Tài liệu Đánh giá kết quả lấy mảnh ghép tự thân gân xương bánh chè bằng đường mổ nhỏ: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 297
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LẤY MẢNH GHÉP TỰ THÂN GÂN XƯƠNG BÁNH
CHÈ BẰNG ĐƯỜNG MỔ NHỎ
Nguyễn Đức Lâm*, Trương Trí Hữu**
TÓM TẮT
Mở đầu: Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định. đặc điểm kích thước mảnh ghép gân bánh chè khi lấy
bằng kỹ thuật ít xâm lấn, hạn chế tối đa biến chứng tại chỗ lấy ghép
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu 35 bệnh nhân được lấy gân bánh chè với kỹ thuật hai
đường mổ nhỏ để tái tạo DCCT giữa tháng 1 năm 2015 đến tháng 05 năm 2017. Bao gân bánh chè được bảo quản
và khâu lại. Đánh giá các đặc điểm mảnh ghép thu được, biến chứng lấy ghép, bộ câu hỏi được sử dụng để khảo
sát khả năng giảm đau và quỳ. Tất cả các bệnh nhân được đánh giá chức năng khớp gối theo thang điểm IKDC. X
quang khảo sát bệnh lý cao thấp bánh chè sau phẫu thuật.
Kết quả:35 bệnh nhân được phẫu thuật và theo dõi 10,9 tháng. Tuổi trung bình 32 tuổi. Không có trường
hợp vỡ xương hay...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả lấy mảnh ghép tự thân gân xương bánh chè bằng đường mổ nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 297
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LẤY MẢNH GHÉP TỰ THÂN GÂN XƯƠNG BÁNH
CHÈ BẰNG ĐƯỜNG MỔ NHỎ
Nguyễn Đức Lâm*, Trương Trí Hữu**
TÓM TẮT
Mở đầu: Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định. đặc điểm kích thước mảnh ghép gân bánh chè khi lấy
bằng kỹ thuật ít xâm lấn, hạn chế tối đa biến chứng tại chỗ lấy ghép
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu 35 bệnh nhân được lấy gân bánh chè với kỹ thuật hai
đường mổ nhỏ để tái tạo DCCT giữa tháng 1 năm 2015 đến tháng 05 năm 2017. Bao gân bánh chè được bảo quản
và khâu lại. Đánh giá các đặc điểm mảnh ghép thu được, biến chứng lấy ghép, bộ câu hỏi được sử dụng để khảo
sát khả năng giảm đau và quỳ. Tất cả các bệnh nhân được đánh giá chức năng khớp gối theo thang điểm IKDC. X
quang khảo sát bệnh lý cao thấp bánh chè sau phẫu thuật.
Kết quả:35 bệnh nhân được phẫu thuật và theo dõi 10,9 tháng. Tuổi trung bình 32 tuổi. Không có trường
hợp vỡ xương hay mảnh ghép. 6 bệnh nhân bị đau trước gối trên nền cứng, dị cảm của phía trước gối đã được tìm
thấy trong 1 bệnh nhân.20 bệnh nhân gặp khó khăn khi quỳ trên nền cứng, 29 bệnh nhân vẫn có thể quỳ trên nền
cứng và 2 người anh không thể. 15 đã có thể quỳ trên nền cứng trong thời gian không hạn chế. IKDC Knee 2000
bình thường và gần bình thường là 94,3%.
Kết luận: Kỹ thuật lấy mảnh ghép gân bánh chè ít xâm nhập trong tái tạo DCCT là kỹ thuật an toàn có thể
được lựa chọn trong tái tạo DCCT
Từ khóa: mảnh ghép gân bánh chè
ABSTRACT
EFFECTIVE EVALUATION OF PATELLAR TENDON AUTOGRAFT HARVESTING BY
USING MINIMAL INCISION
Nguyen Duc Lam, Truong Tri Huu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 297 - 302
Introduction: The aims of this study is to investigate the characters of the patellar tendon graft of mini
invasive technique for ACL reconstruction on condition that restriction of donor-site morbidity.
