chức năng cho trẻ nhỏ khiếm thính", Luận văn thạc
sĩ y học, Hà Nội.
9. Ohl C, Dornier L, (2009), "Newborn hearing screening on infants
at risk", International journal of pediatric otorhinolaryngology, 73(12),
pp.1691-1695.
10. Phạm Thị Cơi, (2004), "Bước đầu đánh giá vai trò của âm ốc tai
trong thính học tại cộng đồng, nghiên cứu 3 tỉnh phía bắc: Bắc
Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ", Kỷ yếu công trình nghiên cứu
khoa học 1969 – 2004, tr. 23-26.
11. Phạm Thị Tỉnh, (2008), "Nghiên cứu sàng lọc giảm thính lực ở
trẻ sơ sinh bằng phương pháp đo âm phát ốc tai kích thích
(OAE)", Tạp chí Y học thực hành, 774(7), tr. 48 -51.
12. Rogers SJ, Talbott MR, (2016), "Early Identification and Early
Treatment of Autism Spectrum Disorder".
13. Silva D, Lopez P, (2015), "The importance of retesting the
hearing screening as an indicator of the real early hearing
disorder", Brazilian journal of otorhinolaryngology, 81(4), pp.363-
367.
14. Thành Cao Ngọc, (2012), Sàng lọc khiếm thính ở trẻ sơ sinh,
NXB Đại học Y dược Huế, tr.1-4.
15. Unlu I, Guclu E, (2015), "When should automatic Auditory
Brainstem Response test be used for newborn hearing
screening?", Auris, nasus, larynx, 42(3), pp.199-202.
16. van Dommelen P, Verkerk PH, van Straaten HL, Dutch
Neonatal Intensive Care Unit Neonatal Hearing Screening
Working Group, (2015), "Hearing loss by week of gestation and
birth weight in very preterm neonates", The Journal of pediatrics,
166(4), pp.840-843.
17. Wrobel MJ, Greczka G, (2014), "The risk factor profile of children
covered by the Polish universal neonatal hearing screening
program and its impact on hearing loss incidence", International
journal of pediatric otorhinolaryngology, 78(2), pp.209-213.
18. Xiao T, Li Y, (2015), "Association between mode of delivery and
failure of neonatal acoustic emission test: a retrospective
analysis", International journal of pediatric otorhinolaryngology,
79(4), pp.516-519.
Ngày nhận bài báo: 24/10/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/12/2016
Ngày bài báo được đăng:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_sang_loc_khiem_thinh_tre_so_sinh_tai_benh_v.pdf