Tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa chữa kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 106
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA CHỮA KÊNH NHĨ THẤT
TRUNG GIAN VÀ TOÀN PHẦN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC
Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Vũ Trí Thanh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh kênh nhĩ thất chiếm tỉ lệ 2,9% trong số các bệnh tim bẩm sinh. Điều trị nội khoa chỉ có
tính chất nâng đỡ, điều trị Ngoại khoa thì triệt để nhưng phải đúng thời điểm, đúng chỉ định và kỹ thuật mổ phù
hợp. Để đánh giá về đặc điểm tổn thương bệnh, thời điểm mổ, kỹ thuật mổ và kết quả, chúng tôi nghiên cứu đánh
giá kết quả điều trị sớm phẫu thuật kênh nhĩ thất toàn phần tại bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt dọc, tiền cứu
Kết quả: Chúng tôi có 53 bệnh nhân, trong đó nam chiếm tỉ lệ 43,4% và nữ 56,6%; 23 bệnh nhân là kênh
nhĩ thất thể trung gian và 30 toàn thể; tuổi trung bình 5,2 ± 9,3; trọng lượng trung bình 13,8 ± 12,7 kg. Kết quả
sau mổ, trong nhóm kênh nhĩ thất thể trung gian, c...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa chữa kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 106
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA CHỮA KÊNH NHĨ THẤT
TRUNG GIAN VÀ TOÀN PHẦN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC
Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Vũ Trí Thanh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh kênh nhĩ thất chiếm tỉ lệ 2,9% trong số các bệnh tim bẩm sinh. Điều trị nội khoa chỉ có
tính chất nâng đỡ, điều trị Ngoại khoa thì triệt để nhưng phải đúng thời điểm, đúng chỉ định và kỹ thuật mổ phù
hợp. Để đánh giá về đặc điểm tổn thương bệnh, thời điểm mổ, kỹ thuật mổ và kết quả, chúng tôi nghiên cứu đánh
giá kết quả điều trị sớm phẫu thuật kênh nhĩ thất toàn phần tại bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt dọc, tiền cứu
Kết quả: Chúng tôi có 53 bệnh nhân, trong đó nam chiếm tỉ lệ 43,4% và nữ 56,6%; 23 bệnh nhân là kênh
nhĩ thất thể trung gian và 30 toàn thể; tuổi trung bình 5,2 ± 9,3; trọng lượng trung bình 13,8 ± 12,7 kg. Kết quả
sau mổ, trong nhóm kênh nhĩ thất thể trung gian, có 1,9% hở van hai lá nặng, 5,7% hở van hai lá trung bình và
11,3% hở van hai lá nhẹ; có 7,5% hở van ba lá trung bình; không có trường hợp nào hở van hai lá nặng; không có
thông liên nhĩ hay thông liên thất tồn lưu; có 1 trường hợp (1,9%) bị Block nhĩ thất độ 3 sau đó tự hồi phục;
không có trường hợp nào tử vong. Tuy nhiên trong nhóm kênh nhĩ thất toàn thể, có 11,3% hở van nhĩ thất chung
bên trái nặng; 37% hở van nhĩ thất chung bên trái trung bình; 20,7% hở nặng van nhĩ thất chung bên phải trung
bình; có 9,4% block nhĩ thất độ 3 sau đó tự hồi phục; 1,9% bị tử vong.
Kết luận: Phẫu thuật sửa chữa triệt để kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần cho kết quả sớm tương đối tốt,
tuy nhiên tùy thuộc vào thể loại bệnh và tổn thương kèm theo, nếu phẫu thuật đúng thời điểm và đúng kỹ thuật
thì có thể giảm được tỉ lệ biến chứng và tử vong, tuy nhiên cần được nghiên cứu với số bệnh nhân lớn và theo dõi
dài hạn hơn.
