Tài liệu Đánh giá kết quả ngắn hạn của điều trị phẫu thuật hở thành bụng bẩm sinh ở trẻ sơ sinh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 375
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGẮN HẠN CỦA ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
HỞ THÀNH BỤNG BẨM SINH Ở TRẺ SƠ SINH
Đinh Quang Lê Thanh*, Trương Quang Định**
TÓM TẮT
Mở đầu - Hở thành bụng là dị tật thường gặp nhất trong các dạng khiếm khuyết thành bụng bẩm sinh. Hai
phương pháp điều trị chính hiện nay là phục hồi thành bụng một thì và phục hồi thành bụng hai thì.
Mục tiêu - So sánh kết quả giữa hai phương pháp phẫu thuật điều trị hở thành bụng.
Đối tượng và hương pháp nghiên cứu - Hồi cứu tất cả hồ sơ nhập viện với chẩn đoán hở thành bụng trong
khoảng thời gian 01/2010 – 06/2013 ở trẻ sơ sinh ≤ 28 ngày tuổi và được điều trị một thì hoặc hai thì tại bệnh viện
Nhi Đồng 2. Các biến số chính của nghiên cứu gồm thời gian thở máy; thời gian nuôi ăn tĩnh mạch hoàn toàn;
thời gian ăn lại đường miệng hoàn toàn; thời gian nằm HSSS; thời gian nằm viện. Ngoài các phép kiểm, chúng
tôi cò...
10 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả ngắn hạn của điều trị phẫu thuật hở thành bụng bẩm sinh ở trẻ sơ sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 375
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGẮN HẠN CỦA ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
HỞ THÀNH BỤNG BẨM SINH Ở TRẺ SƠ SINH
Đinh Quang Lê Thanh*, Trương Quang Định**
TÓM TẮT
Mở đầu - Hở thành bụng là dị tật thường gặp nhất trong các dạng khiếm khuyết thành bụng bẩm sinh. Hai
phương pháp điều trị chính hiện nay là phục hồi thành bụng một thì và phục hồi thành bụng hai thì.
Mục tiêu - So sánh kết quả giữa hai phương pháp phẫu thuật điều trị hở thành bụng.
Đối tượng và hương pháp nghiên cứu - Hồi cứu tất cả hồ sơ nhập viện với chẩn đoán hở thành bụng trong
khoảng thời gian 01/2010 – 06/2013 ở trẻ sơ sinh ≤ 28 ngày tuổi và được điều trị một thì hoặc hai thì tại bệnh viện
Nhi Đồng 2. Các biến số chính của nghiên cứu gồm thời gian thở máy; thời gian nuôi ăn tĩnh mạch hoàn toàn;
thời gian ăn lại đường miệng hoàn toàn; thời gian nằm HSSS; thời gian nằm viện. Ngoài các phép kiểm, chúng
tôi còn làm hồi qui đa biến với biến độc lập là tử vong.
Kết quả - Có tổng cộng 78 trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu trong đó có 42 trường hợp phẫu thuật hai
thì và 36 trường hợp phẫu thuật một thì. Có 17 (21,6%) trường hợp tử vong trong đó có 6 trường hợp chưa được
phục hồi thành bụng. Khi so sánh giữa hai phương pháp trong nhóm không tử vong, chúng tôi nhận thấy ngoài
trừ thời gian nằm viện ở nhóm phẫu thuật 2 thì lâu hơn nhóm phẫu thuật 1 thì có ý nghĩa thống kê, các kết quả
còn lại cũng như biến chứng đều không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Khi so sánh giữa hai phương pháp trong
nhóm tử vong, chúng tôi cũng ghi nhận không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đặc điểm mẫu, kết quả phẫu
thuật và biến chứng giữa hai nhóm. Trong phương trình hồi qui đơn biến, phương pháp phẫu thuật, thời gian
chuyển viện và dị tật ruột kết hợp là các yếu tố tiên đoán độc lập của biến tử vong (với P<0,05). Tuy nhiên, khi
đưa vào phương trình hồi qui đa biến, các yếu tố độc lập bị kiểm soát lẫn nhau, phương pháp phẫu thuật không
còn là yếu tố tiên đoán của biến tử vong. Dị tật ruột kết hợp (OR = 19,5; KTC 95%=1,5 - 249,2) và thời gian
chuyển viện trên 300 phút (5 giờ) (OR = 6,5; KTC 95% = 1,3 – 31,8) là các yếu tố độc lập tiên đoán tử vong. Tuy
nhiên, khoảng tin cậy của hai giá trị này rộng.
Kết luận – Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai phương pháp phẫu thuật. Thời gian chuyển
viện dài và dị tật ruột kết hợp là yếu tố làm tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ hở thành bụng.
Từ khóa: Hở thành bụng – phẫu thuật phục hồi thành bụng một thì – phẫu thuật phục hồi thành bụng
hai thì.
ABSTRACT
GASTROSCHISIS – SHORT-TERM SURGICAL OUTCOME
Dinh Quang Le Thanh, Truong Quang Dinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 375 - 384
Introduction – Gastroschisis is commonest in abdominal wall defects. Nowadays, there are two methods to
repair this defect including primary closure and staged closure.
Objectives – To compare the short-term outcome between two methods.
Method: A retrospective study. We reviewed all cases with gastroschisis in newborns (≤ 28 dos) admitted
from 01/2010 to 06/2013 and done primary closure or staged closure in Children’s Hospital 2. Primary and
* Khoa Ngoại Tổng Hợp BV Nhi Đồng 1 ** BV Nhi Đồng Thành Phố.
