Tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến muộn ở trẻ em: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 133
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT GÃY TRÊN HAI LỒI CẦU XƯƠNG
CÁNH TAY ĐẾN MUỘN Ở TRẺ EM
Phan Văn Tiếp*, Phan Đức Minh Mẫn*, Trương Minh Mẫn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay trẻ em đến muộn thường khó điều trị và dễ gặp các biến
chứng như cứng khuỷu, tổn thương thần kinh mạch máu. Từ năm 2013, tại khoa Nhi bệnh viện Chấn Thương
Chỉnh Hình thành phố Hồ Chí Minh, đã bắt đầu thực hiện việc điều trị gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến
muộn ở trẻ em bằng phương pháp mổ nắn và kết hợp xương.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến muộn ở trẻ em
bằng phương pháp mổ nắn xuyên kim.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu với cỡ mẫu là 39 bệnh nhân. Đối tượng được chọn vào
nghiên cứu là bệnh nhi (<15 tuổi) bị gãy trên hai lồi cầu cánh tay đến muộn và đã được phẫu thuật tại khoa Nhi
Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh H...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến muộn ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 133
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT GÃY TRÊN HAI LỒI CẦU XƯƠNG
CÁNH TAY ĐẾN MUỘN Ở TRẺ EM
Phan Văn Tiếp*, Phan Đức Minh Mẫn*, Trương Minh Mẫn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay trẻ em đến muộn thường khó điều trị và dễ gặp các biến
chứng như cứng khuỷu, tổn thương thần kinh mạch máu. Từ năm 2013, tại khoa Nhi bệnh viện Chấn Thương
Chỉnh Hình thành phố Hồ Chí Minh, đã bắt đầu thực hiện việc điều trị gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến
muộn ở trẻ em bằng phương pháp mổ nắn và kết hợp xương.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến muộn ở trẻ em
bằng phương pháp mổ nắn xuyên kim.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu với cỡ mẫu là 39 bệnh nhân. Đối tượng được chọn vào
nghiên cứu là bệnh nhi (<15 tuổi) bị gãy trên hai lồi cầu cánh tay đến muộn và đã được phẫu thuật tại khoa Nhi
Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình Thành Phố Hồ Chí Minh
Kết quả nghiên cứu: Về mặt giải phẫu: có 33 trường hợp (84,6%) góc Baumann không thay đổi thứ phát
sau mổ, 35 trường hợp (89,7%) góc thân hành xương không thay đổi sau mổ. Hai trường hợp (5,12%) khuỷu vẹo
trong, 31 trường hợp (79,5%) phục hồi chức năng có kết quả chung cuộc khá, tốt.
Kết luận: Phương pháp phẫu thuật mổ nắn, xuyên kim lồi cầu ngoài qua đường mổ ngoài khuỷu là phương
pháp cố định vững chắc và mang lại kết quả phục hồi chức năng khá tốt trong việc điều trị gãy trên hai lồi cầu
xương cánh tay đến muộn ở trẻ em.
Từ khóa: gãy trên hai lồi cầu cánh tay, mổ nắn xuyên kim.
ABSTRACT
EVALUATION OF SURGERY OF LATE SUPRACONDYLAR FRACTURE OF THE HUMERUS IN
CHILDREN
Phan Van Tiep, Phan Duc Minh Man, Truong Minh Man
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 133 - 138
Introduction: Late presentation of supracondylar fracture of the humerusin children would be difficult to
treat, and at high risk of elbow deformities and neurovascular complications. Since 2013, in Paediatric
Department of the Hospital for Traumatology and Orthopeadics Ho Chi Minh city, has applied open reduction
and internal fixation (ORIF) for the treatment of the fracture. However, there has not been any statistical studies
to evaluated the outcome.
Objectives: To evaluate the results of treatment for late presentation of supracondylar fracture of the
humerus in children using open reduction and internal fixation with K-wiring from lateral condyle.
Method: Retrospective study with a sample size of 39 patients. Subjects in the study selected patients (<15
years old) on Supracondylar fracture of the humerus to explore and has been operating late in Paediatric
Department at hospital for Traumatology and Orthopeadics Ho Chi Minh city.