Từ khóa: Phẫu thuật sửa chữa kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần
ABSTRACT
RESULT EVALUATION FOR SURGICAL REPAIR OF ATRIOVENTRICULAR SEPTAL DEFECTS AT
UNIVERSITY MEDICAL CENTER, HO CHI MINH CITY
Vu Tri Thanh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 106 – 111
Introduction: Atrioventricular septal defect (AVSD) contributes to 2.9% of congenital heart defects.
Internal medicine treatment is only for supportive. Surgical treatment is full recovery, but must be timely,
appropriate indication and surgical techniques. To assess the characteristics of lesions, time of surgery, surgical
techniques and results, we study and assess the results of early treatment of AVSD surgery at University Medical
Center, Ho Chi Minh city.
Method: Prospective descriptive study
Results: There were 53 patients, of which males accounted for 43.4% and females 56.6%; 23 patients had
intermediate and 30 patients had complete AVSD; mean age was 5,2 ± 9,3 years; mean weight was 13,8 ± 12,7 kg.
At post - operative results, in intermediate AVSD group, 1.9% of patients showed severe mitral valve
regurgitation, while 5.7% had moderate and 11.3% had mild mitral valve regurgitation; 7.5% with moderate
* Bộ môn Ngoại lồng ngực – Tim mạch, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS BS Vũ Trí Thanh ĐT: 0938999929 Email: drthanhtrinh2000@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 107
tricuspid regurgitation; There were no cases of severe mitral valve regurgitation; no persistent atrial or
ventricular septal defect; there was 1 case (1.9%) with type 3 atrioventricular block, then self - recovery; There was
no mortality in our series. However, in complete AVSD group, 11.3% having severe left common AV valve
regurgitation; while 37% was moderate; 20.7% had moderate right common AV regurgitation; 9.4% had type 3
atrioventricular block then self - recovery; 1.9% was dead.
Conclusion: Surgical repair of intermediate and complete AVSD carried early good outcomes, however,
based on the type of disease and associated lesions, the surgery is timely with appropriate technique could reduce
the rate of death and complications, but it should be done with larger number of patients and longer -term studies.
Keywords: surgical repair of transitional and complete atrioventricular septal defects
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh kênh nhĩ thất toàn phần được gọi là
bệnh do khiếm khuyết gối nội mạc hoặc kênh
nhĩ thất hoặc thông sàn nhĩ thất. Tần suất bệnh
Kênh nhĩ thất chiếm tỉ lệ 2,9% trong số các bệnh
tim bẩm sinh. Bệnh này đặc trưng bởi Thông liên
nhĩ lỗ thứ nhất, thông liên thất rộng không hạn
chế và tổn thương van nhĩ thất nặng. Van hai lá
và ba lá không có sự phân chia rõ rệt, nó có
chung một vòng van. Van nhĩ thất chung thường
có 5 mảnh. Kênh nhĩ thất được chia thành 4 loại
là Kệnh nhĩ thất bán phần (Partial AVSD), Kênh
nhĩ thất thể chuyển tiếp (Transitional AVSD),
Kênh nhĩ thất thể trung gian (Intermediate
AVSD) và Kênh nhĩ thất toàn phần (Complete
AVSD) tùy vào mức độ bắc cầu của van nhĩ thất
chung trên trái trên thông liên thất(1,Error!
Reference source not found.,12,14). Bệnh này
diễn tiến ngày càng nặng gây suy tim sung
huyết, tăng áp động mạch phổi làm cho trẻ bị
khó thở, chậm phát triển về thể chất và tinh thần.