Tác giả liên lạc: BS. Đinh Lê Quang Thanh ĐT: 0905911923 Email: dql.thanh@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 376
secondary outcomes include ventilator days, TPN time, time to full feed, NICU days, length of stay. In addition to
statistic tests, we also did a multiple logistic regression with dependent variable death.
Result – There were 78 cases including 42 with staged closure and 36 primary closure. There were 17
(21.6%) deaths with 6 cases not completing closure. When comparing between two methods in undeath group,
except LOS of staged closure was longer than primary closure, other outcomes and complication were not different
significantly. When comparing in death group, we also found that there were no significant difference about
outcomes and complication between two methods. In single logistic regression, surgery methods, transfer time and
associated bowel defect were predictors of death, but in multiple logistic regression, surgery methods was no
longer a predictor. Associated bowel defect increased death 19.5 time (OR = 19.5; CI 95%=1.5 – 249.2) and
transfer time > 5 giờ increased death 6.5 time (OR = 6.5; CI 95% = 1.3 – 31.8) although CI was relative wide.
Conclusion – There was no significant difference between two methods about outcomes and complication.
Transfer time and associated bowel defect were predictors of mortality.
Key words: gastroschisis – primary closure – staged closure.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hở thành bụng là dị tật thường gặp nhất
trong các dạng khiếm khuyết thành bụng bẩm
sinh ở trẻ sơ sinh, với tần suất là 2-4,9/10.000 trẻ
sinh sống(6). Trong dạng khiếm khuyết này, trẻ
sơ sinh khi chào đời sẽ có một phần tạng lộ ra
ngoài qua một lỗ ở giữa bụng, bên trái lỗ này vẫn
còn hiện diện của dây rốn. Đối với hở thành
bụng, việc hồi sức sau sinh và bảo vệ ruột có vai
trò quan trọng đến sự thành công và tỷ lệ sống
còn của trẻ sơ sinh. Trẻ ngay sau khi được sinh
ra cần được hồi sức phù hợp để tránh mất nước
và hạ thân nhiệt. Song song đó, tạng thoát vị của
trẻ cần phải được bảo vệ một cách phù hợp và
nhanh chóng để tránh hoại tử hay nhiễm trùng.
Hiện nay, hai phương pháp điều trị phổ biến
trong hở thành bụng là phục hồi thành bụng một
thì – tức đưa tạng thoát vị vào bụng ngay rồi
khép cân cơ thành bụng ngay sau sinh – và phục
hồi thành bụng hai thì – tức tạng thoát vị được
chứa trong túi silo trong khoảng thời gian nhất
định trước khi được đưa vào bụng rồi khép cân
cơ thành bụng. Cho đến nay, trên thế giới đã có
rất nhiều nghiên cứu được tiến hành để so sánh
giữa 2 phương pháp về kết quả sau phục hồi
thành bụng. Năm 2013, Kunz và cộng sự công bố
kết quả công trình nghiên cứu gộp dựa trên 20
nghiên cứu so sánh hiệu quả giữa hai phương
pháp này, trong đó có một nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng, ba
nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu và 16 nghiên cứu
hồi cứu(12). Kết quả cho thấy phương pháp silo có
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, mặt hạn chế của báo
cáo này là những nghiên cứu được lựa chọn đều
có những sai lệch trong chọn mẫu, không có sự
đồng bộ. Hơn nữa, hầu hết là hồi cứu nên những
yếu tố ảnh hưởng và sai lệch khổng thể kiểm
soát được. Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng
được chọn vào mẫu lại có cỡ mẫu ít nên không
đủ để đưa ra kết luận có ý nghĩa thống kê mạnh.
Nhưng, qua số liệu cho thấy, những nghiên cứu
ít có sai lệch trong quá trình chọn mẫu đều cho
kết luận rằng thời gian thở máy, thời gian nuôi
ăn tĩnh mạch, thời gian bắt đầu ăn, thời gian ăn
lại hoàn toàn, biến chứng sau mổ và tỷ lệ tử
vong của phương pháp hai thì đều tốt hơn so với
phương pháp phục hồi thành một một thì.
Ở Việt Nam đến nay mới chỉ có 2 nghiên cứu
về hở thành bụng và nghiên cứu trên từng
phương pháp riêng rẽ, chưa có nghiên cứu nào
so sánh kết quả giữa hai phương pháp một thì và
hai thì(10,17). Chính vì vậy, chúng tôi mong muốn
tiến hành nghiên cứu này nhằm đưa ra nhận
định về phương pháp phù hợp nhất trong hoàn
cảnh Việt Nam hiện nay.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành hồi cứu tất cả các trẻ sơ
sinh với chẩn đoán hở thành bụng nhập viện lần
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 377
đầu khoảng thời gian từ 01/2010 đến 06/2013
được phẫu thuật tại bệnh viện Nhi Đồng 2 dựa
trên bảng câu hỏi soạn sẵn.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Gồm trẻ sơ sinh (≤ 28 ngày tuổi) có thời
gian nhập viện trong khoảng thời gian từ
01/2010 – 06/2013 được chẩn đoán hở thành
bụng bẩm sinh; được điều trị bằng phương
pháp phẫu thuật một thì hoặc hai thì tại bệnh
viện Nhi Đồng 2.