Result: 33/39 cases (84.6%), Baumann angles and 35/39 cases (89,7%) metaphyseal-dyaphyseal
*Bệnh viện CTCH TP Hồ Chí Minh ** Bệnh Viện Chỉnh Hình và Phục Hồi Chức Năng Tp.HCM
Tác giả liên lạc: Ths. BS. Trương Minh Mẫn, ĐT: 01682601721 Email: drminhmanctch@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 134
angles are not displaced secondary to surgery. Besides, for a regular method of straightening surgical needle
with 5.12% recorded cases varus elbow complications; 79.5% of rehabilitation elbows pretty good case good
overall results.
Conclusion: The method fracture surgery on Supracondylar fracture of the humerus late in children by
means of open reduction and internal fixation supracondylar through external incision is a surgical method has
many advantages. Combine harvesting bone by means of bending open reduction and internal fixation
supracondylar and cross the bridge apart is firmly fixed method and the method of ORIF supracondylar yield
results fairly good rehabilitation.
KeywordsSupracondylar fracture of the humerus, open reduction and internal fixation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay ở trẻ em
là loại gãy xương rất thường gặp ở vùng khuỷu.
Có nhiều nguyên nhân gây gãy trên hai lồi cầu
xương cánh tay nhưng chủ yếu vẫn là tai nạn
sinh hoạt, trẻ ngã chống tay gây lực gãy gián
tiếp. Theo quan điểm hiện nay việc điều trị gãy
trên hai lồi cầu xương cánh tay ở trẻ em là điểu
trị cấp cứu ngay sau chấn thương.
Tuy nhiên, có một tỉ lệ bệnh nhân không đến
bệnh viện hay không được phẫu thuật sớm vì
nhiều lí do như không điều trị ngay khi xảy ra
chấn thương, bó thuốc nam, hôn mê do chấn
thương sọ não, chỉ định bó bột cho những
trường hợp gãy di lệch nhất là ở các nước
đang phát triển như ở nước ta. Ở nước ta, vẫn
giữ quan điểm chờ đợi đến khi can lệch mới điều
trị những trường hợp gãy trên hai lồi cầu xương
cánh tay ở trẻ em đến muộn. Năm 2013, tại khoa
Nhi bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình thành
phố Hồ Chí Minh, đã bắt đầu thực hiện việc điều
trị gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến muộn
ở trẻ em bằng phương pháp mổ nắn và kết hợp
xương. Tuy nhiên vẫn chưa có một nghiên cứu
thống kê nào đánh giá kết quả điều trị. Vì thế,
chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “Đánh giá
kết quả phẫu thuật gãy trên hai lồi cầu xương
cánh tay đến muộn ở trẻ em”.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả điều trị gãy trên hai lồi cầu
xương cánh tay đến muộn ở trẻ em bằng
phương pháp mổ nắn xuyên kim.
Đánh giá sự phục hồi về mặt cấu trúc giải
phẫu sau mổ.
Đánh giá sự phục hồi về chức năng khuỷu
sau mổ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả những bệnh nhân nhi (<15 tuổi), bị
gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay đến muộn
khám và đã được mổ tại khoa Nhi Bệnh Viện
Chấn Thương Chỉnh Hình, Thành Phố Hồ Chí
Minh từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12
năm 2015.
Tiêu chí loại trừ
Thời gian từ khi chấn thương đến khi đến
viện ít hơn 3 tuần và nhiều hơn 6 tuần.
Có dị tật vùng khuỷu bẩm sinh kèm theo.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu
Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu dự kiến 30 bệnh nhân.
Xử lý số liệu
Kết quả nghiên cứu được xử lý thống kê theo
chương trình STATA 10.0
KẾT QUẢ
Phương pháp cố định xương
Trong nghiên cứu của chúng tôi sử dụng
đường mổ ngoài và xuyên kim lối ngoài, có 27
trường hợp xuyên 2 kim, 8 trường hợp xuyên 3
kim và 4 trường hợp xuyên 3 kim và cột chỉ thép.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 135
Kết quả phục hồi giải phẫu
Sự thay đổi góc Baumann thời điểm ngay
sau mổ so với góc Baumann sau mổ 1
tháng
Bảng 1. Sự thay đổi của góc Baumann sau mổ và sau
mổ 1 tháng
Độ chênh lệch Số trường hợp Tỉ lệ %
< 6
o
33 84,6%
6 - 12
o
6 15,4%
>12
o
0 0%
Tổng số 39 100%
Nhận xét: Có 33 trường hợp góc Baumann thay
đổi < 6o, 6 trường hợp góc Baumann thay đổi 6 - 12o
và không có trường hợp nào góc Bauman >120.