Methods Prospective study of 35 patients who underwent patellar tendon graft harvesting for ACL
reconstruction using a two small incision between january 2015 and May 2017. The peritenon of patellar tendon
was preserved and repaired. Evalution of complications and morbidity donor site of harvesting, questionnaire was
used to evaluate pain and kneeling capability. All patients had post operative IKDC Knee valuation. The revision
was radiological.
Results: 35 patients were operated and had a follow up of 10,9±0.4 months, mean age 32. No fracture/
rupture of bone or tendon. 35(100%) were able to kneel on soft groud for unrestricted periods, 6(17.1%) patients
had anterior knee pain. 20 patients were difficult kneeling on hard ground, paraesthesia of anterior knee was found
in 1 patient. 29 patients were still able to kneel on hard ground and 2 found he was unable. 15 were able to kneel
for unrestricted periods. IKDC Knee 2000 94.3%.
Conclusions: Technique of two incision patellar tendon graft harvesting is safe. This technique could be
* Bệnh viện Saigon Ito **Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình
Tác giả liên lạc: TS.BS Trương Trí Hữu. ĐT: 0918591576 Email: truongtrihuu08@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 298
chosen for graft choice for ACL reconstruction.
Keywords: patellar tendon graft
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc lựa chọn mảnh ghép thay thế dây chằng
chéo trước (DCCT) cho đến nay vẫn còn là vấn
đề tranh luận. Ahn(1) mảnh ghép tự thân, trong
đó gân bánh chè lấy từ 1/3 giữa, trước đây theo
một số tác giả cho là tiêu chuẩn vàng để thay thế
DCCT, nhất là ở các vận động viên. Kuala(5) báo
cáo về tỷ lệ rối loạn mặt lấy gân và biến chứng
liên quan đến mảnh ghép gân bánh chè. Các
biến chứng bao gồm: đứt gân bánh chè, gãy
xương mảnh ghép, yếu cơ tứ đầu, hạn chế duỗi,
đau trước gối và quỳ khó khăn. Một số cải tiến
kỹ thuật nhằm làm giảm tỷ lệ đau trước bánh
chè như khâu bao gân chè bề mặt gân lấy đã
được thực hiện nhưng hiệu quả còn hạn chế.
Loncu(6) nhằm tránh làm tổn thương các nhánh
thần kinh dưới bánh chè của dây thần kinh hiển,
đồng thời bảo vệ tối đa bao gân bánh chè, giúp
tăng quá trình lành gân, chúng tôi sử dụng kỹ
thuật lấy mảnh ghép gân bánh chè qua hai
đường mổ dọc nhỏ với hy vọng giảm thiểu
những tổn thương tại chỗ vùng lấy ghép mà vẫn
đảm bảo tính an toàn và hiệu quả.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân được lấy gân bánh chè
tự thân với kỹ thuật ít xâm lấn để tái tạo DCCT
tại Bệnh viện chấn thương chỉnh hình SAIGON-
ITO. Tuổi từ 18 – 50 tuổi, theo dõi từ 6 tháng trở
lên. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2015 đến
05/2017
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả dọc.
Phương pháp chẩn đoán đứt DCCT: Chủ
yếu dựa vào khám lâm sàng đánh giá độ vững
của khớp gối theo chiều trước sau. X quang khớp
gối. MRI khớp gối.
Kỹ thuật lấy mảnh ghép gân bánh chè với 2
đường mổ nỏ dọc ít xâm nhập.
Kỹ thuật lấy mảnh ghép bánh chè ít xâm lấn
Bệnh nhân được gây tê tuỷ sống. Bệnh nhân
nằm ngửa trên bàn phẫu thuật, chân được kê ở
bàn chân và đùi cho phép chân có thể di chuyển
gấp duỗi tối đa, đặt garo hơi ở 1/3 trên đùi.
Lấy gân được thực hiện với gối gấp ở 90°
trên bàn. Hai vết rạch dọc, 2-> 3cm chiều dài.
Hình 1. Kỹ thuật lấy mảnh ghép trước và sau mổ
Đường rạch gần không đi quá cực dưới của
xương bánh chè và đường rạch xa ngang mức lồi
củ chày vào trong 1cm, qua bao gân bánh chè,
bộc lộ cực trên gân xương bánh chè.