Tiêu chuẩn loại trừ
Gồm trẻ có chẩn đoán khiếm khuyết thành
bụng bẩm sinh khác như thoát vị chân cuống
rốn, thoát vị rốn; trẻ đã được khâu phục hồi
thành bụng hoặc đặt túi silo tại một bệnh viện
khác trước khi chuyển đến bệnh viện Nhi Đồng
2; trẻ bị hở thành bụng tử vong trước khi phẫu
thuật và những ca có hồ sơ không đầy đủ.
Các biến số chính của nghiên cứu
Gồm thời gian thở máy (số ngày từ lúc phục
hồi thành bụng đến lúc rút nội khí quản); thời
gian nuôi ăn tĩnh mạch hoàn toàn (số ngày từ lúc
phục hồi thành bụng đến lúc bắt đầu ăn bằng
đường miệng); thời gian ăn lại đường miệng
hoàn toàn (số ngày từ lúc phục hồi thành bụng
đến lúc ngưng truyền dịch nuôi ăn tĩnh mạch);
thời gian nằm HSSS (số ngày nằm ở khoa HSSS
từ lúc phục hồi thành bụng đến lúc chuyển khoa
Sơ Sinh); thời gian nằm viện (số ngày từ lúc nhập
viện đến lúc xuất viện).
Phương pháp thống kê
Ngoài các phép kiểm Student T test, Mann-
Whitney U, Chi bình phương và Fisher để so
sánh hai biến với nhau, chúng tôi còn dùng
phương trình hồi qui đa biến logistic để tìm mối
quan hệ giữa tỷ lệ tử vong và các biến độc lập
(thời gian chuyển viện, thời gian chuyển mổ,
phương pháp phẫu thuật, non tháng, nhẹ cân, có
bất kỳ loại biến chứng nào). Các phép kiểm sẽ có
ý nghĩa thống kê khi p<0,05.
KẾT QUẢ
Có tổng cộng 78 trường hợp thỏa tiêu chuẩn
chọn mẫu trong đó có 42 trường hợp phẫu thuật
hai thì và 36 trường hợp phẫu thuật một thì
(Bảng 1). Ở nhóm không tử vong, có tổng cộng
61 trường hợp, nhưng có 1 trường hợp có thời
gian nằm viện dài (247 ngày) do mắc các bệnh lý
nội khoa như viêm phổi, nhiễm trùng huyết, nên
chúng tôi không đưa vào phân tích so sánh giữa
hai nhóm. Như vậy, cỡ mẫu khi so sánh kết quả
phẫu thuật giữa hai phương pháp trong nhóm
không tử vong là 60 trường hợp.
Đặc điểm dịch tễ
Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (N =
78)
Biến số Giá trị
Tuổi mẹ (trung vị) 21 tuổi
Con so 77,8% (56/72)
Chẩn đoán tiền sản 70%
Sinh mổ
Do hở thành bụng
60,3% (47/78)
76,6% (36/47)
Nam/nữ 1/1
Tuổi thai (trung vị) 37 tuần
CNLS 2.303,2±53,4 g
Dị tật ruột
Teo ruột non
Xoắn ruột
Teo ruột non & xoắn ruột
6,4% (5)
2
2
1
Phương pháp một thì 46,2% (36)
Phương pháp hai thì 53,8% (42)
Thời gian kéo dãn thành bụng với
túi silo
8,5 ngày
Tử vong 21,6% (17/78)
So sánh hai phương pháp ở nhóm không tử
vong
Chúng tôi nhận thấy, không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về đặc điểm của mẹ và trẻ
giữa hai phương pháp phẫu thuật (Bảng 2).
Ngoài trừ thời gian nằm viện của nhóm
được phẫu thuật phục hồi thành bụng hai thì dài
hơn nhóm một thì, các kết quả còn lại không cho
thấy sự khác biệt giữa hai nhóm (Bảng 3).
Khi so sánh hai phương pháp phẫu thuật
trong nhóm không tử vong, cả hai phương
pháp phẫu thuật đều gặp biến chứng như nhau
(Bảng 4).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 378
Bảng 2. So sánh về đặc điểm mẫu giữa hai phương pháp phẫu thuật trong nhóm không tử vong
1 thì 2 thì P
Số trường hợp 33 27
Tuổi mẹ (tuổi) 23,1 ± 4,4* 21,3 ± 3,5* 0,123
a
Tuổi thai (tuần) 37,3 (31 – 39,5)** 37 (31 – 40)** 0,282
b
Non tháng (n (%)) 8 (25%) 12 (46,2%) 0,106
c
Nội thành (n (%)) 30 (90,9%) 21 (81,5%) 0,448
d
Mức độ tổn thương ruột (n)
Độ I – II
Độ III – IV
16
16
0
17
17
0
Dị tật ruột kết hợp (n)
Xoắn ruột
0
0
1
1
Thời gian chuyển viện (phút) 65 (30 – 510)** 65 (40 – 1690)** 0,398
b
Thời gian chuyển mổ (phút) 200 (60 – 900)** 202,5 (90 – 505)** 0,749
b
a: T-test; b: Mann-Whitney U; c: Chi bình phương; d: Fisher*: trung bình ± độ lệch chuẩn; **: trung vị (nhỏ nhất – lớn nhất)
Bảng 3. So sánh kết quả phẫu thuật giữa hai phương pháp trong nhóm không tử vong
1 thì 2 thì P
Số trường hợp 33 27
Thời gian thở máy (ngày) 3,7 ± 2,2 5,5 ± 2,2 0,063
Thời gian nuôi ăn tĩnh mạch (ngày) 7,9 ±1,8 6,6 ± 1,7 0,18
Thời gian ăn đường miệng hoàn toàn (ngày) 15,1 ± 1,4 14,1 ± 1,5 0,473
Thời gian nằm HSSS (ngày) 5,9 ± 0,8 8,2 ± 1 0,9
Thời gian nằm viện (ngày) 22,9 ± 1,5 32,4 ± 1,6 <0,05
Bảng 4. So sánh biến chứng giữa hai phương pháp phẫu thuật trong nhóm không tử vong
1 thì 2 thì
Số trường hợp 29/33 (87,9%) 27/27 (100%)
Biến chứng liên quan đến phẫu thuật (n (%))
Nhiễm trùng vết mổ
Thủng ruột
Tắc ruột
Thất bại khâu phục hồi thành bụng
12 (36,4%)
10 (30,3%)
1 (3%)
1 (3%)
1 (3%)
13 (48,1%)
13 (48,1)
0
0
1 (3%)
Biến chứng khác (n (%))
Viêm phổi
Viêm ruột
Nhiễm trùng huyết
20 (60,6%)
16 (48,5%)
3 (9,1%)
20 (60,6%)
26 (96,3%)
14 (51,9%)
5 (18,5%)
26 (96,3%)
Biến chứng do đặt túi silo (n (%))
Tụt túi silo
Tạng thay đổi màu sắc
Tạng bị hoại tử
Tạng không xuống
0 14 (51,9%)
13 (48,1%)
1 (3,7%)
0
0
*Tất cả kết quả đều cho P (Fisher) > 0,05
So sánh hai phương pháp ở nhóm tử vong
Đặc điểm giữa hai phương pháp phẫu thuật
trong nhóm tử vong như nhau (Bảng 5).