Mối liên quan giữa sự thay đổi góc Baumann
sau mổ 1 tháng với số lượng kim xuyên
Bảng 2. Liên quan giữa sự thay đổi góc Baumann sau
mổ 1 tháng với số kim xuyên
Số kim Sự thay đổi của góc Baumann Tỉ lệ
Không di lệch
(<6
o
)
Di lệch ít (6
o
-
12
o
)
2 kim 22 5 69,2%
3 kim 7 1 20,5%
3 kim + chỉ
thép
4 0 10,3%
Tổng 33 6 100%
Nhận xét: Ở cả 3 nhóm hầu như không có
di lệch góc Baumann sau mổ 1 tháng. Di lệch
thứ phát vừa chủ yếu xảy ra ở nhóm xuyên 2
kim 5/22 trường hợp. Tuy nhiên sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (p= 0,612 >
0,05, phép kiểm Chi-Square).
Mối liên quan giữa sự thay đổi góc Baumann
sau mổ 1 tháng với di lệch còn lại ngay sau
mổ
Bảng 3. Liên quan giữa sự thay đổi góc Baumann sau
mổ 1 tháng với di lệch còn lại ngay sau mổ
Kết quả
nắn xương
Sự thay đổi của góc Baumann Tỉ lệ
Không di lệch
(<6
o
)
Di lệch ít (6
o
- 12
o
)
Tốt 28 1 74,4%
Còn di lệch 5 5 25,6%
Tổng 33 6 100%
Nhận xét: Trong 29 trường hợp nắn chỉnh tốt
sau phẫu thuật (74,4%) chỉ có 1 trường hợp góc
Baumann di lệch thứ phát sau mổ 6 - 12o. Trong
khi trong 10 trường hợp nắn chỉnh không tốt sau
phẫu thuật có 5 trường hợp góc Baumann di lệch
thứ phát sau mổ > 6o. Như vậy di lệch còn lại sau
mổ và sự thay đổi góc Baumann thứ phát sau mổ
1 tháng liên quan nhau có ý nghĩa thống kê (OR
= 0,36, KTC 95% 0,03 – 0,374; p = 0,005, phân tích
hồi quy Logistic đơn biến).
Vậy khi xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến
sự thay đổi góc Baumann sau 1 tháng thì chỉ có
di lệch còn lại sau mổ.
Sự thay đổi góc Baumann sau rút kim và góc
Baumann sau 6 tháng
Bảng 4. Độ chênh lệch góc Baumann sau 6 tháng so
với giá trị chuẩn
Độ chênh lệch Số trường hợp Tỉ lệ %
< 6
o
33 84,6 %
6 - 12
o
6 15,4 %
>12
o
0 0 %
Tổng số 39 100%
Nhận xét: Sau 6 tháng theo dõi, có 33 trường
hợp góc Baumann không thay đổi so với giá trị
chuẩn ( <6o). Và có 6 trường hợp góc Baumann
thay đổi ít so với giá trị chuẩn.
Sự thay đổi góc thân hành xương sau mổ 6
tháng so với giá trị chuẩn
Bảng 5. Độ chênh lệch của góc thân hành xương sau
mổ 6 tháng so với giá trị chuẩn
Độ chênh
lệch
<5
o
6 - 10
o
11-15
o
>15
o
Tổng
cộng
Số ca 35 2 0 2 39
Tỉ lệ % 89,7% 0% 5,12% 5,12% 100%
Nhận xét: Sau mổ 6 tháng, số trường hợp
góc thân hành xương không thay đổi so với
giá trị chuẩn (<5o) là 35 trường hợp. Có 2
trường hợp khuỷu vẹo trong, góc thân hành
xương thay đổi >15o.