Điều trị nội khoa chỉ có tính chất nâng đỡ, điều
trị Ngoại khoa có tính chất điều trị triệt để, tuy
nhiên phải đúng thời điểm, đúng chỉ định và kỹ
thuật mổ phù hợp. Trên thế giới, sau báo cáo đầu
tiên về phẫu thuật điều trị kênh nhĩ thất bởi
Lillehei và cộng sự, nhiều kỹ thuật sửa chữa triệt
để đã được mô tả, trong đó bao gồm sửa chữa hở
van nhĩ thất và đóng các lỗ thông trong tim bằng
1 hay 2 miếng patch(1,Error! Reference source
not found.,13,14). Tại Việt Nam, phẫu thuật điều
trị kênh nhĩ thất đã được tiến hành tại một số
bệnh viện như: bệnh viện E, bệnh viện tim Hà
nội, viện tim thành phố Hồ Chí Minh. Song các
nghiên cứu hồi cứu và mới chỉ đánh giá kết quả
ban đầu. Do vậy việc đánh giá chi tiết về đặc
điểm tổn thương bệnh, mổ bằng kỹ thuật nào,
kết quả ra sao là rất cần thiết.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá kết quả điều trị sớm sau phẫu thuật
kênh nhĩ thất toàn phần tại bệnh viện Đại học Y
Dược TP.HCM
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tổng số bệnh nhân được phẫu thuật kênh
nhĩ thất trung gian và toàn phần tại bệnh viện
Đại học Y Dược TP.HCM từ tháng 1/2016 đến
tháng 7/2017 được lựa chọn với tiêu chuẩn: Chẩn
đoán xác định bằng siêu âm, kênh nhĩ thất trung
gian hoặc toàn phần. Những trường hợp bị tăng
áp phổi nặng được thông tim đo kháng lực phổi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả cắt dọc, tiền cứu.
Từ 1/2016 đến 7/2017, tại bệnh viện Đại học Y
Dược TP.HCM, chúng tôi đã phẫu thuật điều trị
28 trường hợp kênh nhĩ thất. Các bệnh nhân khi
nhập viện sẽ được tiến hành chẩn đoán các vấn
đề của kênh nhĩ thất thông qua bệnh sử (có hội
chứng Down hay không), khám lâm sàng, cận
lâm sàng (X-quang ngực thẳng, điện tâm đồ, siêu
âm tim). Chẩn đoán xác định kênh nhĩ thất dựa
vào siêu âm tim. Siêu âm tim là phương tiện đơn
giản, không xâm lấn nhưng rất hữu ích để chẩn
đoán và đánh giá, tiên lượng, lên kế hoạch phẫu
thuật. Xác định chẩn đoán kênh nhĩ thất qua các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 108
đặc điểm: có thông liên nhĩ nguyên phát, có hoặc
không có thông liên thất, có chẽ ở lá trước van
nhĩ thất trái gây hở van với các mức độ khác
nhau, có 1 hoặc 2 bộ máy van nhĩ thất, đánh giá
mức độ hở van nhĩ thất trái, phải, xác định các
tổn thương phối hợp: tồn tại lỗ bầu dục, thông
liên nhĩ thứ phát, tồn tại TM chủ trên (T), đánh
giá kích thước thất trái, chức năng co bóp thất
trái, áp lực động mạch phổi... Nếu trên siêu âm
tim có tăng áp lực động mạch phổi nặng hoặc
nghi ngờ có nhiều tổn thương phối hợp sẽ làm
thông tim chẩn đoán.
Mở ngực đường giữa xương ức. Thiết lập
tuần hoàn ngoài cơ thể qua ống lấy máu hai tầng
ở nhĩ phải và ống cho máu ở gốc động mạch chủ.