Khi so sánh kết quả giữa hai nhóm, chúng tôi
không ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về kết quả phẫu thuật giữa hai phương pháp
phẫu thuật (Bảng 6). Tất cả các trường hợp tử
vong đều chưa ăn lại bằng đường miệng. Có 6
trường hợp tử vong chỉ mới đặt túi silo, chưa
được khâu phục hồi thành bụng.
Trong nhóm tử vong, không có sự khác biệt
thống kê khi so sánh tỷ lệ mắc các loại biến
chứng giữa 2 nhóm (Bảng 7). Có 16/17 (94,12%)
có ít nhất một loại biến chứng.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 379
Bảng 5. So sánh đặc điểm mẫu giữa hai phương pháp phẫu thuật trong nhóm tử vong
Tổng cộng 1 thì 2 thì P
Số trường hợp 17 3 14
Nơi chuyển đến (n (%))
TPHCM
Ngoài TPHCM
9 (52,9%)
8 (47,1%)
2 (66,7%)
1 (33,3)
7 (50%)
7 (50%)
1
a
Siêu âm tiền sản (n (%)) 10 (58,8%) 2 (66,7%) 8 (57,1%) 1
a
Hình thức sinh (n (%))
Sinh mổ
Sinh thường
8 (47,1%)
9 (52,9%)
2 (66,7%)
1 (33,3%)
6 (42,9%)
8 (57,1%)
0,576
a
Tuổi thai (tuần) 36,54 ± 2,43 37 ± 1,41 35,9 ± 1,58 0,385
b
Non tháng (n (%)) 8 (50%) 1 (50%) 7 (50%) 1
a
CNLS (gam) * 2.351,7 ± 465 2.300 ± 781 2.125 ± 427,3 0,582
b
Nhẹ cân (n (%)) 13 (76,5%) 1 (2,3%) 12 (10,7%) 0,121
a
Dị tật ruột kết hợp (n (%))
Teo ruột non
Xoắn ruột
Teo ruột non & xoắn ruột
4 (23,5%)
2
1
1
0
0
0
0
4
2
1
1
Tổn thương ruột (n (%))
Độ I – II
Độ III – IV
7 (58,3%)
5 (41,7%)
1 (50%)
1 (50%)
6 (60%)
4 (40%)
1
a
Thời gian chuyển viện (phút)** 95 110 80 0,533
c
Thời gian chuyển mổ (phút)** 185 180 190 0,529
c
a: Fisher; b: T-test; c: Mann-Whitney U *: trung bình chuẩn ± độ lệch; **: trung vị
Bảng 6. So sánh kết quả phẫu thuật giữa hai phương pháp ở nhóm tử vong
Tổng cộng 1 thì 2 thì P
Số trường hợp 17 3 14
Thời gian thở máy (ngày) 7,8 ± 2,4 4,1 ± 3,5 10 ± 1,86 0,273
Thời gian nuôi ăn tĩnh mạch hoàn toàn (ngày) 10,5 ± 2,6 5,2 ± 5,1 13,5 ± 1,6 0,396
Thời gian ăn hoàn toàn bằng đường miệng (ngày) 0 0 0
Thời gian nằm HSSS (ngày) 9,9 ± 1,8 5,8 ± 2,9 11,7 ± 1,4 0,295
Thời gian nằm viện (ngày) 9,3 ± 3,6 5,3 ± 5,2 10,5 ± 3,4 0,396
Bảng 7. So sánh biến chứng giữa hai phương pháp phẫu thuật trong nhóm tử vong
Tổng cộng 1 thì 2 thì
Số trường hợp 16/17 3 13
Biến chứng liên quan đến phẫu thuật (n (%))
Nhiễm trùng vết mổ
Thủng ruột
Tắc ruột
Thất bại khâu phục hồi thành bụng
4 (25%)
3 (18,8%)
0
1 (6,3%)
0
1 (33,3%)
0
0
1 (33,3%)
0
3 (3,3%)
3 (23,1%)
0
0
0
Biến chứng khác (n (%))
Viêm phổi
Viêm ruột
Nhiễm trùng huyết
16 (100%)
10 (62,5%)
1 (6,3%)
16 (100%)
3 (100%)
2 (66,7%)
0
3 (100%)
13 (100%)
8 (61,5%)
1 (7,7%)
13 (100%)
Biến chứng do đặt túi silo (n (%))
Tụt túi silo
Tạng thay đổi màu sắc
Tạng bị hoại tử
Tạng không xuống
6 (46,2%)
2 (15,4%)
1 (7,7%)
2 (15,4%)
1 (7,7%)
0 6 (46,2%)
2 (15,4%)
1 (7,7%)
2 (15,4%)
1 (7,7%)
*Tất cả các P (Fisher) > 0,05
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 380
Yếu tố liên quan với tử vong
Trong phương trình hồi qui đơn biến,
phương pháp phẫu thuật, thời gian chuyển viện
và dị tật ruột kết hợp là các yếu tố tiên đoán độc
lập của biến tử vong (với P<0,05) (Bảng 8). Tuy
nhiên, khi đưa vào phương trình hồi qui đa biến,
các yếu tố độc lập bị kiểm soát lẫn nhau, phương