Kết quả phục hồi chức năng
Phục hồi biên độ gấp duỗi khớp khuỷu
Có 15 trường hợp (38,5%) phục hồi biên độ
gấp duỗi khuỷu tốt theo tiêu chuẩn Flynn(1), kết
quả khá là 16 trường hợp (41%). Không có
trường hợp nào mất vận động khớp khuỷu > 15o.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 136
Bảng 6. Kết quả phục hồi biên độ gấp duỗi khớp
khuỷu sau mổ 6 tháng
Phục hồi biên độ gấp duỗi khớp khuỷu Số ca Tỉ lệ %
Tốt 15 38,5%
Khá 16 41%
Trung bình 8 20,5%
Xấu 0 0%
Cộng 39 100%
Liên quan giữa phục hồi biên độ gấp duỗi
khớp khuỷu với việc tập gấp duỗi khớp
khuỷu
Bảng 7. Liên quan giữa phục hồi biên độ gấp duỗi
khuỷu sau 6 tháng với tập biên độ gấp duỗi khớp
khuỷu
Tập gấp duỗi
khớp khuỷu
Phục hồi biên độ gấp duỗi
khớp khuỷu
Tỉ lệ
Tốt Khá Trung Bình
Có 13 10 1 61,5%
Không 2 6 7 38,5%
Tổng 15 16 8 100%
Nhận xét: Trong 24 trường hợp tập vật lý trị
liệu có 23 trường hợp phục hồi biên độ vận động
khá tốt. Bằng phép thống kê chúng tôi thấy tập
vật lý trị liệu liên quan đến phục hồi biên độ gấp
duỗi có ý nghĩa thống kê (OR = 0,13 KTC 95%
0,024 - 0,707, p = 0,018 phép hồi qui đơn biến).
Điều này chứng tỏ tập vật lí trị liệu là giúp phục
hồi biên độ vận động sau mổ.
Sự liên quan giữa tuổi và phục hồi biên độ
gấp duỗi khớp khuỷu sau mổ 6 tháng
Bảng 8. Liên quan giữa phục hồi biên độ vận động
khớp khuỷu sau mổ 6 tháng và tuổi bệnh nhân.
Tuổi Phục hồi biên độ gấp duỗi
khớp khuỷu
Tỉ lệ
Tốt Khá Trung bình
0 - 4 tuổi 3 2 0 12,8%
5 - 8 tuổi 6 12 6 61,5%
9 - 15 tuổi 6 2 2 25,6%
Tổng 15 16 8 100%
Nhận xét: Nhìn tổng quan có thể thấy tỉ lệ
phục hồi biên độ vận động ở nhóm > 8 tuổi là tốt
6/10 trường hợp phục hồi biên độ vận động tốt
theo tiêu chuẩn của Flynn. Tuy nhiên, bằng
thống kê chúng tôi nhận thấy mất biên độ vận
động của khuỷu và tuổi bệnh nhân liên quan
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,218, phép kiểm
Chi – Square).
Sự liên quan giữa thời gian từ khi bị tai nạn
đến khi vào viện với phục hồi biên độ gấp
duỗi khớp khuỷu sau mổ 6 tháng
Bảng 9. Liên quan giữa phục hồi biên độ gấp duỗi
khớp khuỷu sau mổ 6 tháng với thời gian từ khi bị tai
nạn đến khi vào viện
TGTNPT Mất biên độ vận
động khuỷu
Tỉ lệ
Tốt Khá Trung
bình
21 – 30 ngày 8 6 2 41%
31 – 40 ngày 7 10 2 48,7%
41 – 50 ngày 0 0 4 10,3%
Tổng 15 16 8 100%
TGTNPT: Thời gian từ khi bị tai nạn cho đến khi được
phẫu thuật
Nhận xét: Trong nhóm bệnh nhân được
phẫu thuật sau 40 ngày sau khi bị chấn thương
có 4 trường hợp phục hồi biên độ vận động
khuỷu trung bình (theo tiêu chuẩn Flynn)(1). Qua
phép thống kê, chúng tôi nhận thấy thời gian từ
khi bệnh nhân bị tai nạn cho đến khi được phẫu
thuật liên quan với sự phục hồi biên độ vận
động khuỷu có ý nghĩa thống kê (p = 0,001 < 0,05,
phép kiểm Chi – Square).