Nhiệt độ cơ thể có thể giữ ở 37oC hay hạ xuống
32oC. Bảo vệ cơ tim bằng cách truyền dung dịch
liệt tim xuôi dòng vào gốc động mạch chủ. Dung
dịch liệt tim lạnh 4oC có máu. Làm lạnh bề mặt
tim bằng đá nhuyễn. Mở nhĩ (P) từ đáy tiểu nhĩ
đến gần TM chủ dưới, song song với rãnh nhĩ
thất. Sau khi mở nhĩ (P), xác định các cấu trúc
giải phẫu trong tim. Những thành phần giải
phẫu cần đánh giá và điều trị bao gồm: thông
liên nhĩ, thông liên thất, van nhĩ thất chung, van
nhĩ thất trái và van nhĩ thất phải. Phẫu thuật
gồm các bước đóng lại thông liên thất, đóng lại
khe hở trên lá van trái, phân chia van nhĩ thất
chung thành van nhĩ thất trái và van nhĩ thất
phải riêng biệt, sửa chữa van nhĩ thất trái, sửa
chữa van nhĩ thất phải, đóng lại thông liên nhĩ,
bảo tồn đường dẫn truyền. Kết quả phẫu thuật
sớm được đánh giá dựa trên các thông số đánh
giá trên lâm sàng, cận lâm sàng. Trên siêu âm
tim sẽ đánh giá: không còn thông liên nhĩ và
thông liên thất tồn lưu. Hậu phẫu sẽ đánh giá
các biến chứng, xác định tỷ lệ tử vong.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 53 bệnh
nhân, trong đó 23 bệnh nhân là nam, chiếm tỉ lệ
43,4% và 30 nữ chiếm 56,6%.
Có 23 bệnh nhân là kênh nhĩ thất thể trung
gian và 30 bệnh nhân thể toàn phần. Tuổi
trung bình là 5,2 ± 9,3. Trọng lượng trung bình
là 13,8 ± 12,7 kg.
Hình 1: Phân bố bệnh theo giới
Hình 2: Phân bố bệnh theo nhóm tuổi
Hầu hết bệnh nhân đến muộn nên tất cả đều
có tình trạng tăng áp phổi từ mức độ trung bình
đến nặng, trong đó, tăng áp phổi ở mức độ trung
bình là 42 bệnh nhân (79,2%) trong khi mức độ
nặng là 11 bệnh nhân (20,8%). Những bệnh nhân
này có bóng tim lớn và có tăng tuần hoàn phổi
trên XQ ngực thẳng. Những trường hợp có tăng
áp phổi nặng đều được thông tim chẩn đoán để
đánh giá mức độ tăng áp động mạch phổi. Đối
với những bệnh nhân này, chúng tôi thường sử
dụng chất ức chế milrinone (chất ức chế
phosphodiesterase) trước mổ và tiếp tục dùng
trong thời gian sau mổ, đồng thời được an thần,
thở máy trong ICU từ 12 đến 24 giờ.
Trong nhóm kênh nhĩ thất trung gian,
nghiên cứu siêu âm tim cho thấy 17,4% người
bệnh trước phẫu thuật (n = 4) hở van 2 lá nhẹ,
17,4% (n=4) ở mức độ vừa và 65,2% (n=15) ở mức
độ nặng; 78,3% (n = 18) bệnh nhân hở van 3 lá ở
mức độ vừa. Trong nhóm kênh nhĩ thất toàn thể,
nghiên cứu siêu âm tim cho thấy 100% trường
hợp có hở nặng van chung nhĩ thất. Ngoài ra,
chúng tôi ghi nhận các tổn thương kèm theo
gồm có tim 1 thất dạng thất phải 8 trường hợp
(15,1%), thất phải hai đường thoát 4 trường hợp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 109
(7,5%), tứ chứng Fallot 2 trường hợp (3,8%), bất
thường hồi lưu tĩnh mạch phổi 4 trường hợp
(7,5%), hẹp động mạch phổi 2 trường hợp (3,8%),
còn ống động mạch 9 trường hợp (17%); 1
trường hợp có MAPCAs (1,9%) và 1 trường hợp
situs inversus (1,9%).
Kết quả sau mổ, trong nhóm kênh nhĩ thất
thể trung gian, có 1 trường hợp (1,9%) hở van hai
lá nặng, 3 trường hợp (5,7%) hở van hai lá trung
bình, và 6 trường hợp (11,3%) có hở van hai lá
nhẹ, có 4 trường hợp (7,5%) hở van ba lá trung
bình, không có trường hợp nào hở van hai lá
nặng; không có thông liên nhĩ hay thông liên
thất tồn lưu; có 1 trường hợp (1,9%) bị Block nhĩ
thất độ 3 sau đó tự hồi phục; không có trường
hợp nào tử vong. Tuy nhiên trong nhóm kênh
nhĩ thất toàn thể, có 6 trường hợp (11,3%) hở van
nhĩ thất chung bên trái nặng; 11 trường hợp
(37%) hở van nhĩ thất chung bên trái trung bình;
17 trường hợp (20,7%) hở nặng van nhĩ thất
chung bên phải trung bình; có 5 trường hợp
(9,4%) bị block nhĩ thất độ 3 sau đó tự hồi phục; 1
trường hợp (1,9%) bị tử vong.