pháp phẫu thuật không còn là yếu tố tiên đoán
của biến tử vong. Dị tật ruột kết hợp (OR = 19,5;
KTC 95%=1,5 - 249,2) và thời gian chuyển viện
trên 300 phút (5 giờ) (OR = 6,5; KTC 95% = 1,3 –
31,8) là các yếu tố độc lập tiên đoán tử vong. Tuy
nhiên, khoảng tin cậy của hai giá trị này rộng.
Bảng 8. Kết quả phương trình hồi qui đa biến cho biến số tử vong
OR KTC 95% P
Phương pháp phẫu thuật
1 thì (tham chiếu)
2 thì
1
4
0,7 – 23,7
0,133
Thời gian chuyển viện
≤ 300 phút (tham chiếu)
> 300 phút
1
6,5
1,3 – 31,8
< 0,05
Thời gian chuyển mổ
≤ 300 phút (tham chiếu)
> 300 phút
1
3,1
0,5 – 19,8
0,226
Non tháng
Không (tham chiếu)
Có
1
1,7
0,4 – 8,2
0,508
Nhẹ cân
Không (tham chiếu)
Có
1
1,6
0,2 – 10,8
0,617
Dị tật ruột kết hợp
Không (tham chiếu)
Có
1
19,5
1,5 – 249,2
< 0,05
Có biến chứng
Không (tham chiếu)
Có
1
0,3
0 – 5,5
0,438
BÀN LUẬN
Phương pháp điều trị hở thành bụng đã có
những bước tiến vượt bậc trong những năm qua,
góp phần cải thiện tỷ lệ tử vong ở trẻ bị dị tật
này(16). Trước đây, những trường hợp có sự bất
xứng nhiều giữa khối lượng tạng thoát vị và thể
tích ổ bụng thường là thách thức lớn đối với các
phẫu thuật viên(16). Ở thời điểm đó, phương
pháp phục hồi thành bụng một thì là lựa chọn
duy nhất để điều trị cho trẻ hở thành bụng. Vì
thế, hội chứng tăng áp lực ổ bụng là nguyên
nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ bị dị tật này(19).
Đến khi Schuster giới thiệu tấm Teflon để che
phủ tạng thoát vị tạm thời thì khái niệm phẫu
thuật hai thì mới xuất hiện, góp phần làm giảm
triệu chứng tăng áp lực ổ bụng và giúp cải thiện
phần nào tỷ lệ tử vong(21).
Tuy nhiên, phương pháp phẫu thuật hai thì
thật sự trở thành một bước ngoặc lớn trong điều
trị trẻ bị hở thành bụng khi Fisher giới thiệu túi
silo có vòng lò xo(9). Ngoài ưu điểm là giảm triệu
chứng liên quan đến tăng áp lực ổ bụng như suy
thận, suy hô hấp, suy tim và hoại tử ruột, nhờ
tính chất trong suốt nên với túi silo, việc theo dõi
tình trạng tưới máu của tạng thoát vị dễ dàng
hơn(4,9,16,19,20). Hơn nữa, thao tác đặt loại túi này
đơn giản, nhiều trường hợp có thể đặt ngay tại
khoa HSSS không cần gây mê(4,19). Trước những
ưu điểm này của phương pháp hai thì, nhiều
trung tâm Ngoại Nhi trên thế giới đã sử dụng
phương pháp này nhiều hơn, song song với
phương pháp một thì. Trong những năm qua,
nhiều nghiên cứu được tiến hành đã khẳng định
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 381
hiệu quả của phẫu thuật phục hồi thành bụng
hai thì với túi silo(4,8,11,17,19,26).
Vì vậy, ngày nay, một số tác giả chủ trương
đặt túi silo thường qui cho tất cả trẻ bị hở thành
bụng, chứ không chỉ khu trú ở trẻ không thể
điều trị với phương pháp một thì(5,13,16,18). Tuy
nhiên, một số tác giả lại không đồng tình với
quan điểm đó. Banyard ghi nhận túi silo làm cho
trẻ phải nằm viện lâu hơn nên làm tăng nguy cơ
mắc các biến chứng nhiễm trùng(1). Bradnock cho
thấy trẻ phẫu thuật một thì có thời gian nuôi ăn
tĩnh mạch, thời gian ăn hoàn toàn bằng đường
miệng ngắn hơn (2). Đồng thời, tác giả khuyến
cáo túi silo chỉ nên được sử dụng chọn lọc ở một
vài trường hợp.