Kết quả phục hồi biên độ gấp duỗi khớp
khuỷu trung bình trong từng khoảng thời
gian bệnh nhân đến bệnh viện
Bảng 10. Kết quả phục hồi biên độ gấp duỗi khớp
khuỷu trung bình trong từng khoảng thời gian bệnh
nhân đến bệnh viện
Thời gian từ khi bị tan nạn đến khi được
phẫu thuật
21 – 30 ngày 31 – 40 ngày 41 – 50 ngày
Phục hồi biên
độ vận động
trung bình
=5,3
SD=3,1
=6,47
SD=3,8
14
SD = 0,86
Nhận xét: Bằng phép kiểm T-test chúng tôi
thấy các trung bình phục biên độ vận động ở 3
nhóm khác nhau có ý nghĩ thống kê. Và nhóm
bệnh nhân được phẫu thuật trước 30 ngày có kết
quả phục hồi biên độ vận động tốt nhất.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 137
Kết quả thẩm mỹ
Bảng 11. Sự thay đổi góc mang so với tay lành
Đánh giá Số trường hợp Tỉ lệ %
Tốt 33 84,6%
Khá 2 5,1%
Trung bình 3 7,7%
Xấu 1 2,6%
Cộng 39 100%
Nhận xét: Có 33 trường hợp (84,6%) kết quả
phục hồi góc mang tốt theo tiêu chuẩn Flynn(1), 3
trường hợp kết quả trung bình (7,7%), 1 trường
hợp góc mang thay đổi hơn 15o, chênh lệch góc
mang lớn nhất giữa tay lành và tay gãy là 16o.
Mối liên hệ giữa sự thay đổi góc Baumann
sau mổ 1 tháng với sự thay đổi góc mang
lâm sàng sau 6 tháng
Bảng 12. Mối liên hệ giữa sự thay đổi góc Baumann
sau mổ 1 tháng với sự thay đổi góc mang lâm sàng
sau 6 tháng
Sự thay đổi góc
mang lâm sàng
Sự thay đổi góc
Baumann
Tổng
cộng
<6
o
6 - 12
o
< 5
o
30 3 84,6%
6 - 10
o
2 0 5,1%
11 - 15
o
1 2 7,7%
> 15 0 1 2,6%
Tổng cộng 33 6 100%
Nhận xét: Có 2 trường hợp di lệch thứ phát
ít, thay đổi góc mang lâm sàng 11 - 15o. Có mối
liên hệ giữa di lệch xoay thứ phát góc Baumann
sau mổ 1 tháng và sự thay đổi góc mang lâm
sàng sau khi lành xương (0R= 0,63, KTC 95%
0,05–0,855; p=0,038, phân tích logistic hồi quy
đơn biến). Như vậy góc Baumann sau một tháng
ít thay đổi thì góc mang lâm sàng sẽ ít thay đổi
hơn so với tay lành.
Kết quả chung cuộc 6 tháng sau mổ (theo
tiêu chuẩn Flynn(1))
Bảng 13. Đánh giá kết quả chung cuộc
Kết quả Số trường hợp Tỉ lệ %
Tốt 13 33,3%
Khá 18 46,2%
Trung bình 7 17,9%
Xấu 1 2,6%
Tổng cộng 39 100%
Nhận xét: Kết quả tốt trong nghiên cứu
chúng tôi số bệnh nhân có kết quả tốt là 13 bệnh
nhân (33,3 %), khá là 18 bệnh nhân (46,2%), có 1
bệnh nhân kết quả xấu. Tính chung kết quả khá
và tốt là 79,5%.
BÀN LUẬN
Chúng tôi có: 13 trường hợp (33,3%) có kết
quả chung tốt, 18 trường hợp có kết quả khá
(46,2%). Có 1 trường hợp kết quả xấu. Như
vậy phương pháp này đã cho kết quả khá tốt.
Kết quả của chúng tôi tương tự với kết quả
của Tiwari(4) và Yaokreh(5). Trong nghiên cứu
của Tiwari tỉ lệ bệnh nhân đạt kết quả khá, tốt
là 72,5%. Còn trong nghiên cứu của mình,
Yaokreh đã đưa ra kết luận tỉ lệ đạt kết quả
chung cuộc khá và tốt là 70,8%. Điều này
chứng tỏ phương pháp điều trị của chúng tôi
có hiệu quả tương đương với những phương
pháp điều trị gãy trên hai lồi cầu xương cánh
tay đến muộn ở trẻ em trước đây.
Tuy nhiên, khi so sánh với nghiên cứu của
Shahid Hussain (2014)(2), khi sử dụng cùng
phương pháp mổ nắn xuyên kim qua đường mổ
ngoài để điều trị gãy trên hai lồi cầu xương cánh
tay cấp cứu ở trẻ em, thì tỉ lệ thành công của
chúng tôi thấp hơn nhiều 79,5% so với 90,4%.
Điều này cho thấy thời gian điều trị sau tai nạn
đóng vai trò quan trọng trong việc điều trị gãy
trên hai lồi cầu xương cánh tay ở trẻ em.