Bảng 1. Biến chứng sau mổ
Biến chứng sau mổ Số trường
hợp
Tỉ lệ (%)
Nhiễm trùng
Nhiễm trùng vết mổ
Viêm phổi
5
18
9,4
34
Tràn dịch màng phổi
Tràn dịch dưỡng trấp
Tràn dịch không dưỡng trấp
1
13
1,9
24,5
Tràn khí màng phổi 3 5,7
Tràn dịch màng tim 4 7,5
Block nhĩ thất độ III tạm thời 6 11,3
Nội khí quản và thở máy sau
mổ, kéo dài trên 2 tuần
7 13,2
Tử vong 1 1,9
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy
kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần thể hiện
trên lâm sàng bệnh tim ở nhiều mức độ khác
nhau. Hầu hết bệnh nhân đều là những người
phát hiện trễ vì được chuyển đến muộn, với các
yếu tố tiên lượng xấu như suy tim, hở van mức
độ vừa đến nặng trước phẫu thuật và tăng áp
phổi(1,Error! Reference source not found.,14).
Với tiến bộ trong kỹ thuật mổ, gây mê, hồi sức,
kết quả của phẫu thuật điều trị triệt để kênh nhĩ
thất trung gian và toàn phần ngày càng được cải
thiện(5,Error! Reference source not found.,11).
Việc chọn thời điểm phẫu thuật là rất quan
trọng. Trong nghiên cứu, chúng tôi chọn thời
điểm mổ nhiều nhất là trước 1 tuổi vì những
bệnh nhân này hở nặng van 2 lá và van nhĩ thất
chung và lỗ thông liên nhĩ và thông liên thất lớn,
tăng áp phổi nặng, suy tim ứ huyết, kém đáp
ứng điều trị nội khoa. Với những trường hợp bị
hở van mức độ nhẹ hoặc vừa, lỗ thông liên nhĩ
nhỏ hoặc vừa, chưa tăng áp động mạch phổi
hoặc tăng nhẹ, chúng tôi điều trị nội khoa và thời
điểm mổ tốt nhất là từ 2 đến 6 tuổi.
Weintraub RG(15) cho rằng nếu sau mổ tình
trạng hở van mức độ vừa tăng lên đáng kể, đó là
do sự hở van mức độ nặng trước mổ; hở van
trước phẫu thuật cũng làm tăng tỷ lệ tử vong.
Chowdhury UK(3) và các cộng sự cũng cho rằng
sau khi sửa chữa kênh nhĩ thất, 10% bệnh nhân
đã hở van tim nặng hơn và hầu hết những bệnh
nhân này đều bị hở van tim nặng trước mổ. Jerbi
S(7) cùng cộng sự cũng quan sát thấy rằng trong
56 bệnh nhân được sửa chữa kênh nhĩ thất bị hở
van hai lá hậu phẫu, có 28,5% trường hợp ở cấp
độ I, 60% trường hợp ở cấp độ 2, trong khi 7,5%
trường hợp hở van hai lá cấp độ 3,4. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, nhóm kênh nhĩ thất
toàn thể, có 6 trường hợp (20%) hở van nhĩ thất
chung bên trái nặng. Tất cả những trường hợp
này đều có hở van nặng trước mổ. Manning(8)
cũng gợi ý rằng sự cùng tồn tại của tăng áp phổi
cùng những bất thường van hai lá phức tạp làm
tăng tỷ lệ mắc bệnh trong phẫu thuật. Tuy nhiên,
phẫu thuật sửa chữa sớm có thể ngăn diễn tiến
bệnh hở van hai lá, tăng áp phổi, loạn nhịp tim
và suy tim.