Bảng 9. So sánh đặc điểm mẫu với các nghiên cứu khác
Nam/nữ (%) Tuổi thai (tuần) Non tháng (%) CNLS (gram) Nhẹ cân (%)
Chúng tôi 56,4/43,6 37 (35,5-38) 38,7% 2.303,2±53,4 70%
Lansdale
(13)
46/54 36 (29-40) - 2400 -
Tsai
(24)
47,7/52,3 36,3±2 20,5% 2.262±487 -
Banyard
(1)
51,9/48,1 36,4 - 2.495 -
Weil
(26)
2000-2002 46,9/53,1 36 (31-39) 59,2% 2.600 -
2003-2009 54,5/45,5 36 (26-40) 61,7% 2.400 -
Bradnock
(2)
46/54 - 47% - 59%
Schmidt
(20)
- 36±2 - 2.193±401 -
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có
sự khác biệt về thời gian thở máy, thời gian nuôi
ăn tĩnh mạch hoàn toàn, thời gian ăn lại bằng
đường miệng hoàn toàn, thời gian nằm HSSS và
các biến chứng giữa hai phương pháp phục hồi
thành bụng, tương tự như kết luận của tác giả
Tsai và Schmidt(20,24) (bảng 9, bảng 10). Kết quả có
ý nghĩa thống kê duy nhất trong nghiên cứu là
thời gian nằm viện, theo đó, trẻ được phẫu thuật
một thì có thời gian này ngắn hơn so với nhóm
hai thì (p < 0,05), tương tự kết quả của tác giả
Weil(26). Điều này có thể được giải thích là do trẻ
được phẫu thuật hai thì có thêm khoảng thời
gian kéo dãn thành bụng với túi silo trước khi
được khâu phục hồi thành bụng so với trẻ được
phẫu thuật một thì. Banyard đã tìm thấy mối liên
hệ giữa hai biến thời gian này và khuyến cáo
rằng túi silo nên được đặt với số ngày tối thiểu
để trẻ mau chóng được phục hồi thành bụng, từ
đó giảm số ngày nằm viện cũng như các biến
chứng do nằm viện lâu gây ra(1).
Việc chúng tôi chưa tìm thấy ưu thế của
phẫu thuật hai thì so với phương pháp một thì
có thể lý giải do bản chất của nghiên cứu là hồi
cứu hàng loạt ca nên có những yếu tố gây nhiễu
và sai lệch mà không thể kiểm soát được. Sai lệch
đó chủ yếu là do hai yếu tố: chọn lựa phương
pháp phẫu thuật cho trẻ và quyết định thời điểm
phẫu thuật lần hai ở trẻ được phục hồi thành
bụng hai thì. Hiện nay, hai yếu tố này được
quyết định dựa trên đánh giá chủ quan và kinh
nghiệm của từng phẫu thuật viên. Dù vậy, với
kết quả từ hai nghiên cứu có thiết kế mạnh nhất
là nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
có đối chứng của Pastor và nghiêm cứu phân
tích gộp của Kunz đều nghiêng về phương pháp
hai thì, chúng tôi vẫn tin rằng phương pháp hai
thì, nếu được thực hiện với chỉ định chính xác
dựa trên áp lực ổ bụng sẽ là một lựa chọn điều
trị an toàn, đơn giản đối với trẻ bị hở thành bụng
(12,18). Tuy nhiên, để kết luận có thể mạnh mẽ hơn,
chúng tôi nghĩ việc tiến hành những nghiên cứu
tiền cứu có thiết kế tương tự như của Pastor
trong tương lai là điều cần thiết.
Ngày nay, nhờ sự phát triển của ngành HSSS
và sự ra đời của nhiều phương pháp phục hồi
thành bụng mới nên tỷ lệ sống của trẻ hở thành
bụng cao với 90%(8). Tuy nhiên, ở các nước đang
phát triển thì tỷ lệ tử vong được báo cáo trong
vài nghiên cứu cho thấy vẫn còn đáng kể,
khoảng 50%(7,15,20,25).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 382
Bảng 10. So sánh kết quả điều trị với các nghiên cứu khác
Tên nghiên cứu Thời gian thở máy
(ngày)
Thời gian nuôi ăn TM
(ngày)
Thời gian nằm
HSSS (ngày)
Thời gian ăn lại
(ngày)
Thời gian nằm viện
(ngày)
2 thì 1 thì 2 thì 1 thì 2 thì 1 thì 2 thì 1 thì 2 thì 1 thì
Chúng tôi 5,5 3,7 6,6 7,9 8,2 5,9 14,1 15,1 32,4 22,9
Pastor
(18)
3,2 5,3 38,8 33 - - - - 49,1 43,2
Tsai
(24)
7 5,6 - - - - 32 34,6 33,3 36,6
Banyard
(1)
6,2 4,4 36,5 28,5 - - - - 46,5 40,5
Schmidt
(20)
- - 31 25,7 - - - - 38,4 34,2
Bradnock
(2)
- - 28 22 - - 29 20 38 34
Weil
(26)
3 4,5 - - 14 9 22 29 34 25
Điều đó được một số tác giả lý giải rằng, có
lẽ, do tỷ lệ thai bị dị tật hở thành bụng được phát
hiện trước sanh vẫn còn thấp ở các nước này,
làm cho các công tác chuẩn bị cho quá trình
chuyển dạ của mẹ và chăm sóc ban đầu của trẻ
bị thụ động và chưa phù hợp với đặc điểm của
dạng dị tật bẩm sinh này, dẫn đến thời gian
chuyển viện chưa được nhanh và trong một số
trường hợp, tình trạng của trẻ sau sinh nặng
hơn(23). Thời gian chuyển viện dài làm thời gian
từ lúc trẻ sinh ra đến khi được phẫu thuật lần
đầu lâu dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm trùng – yếu
tố đã được khẳng định là một trong những
nguyên nhân gây tử vong đối với bệnh nhi bị dị
tật này(3,20,23,25). Những nguyên nhân khác là nhẹ
cân, non tháng, dị tật ruột kết hợp, viêm ruột
hoại tử, phương pháp phục hồi thành bụng và
các bất thường bẩm sinh nặng khác kèm theo
như dị tật tim, bất thường nhiễm sắc thể (3,14,22,23,25).