Xét kết quả chung cuộc ở 2 nhóm bệnh nhân
< 9 tuổi và nhóm bệnh nhân 9 – 15 tuổi chúng tôi
thấy tỉ lệ kết quả chung cuộc khá và tốt ở nhóm
bệnh nhân 9 – 15 tuổi cao hơn nhóm < 9 tuổi
(79,3% so với 80%), tuy nhiên sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê, do số bệnh nhân
nhóm 9 – 15 còn ít, chỉ có 10 bệnh nhân nên việc
đánh giá kết quả không chính xác.
Khi đánh giá riêng nhóm bệnh nhân được
phẫu thuật trước 30 ngày, chúng tôi ghi nhận tỉ
lệ bệnh nhân đạt được kết quả khá và tốt là
87,5%. Kết quả này cũng tương tự với kết quả
của Amjad Tahir(3) điều trị gãy trên hai lồi cầu
xương cánh tay đến muộn bằng phương pháp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 138
mổ nắn xuyên kim qua đường mổ bên ngoài từ 2
– 17 ngày, đạt kết quả khá tốt 92,5%. Nghiên cứu
của chúng tôi đạt kết quả tốt hơn là do, chúng tôi
sử dụng phương pháp mổ nắn, xuyên kim nên
có thể tiếp cận được ổ gãy, nắn chỉnh tốt và đạt
được cấu hình kết hợp xương vững chắc sau
nắn. Bên cạnh đó chúng tôi sử dụng đường mổ
phía ngoài nên ít tàn phá, không phải cắt cơ và
không để lại sẹo gây hạn chế vận động khớp
khuỷu sau mổ.
Vậy phương pháp điều trị gãy trên hai lồi
cầu xương cánh tay đến muộn ở ở trẻ em của
chúng tôi đạt được kết quả khá tốt và kết quả đạt
được cũng tương đương với các nghiên cứu
khác của nước ngoài. Tuy nhiên, nghiên cứu của
chúng tôi còn hạn chế do số lượng mẫu còn ít,
thời gian theo dõi bệnh nhân còn hạn chế nên
chưa đánh giá được tốt sự phục hồi chức năng
và vận động của bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 39 trường hợp điều trị phẫu
thuật gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay ở trẻ
em đến muộn bằng phương pháp nắn chỉnh
xuyên kim qua da qua đường mổ ngoài, lứa tuổi
từ 3 – 14 tuổi, trong đó lứa tuổi nhiều nhất là 5 –
8 tuổi (48,74%), tuổi trung bình là 7,08 (SD =
2,82), chúng tôi rút ra được các bàn luận sau:
+Kết hợp xương bằng phương pháp mổ nắn
đường mổ ngoài và xuyên kim lồi cầu ngoài là
phương pháp cố định vững chắc
+ Phương pháp mổ nắn và xuyên kim lồi
cầu ngoài mang lại kết quả phục hồi chức
năng khá tốt, phối hợp với tập gấp duỗi sau
mổ giúp bệnh nhân nhanh chóng trở lại được
cuộc sống bình thương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Flynn JC, Matthews JG, Benoit RL (1974), "Blind pinning of
displaced supracondylar fractures of the humerus in children.
Sixteen years' experience with long-term follow-up".J Bone
Joint Surg Am, 56(2), pp. 263-72.
2. Hussain S, Ahmad M, Muzaffar T (2014), "Open reduction
and internal fixation for displaced supracondylar fractures of
the humerus in children with crossed K-wires via lateral
approach".Chin J Traumatol, 17(3), pp. 130-5.
3. Tahir A, Majid F, Ali MN (2012), "Treatment of Old
Supracondylar Fractures of Humerus In Children".Journal of
Surgery Pakistan 17(4), pp. 135 - 138.
4. Tiwari A, Kanojia RK, Kapoor SK (2007), "Surgical
management for late presentation of supracondylar humeral
fracture in children".J Orthop Surg (Hong Kong), 15(2), pp. 177-
82.
5. Yaokreh JB, Odehouri-Koudou TH, Tembely S, Dieth AG,
Kouame DB, et al. (2012), "Delayed treatment of
supracondylar elbow fractures in children".Orthop Traumatol
Surg Res, 98(7), pp. 808-12.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 10/3/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_phau_thuat_gay_tren_hai_loi_cau_xuong_canh.pdf