Nghiên cứu của Jeffrey P. Jacobs và Martin J
Elliot(Error! Reference source not found.) cùng
cộng sự nghiên cứu phẫu thuật kênh nhĩ thất
bán phần có tỉ lệ block tim vĩnh viễn dưới 1% và
cần đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn; Portman MA(13)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 110
cùng cộng sự cũng cho rằng phẫu thuật sửa chữa
kênh nhĩ thất trung gian có tỷ lệ tử vong thấp,
tuy nhiên hở van hai lá tồn lưu lại khá phổ biến
mặc dù ở mức độ nhẹ đến vừa và rối loạn nhịp
tim là một biến chứng khá thường, đôi khi đòi
hỏi phải đặt máy tạo nhịp. Trong NC của chúng
tôi, nhóm kênh nhĩ thất thể trung gian có 4,7% bị
block và nhóm kênh nhĩ thất toàn thể có 16,7% bị
block nhĩ thất độ 3 nhưng tất cả trường hợp tự
hồi phục không cần đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn.
Để tránh biến chứng block nhĩ thất, trước đây
chúng tôi chủ động để lỗ xoang vành sang bên
trái. Nhiều nghiên cứu của các tác giả trên thế
giới nhận thấy việc để lỗ xoang vành bên trái và
bên phải không có khác biệt về tỉ lệ rối loạn dẫn
truyền sau mổ. Vì vậy, chúng tôi vẫn để bên
phải, đồng thời hết sức cẩn thận trong các mũi
khâu ở vùng nguy hiểm, dùng kim nhỏ, mũi
khâu rất nông chỉ vừa đủ để giữ miếng vá màng
tim.
Gurbuz AT(4) và cộng sự báo cáo rằng việc
tắc nghẽn đường thoát thất trái sau khi sửa chữa
kênh nhĩ thất bán phần có thể phổ biến hơn
nhiều so với các nghiên cứu khác nhau. Trong
nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp
nào tắc nghẽn đường thoát thất trái sau phẫu
thuật, tuy nhiên cần theo dõi thêm trong thời
gian hậu phẫu. Để tránh hẹp đường ra thất trái,
trong những trường hợp bị thiểu sản lá trước
van hai lá, chúng tôi chủ động mở rộng lá van
bằng miếng vá màng ngoài tim.
Bảng 2. Kết quả sau phẫu thuật kênh nhĩ thất trung
gian, so sánh với các tác giả
Tác giả Hở van 2
lá nhẹ (%)
Hở van 2
lá vừa (%)
Hở van 2 lá
nặng (%)
Tử
vong
(%)
Jerbi S (2009) 28,5 60 7,5 1,8
Murashita
(2004)
(10)
67,7 30 3,3 1,6
Chúng tôi
(2017)
11,3 5,7 1,9 0
Hầu hết các trường hợp kết quả không tốt
như hở van nhĩ thất chung bên trái nặng, block
nhĩ thất độ 3, viêm phổi, tràn dịch dưỡng trấp,
cần thở máy và nằm lâu trong hồi sức xảy ra ở
bệnh nhân có thương tổn ở tim phối hợp, nhỏ ký
và tăng áp phổi nặng; có 1 trường hợp tử vong
xảy ra trên bệnh nhân đến trễ, 6 tuổi, bị kênh nhĩ
thất toàn phần, tim 1 thất dạng thất phải, hẹp
phổi, hở van chung nhĩ thất nặng.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật sửa chữa triệt để kênh nhĩ thất
trung gian và toàn phần cho kết quả sớm tương
đối tốt, tuy nhiên tùy thuộc vào thể loại bệnh và
tổn thương kèm theo, nếu phẫu thuật đúng thời
điểm và đúng kỹ thuật thì có thể giảm được tỉ lệ
biến chứng và tử vong, tuy nhiên cần được
nghiên cứu với số bệnh nhân lớn và theo dõi dài
hạn hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barratt-Boyes B (1973). Heart Disease in Infancy: Diagnosis
and Surgical Treatment: Correction of atrioventricular canal
defects in infancy using profound hypothermia, EA Harris
Edinburgh and London, Churchill Livingstone, p.285.