Kết quả của chúng tôi có tỷ lệ tử vong là
21,6%. So với các tác giả khác thì tỷ lệ của chúng
tôi cao hơn (Bảng 11), tuy nhiên, khi so với tỷ lệ
chung của các nước đang phát triển thì tỷ lệ này
lại thấp hơn(1,2,13,20,24,26). Có lẽ nhờ tỷ lệ siêu âm tiền
sản cao, đặc biệt là các sản phụ được chuyển từ
các bệnh viện nội thành, cùng với sự hợp tác
chặt chẽ giữa bệnh viện Từ Dũ, Hùng Vương và
bệnh viện Nhi Đồng 2 trong chương trình tư vấn
tiền sản, giúp cho công tác chăm sóc ban đầu ở
trẻ hở thành bụng tốt hơn, thời gian chuyển viện
ngắn hơn so với các bệnh viện sản khác, giúp
làm giảm tỷ lệ tử vong. Khi phân tích tìm những
yếu tố tiên đoán tử vong trong mô hình đơn
biến, chúng tôi nhận thấy có ba yếu tố có khả
năng làm tăng tỷ lệ này gồm phương pháp phẫu
thuật, dị tật ruột kết hợp và thời gian chuyển
viện. Tuy nhiên, khi đưa vào phân tích hồi qui
đa biến với biến phụ thuộc là tử vong, các biến
độc lập gồm ba yếu tố trên, kèm với thời gian
chuyển mổ, non tháng, nhẹ cân, nhiễm trùng,
chúng tôi nhận thấy chỉ có dị tật ruột kết hợp và
thời gian chuyển viện là các yếu tố tiên đoán độc
lập đối với biến tử vong. Phương pháp phẫu
thuật không phải là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ
tử vong. Thật vậy, khi so sánh về kết quả phẫu
thuật và tỷ lệ mắc các loại biến chứng, chúng tôi
không nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa hai phương pháp phục hồi thành
bụng ở nhóm trẻ tử vong. Điều này cũng phù
hợp với kết quả của tác giả Tarca(23). Qua đó, một
lần nữa cho thấy tầm quan trọng của việc
chuyển viện sớm và việc tìm phương pháp điều
trị phù hợp với trẻ có dị tật ruột kết hợp.
Bảng 11. So sánh tỷ lệ tử vong với các nghiên cứu
khác
Số ca Tỷ lệ
Chúng tôi 17 21,6%
Tsai
(24)
- 16%
Schmidt
(20)
6 13%
Weil
(26)
12 5,7%
Bradnock
(2)
12 4%
Lansdale
(13)
5 3,3%
Banyard
(1)
- 0,9%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 383
Ngoài các biến độc lập trên, chúng tôi nghĩ
tuổi mẹ và mức độ tổn thương của ruột cũng
ảnh hưởng lên tỷ lệ tử vong nhưng do số liệu
không đầy đủ trong hồ sơ nên hai biến này đã
không được đưa vào mô hình hồi qui. Đây cũng
là nhược điểm của nghiên cứu hồi cứu. Chúng
tôi nghĩ hai yếu tố này cần được phân tích thêm
trong các nghiên cứu sau.
KẾT LUẬN
Từ kết quả của nghiên cứu chúng tôi nhận
thấy, những trẻ có thời gian chuyển viện > 5 giờ
có khả nặng tử vong cao gấp 6,5 lần và trẻ có dị
tật ruột kết hợp có khả năng tử vong cao gấp 19,5
lần. Do đó, để hạn chế tỷ lệ tử vong, những thai
kỳ đã phát hiện hở thành bụng cần được sinh ở
những trung tâm có mô hình Sản – Nhi và có
khả năng xử trí hở thành bụng. Đối với những
thai kỳ không được phát hiện có hở thành bụng
trước đó, trẻ sau khi sinh ra cần được chuyển
viện ngay đến những trung tâm Ngoại Nhi có
khả năng xử trí hở thành bụng gần nhất. Khi so
sánh giữa hai phương pháp phẫu thuật, chúng
tôi không nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về kết quả phẫu thuật và biến chứng
giữa hai phương pháp phục hồi thành bụng một
thì và hai thì.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Banyard D, Ramones T, Phillips SE, et al (2010). “Method to our
madness: an 18-year retrospective analysis on gastroschisis
closure”. Journal of Pediatric Surgery, 45(3):pp.579-584.
2. Bradnock TJ, Marven S, Owen A, et al (2011). “Gastroschisis: one
year outcomes from national cohort study”. British Medical
Journal, 343:pp.6740-6749.
3. Calcagnotto H, Muller AL, Leite JC, et al (2013). “Associated
factors for perinatal mortality in gastroschisis”. Revista Brasileira
de Ginecologia e Obstetrícia, 35(12):pp.549-553.
4. Cauchi J, Parikh DH, Samuel M, et al (2006). “Does gastroschisis
reduction require general anesthesia? A comparative analysis”.
Journal of Pediatric Surgery, 41(7):pp.1294-1297.
5. Charlesworth P, Akinnola I, Hammerton C, et al (2014).
“Preformed silos versus traditional abdominal wall closure in
gastroschisis: 163 infants at a single institution”. European Journal
of Pediatric Surgery, 24(1):pp.88-93.
6. Coran AG (2012). “Congenital defect of the abdominal wall”. In:
Coran AG (eds), Pediatric Surgery, 7th ed, pp.973-984. Elsevier,
Philadelphia, PA.
7. Du L, Pan WH, Cai W, et al (2014). “Delivery room surgery: an
applicable therapeutic strategy for gastroschisis in developing
countries”. World Journal of Pediatric, 10(1):pp.69-73.
8. Eggink BH, Richardson CJ, Malloy MH, et al (2006). “Outcome of
gastroschisis: a 20-year case review of infants with gastroschisis
born in Galveston, Texas”. Journal of Pediatric Surgery.
41(6):pp.1103-1108.
9. Fischer JD, Chun K, Moores DC, et al (1995). “Gastroschisis: a
simple technique for staged silo closure”. Journal of Pediatric
Surgery, 30(8):pp.1169-1171.
10. Huỳnh Công Tiến (2003). Hở thành bụng bẩm sinh: Đánh giá
kết quả phục hồi thành bụng một thì. Luận án Thạc sĩ, Đại học Y
Dược TPHCM.
11. Kidd JN, Levy MS, Wagner CW (2001). “Staged reduction of
gastroschisis: a simple method”. Pediatric Surgery International,
17(2-3):pp.242-244.
12. Kunz SN, Tieder JS, Whitlock K, et al (2013). “Primary fascial
closure versus staged closure with silo in patients with
gastroschisis: a meta-analysis”. Journal of Pediatric Surgery,
48(4):pp.845-857.
13. Lansdale N, Hill R, Gull-Zamir S, et al (2009). “Staged reduction
of gastroschisis using preformed silos: practicalities and
problems”. Journal of Pediatric Surgery, 44(11):pp.2126-2129.
14. Lao OB, Larison C, Garrison MM, et al (2010). “Outcomes in
neonates with gastroschisis in U.S. children's hospitals”.
American Journal of Perinatology, 27(1):pp.97-101.
15. Maksoud-Filho JG, Tannuri U, da Silva MM, et al (2006). “The
outcome of newborns with abdominal wall defects according to
the method of abdominal closure: the experience of a single
center”. Pediatric Surgery International, 22(6):pp.503-507.
16. Minkes RK, Langer JC, Mazziotti MV, et al (2000). ‘Routine
insertion of a silastic spring-loaded silo for infants with
gastroschisis”. Journal of Pediatric Surgery, 35(6):pp.843-846.
17. Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Thanh Liêm, Bùi Đức Hậu (2011).
“Đánh giá kết quả bước đầu điều trị khe hở thành bụng bằng túi
Silo tại Bệnh viện Nhi Trung Ương”. Y học Thành phố Hồ Chí
Minh, 15:pp.63-70.
18. Pastor AC, Phillips JD, Fenton SJ, et al (2008). “Routine use of a
SILASTIC spring-loaded silo for infants with gastroschisis: a
multicenter randomized controlled trial”. Journal of Pediatric
Surgery, 43(10):pp.1807-1812
19. Schlatter M, Norris K, Uitvlugt N, et al (2003). “Improved
outcomes in the treatment of gastroschisis using a preformed silo
and delayed repair approach”. Journal of Pediatric Surgery,
38(3):pp.459-464.
20. Schmidt AF, Goncalves A, Bustorff-Silva JM, et al (2011). “Does
staged closure have a worse prognosis in gastroschisis?”. Clinics
(Sao Paulo), 66(4):pp.563-566.
21. Schuster SR (1967). “A new method for the staged repair of large
omphaloceles”. Surgery, Gynecology & Obstetrics Jounal,
125(4):pp.837-850.
22. Snyder CL (1999). “Outcome analysis for gastroschisis”. Journal
of Pediatric Surgery, 34(8):pp.1253-1256.
23. Tarca E, Aprodu SG (2013). “Gastroschisis treatment: what are
the causes of high morbidity and mortality rates?”. Chirurgia
(Bucur), 108(4):pp.516-520.
24. Tsai MH, Huang HR, Chu SM, et al (2010). “Clinical features of
newborns with gastroschisis and outcomes of different initial
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 384
interventions: primary closure versus staged repair”. Pediatric
Neonatology, 51(6):pp.320-325.
25. Van Eijck FC, Wijnen RM, van Goor H (2008). “The incidence
and morbidity of adhesions after treatment of neonates with
gastroschisis and omphalocele: a 30-year review”. Journal of
Pediatric Surgery, 43(3):pp.479-483.
26. Weil BR, Leys CM, Rescorla FJ (2012). “The jury is still out:
changes in gastroschisis management over the last decade are
associated with both benefits and shortcomings”. Journal of
Pediatric Surgery, 47(1):pp.119-124.
Ngày nhận bài báo: 17/10/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_ngan_han_cua_dieu_tri_phau_thuat_ho_thanh_b.pdf