2. Backer C, Mavroudis C (2013). Pediatric Cardiac Surgery (4rth
Edition): Atrioventricular Canal Defects, Wiley-Blackwell,
p.342–358.
3. Chowdhury UK, Airan B, Malhotra A, Bisoi AK, Kalaivani M,
Govindappa RM, et al (2009). Specific issues after surgical
repair of partial atrioventricular septal defect: actuarial
survival, freedom from reoperation, fate of the left
atrioventricular valve, prevalence of left ventricular outflow
tract obstruction, and other events, J Thorac Cardiovasc Surg,
137(3), p.548–555.
4. Gurbuz AT, Novick WM, Pierce CA, Watson DC (1999). Left
ventricular outflow tract obstruction after partial
atrioventricular septal defect repair, Ann Thorac Surg, 68(5),
p.1723–1726.
5. Jacobs JP, Elliott MJ, Larry R, Kaiser R, Kron IL (2014). Mastery
of cardiothoracic surgery of Thomas: Atrioventricular canal
defects, L Spray 3rd editors, p.892–909.
6. Jacobs JP, Elloit MJ (2014). Mastery of Cardiothoracic
Surgery 3rd Edition: Atrioventricular Canal Defects,
Philadelphia Wolters Kluwer/Lippincott Williams, p. 892–909.
7. Jerbi S, Tarmiz A, Romdhani N, Kortas C, Chaouch N, Alimi
F, et al (2009): Surgery of 56 patients having a partial
atrioventricular septal defect, Ann Cardiol Angeiol (Paris), 58(2),
p.129–133.
8. Manning PB, Mayer JE, Jr, Sanders SP, Coleman EA, Jonas RA,
Keane JF, et al (1994): Unique features and prognosis of
primum ASD presenting in the first year of life, Circulation,
90(5 Pt 2), p.30–35.
9. Kanani M, Elliott MJ (2014). Johns Hopkins Textbook of
Cardiothoracic Surgery. 2nd Edition: Atrioventricular Septal
Defect, New York: McGraw Hill Education, p.1043–1060.
10. Murashita T, et al (2004). Left atrioventricular valve
regurgitation after repair of incomplete atrioventricular septal
defect, The Annals of Thoracic surgery, Volume 77, Issue 6,
p.2157-2162
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 111
11. Nicholas TK, Eugene HB, Frank LH, James K Kirklin (2013).
Atrioventricular Septal Defect, Kirklin/Barratt-Boyes Cardiac
Surgery Philadelphia 4th edition, p.1228–1273.
12. Pillai R, Ho SY, Anderson RH, Lincoln C (1986). Ostium
primum atrioventricular septal defect: an anatomical and
surgical review, Ann Thorac Surg, 41(4), p.458–461
13. Portman MA, Beder SD, Ankeney JL, van Heeckeren D,
Liebman J, Riemenschneider TA: A 20-year review of ostium
primum defect repair in children, Am Heart J, 110(5),
p.1054–1058.
14. Somerville J (1965). Ostium primum defect: factors causing
deterioration in the natural history, Br Heart J, 27(3), p.413–
423.
15. Weintraub R, Brawn W, Venables A, Mee R (1990). Two-patch
repair of complete atrioventricular septal defect in the first
year of life. Results and sequential assessment of
atrioventricular valve function, J Thorac Cardiovasc Surg, 99(2),
p.320–326.
Ngày nhận toàn văn: 23/11/2017
Ngày nhận bài nhận xét: 24/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_phau_thuat_sua_chua_kenh_nhi_that_trung_gia.pdf