Dùng kéo Metzenbaum luồn bóc tách bảo vệ
bao gân bánh chè. Dùng cưa rung nghiêng 45 độ
cắt phần xương mảnh ghép phía bánh chè bằng
kích thước gân theo chiều rộng, dài 20 mm.
Khoan đầu xương bằng kim Kirschner 1.8. Sau
đó lấy phần xương bằng đục mỏng.
Khoan luồn chỉ vào đầu xương mảnh ghép.
Dùng Kelly tách dưới bao gân bánh chè từ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 299
đường mổ chày lên kéo đầu gân xương bánh chè
quay ngược xuống.
Tương tự, dùng cưa rung cắt phần xương
phía chày rộng bằng kích thước mảnh gân lấy,
dài 20mm.
Hình 2. Mảnh ghép gân xương bánh chè.
Kỹ thuật tái tạo DCCT theo Tsuda(9).
Điều trị sau phẫu thuật
Kháng sinh 3 ngày bằng đường tĩnh mạch.
Tập phục hồi chức năng.
Chương trình tập phục hồi chức năng sau phẫu
thuật
Chúng tôi áp dụng chương trình phục hồi
chức năng tích cực theo Ahn(1) ưu tiên tập chuỗi
vận động kín.
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả
Trong phẫu thuật: Kích thước mảnh ghép.
Thời gian lấy mảnh ghép. Những khó khăn, biến
chứng khi lấy ghép.
Ngày đầu sau phẫu thuật: Tình trạng gối,
đường mổ lấy ghép.
Đánh giá đau trước gối bằng câu hỏi nghiên
cứu. Đau trước gối được định nghĩa là cảm giác
đau chủ quan hoặc cảm giác khó chịu khu trú ở
mặt trước gối trong các hoạt động hàng ngày,
hoạt động thể thao, đau khi quỳ.
Đánh giá đau theo thang điểm VAS.
Nghiệm pháp quỳ gối trên nền mềm, cứng.
Đánh giá chức năng khớp gối theo thang
điểm IKDC.
X quang, MRI sau 06 tháng.
KẾT QUẢ
Đặc điểm lâm sàng
Tuổi bệnh nhân
Tuổi nhỏ nhất là 21 tuổi và tuổi lớn nhất là
49 tuổi. Tuổi trung bình là 32. Tỷ lệ Nam và
Nữ là 3/1.
Kích thước mảnh ghép
Thời gian và kỹ thuật lấy mảnh ghép
Trung bình là 16 phút.
Bảng 1: Kích thước mảnh ghép.
Mảnh ghép TB(mm) Khoảng
Chiều dài 82,7 ± 1,6 80 - 86
Bề rộng 9,68±0,5 8,5- 10
Gân 42,3 ± 1,2 38 - 44
Chiều dài mảnh ghép là 82,7± 1,6mm.
Biến chứng trong phẫu thuật lấy ghép
Diễn biến vết mổ sau phẫu thuật.
Tất cả các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
đều có vết mổ liền sẹo tốt, cắt chỉ sau 10 ngày.
Không có trường hợp nào chảy máu hay tụ dịch
gây sưng đau vùng lấy mảnh ghép. Thời gian
nằm viện trung bình 3 ngày, lâu nhất 5 ngày.
Diễn biến phục hồi biên độ vận động khớp gối
Phục hồi hệ thống duỗi gối:
Nghiệm pháp nhảy một chân này đánh giá
rất tốt khả năng phục hồi sức cơ tứ đầu của bệnh
nhân. Vào tháng thứ 4-5, mặc dù gối đã vững
nhưng do phản xạ chưa tốt, sức cơ chưa mạnh
nên khả năng nhảy xa chưa đạt. Vào thời điểm 6
tháng là bệnh nhân đã hồi phục sức cơ tứ đầu
gần bình thường.
Đánh giá sự teo cơ tứ đầu:
Bảng 2: Chỉ số teo cơ.
Thời gian Chỉ số teo cơ
Trước mổ 1,092 ± 0,43
Sau mổ 2 tuần 0,94 ± 1,02
4 tuần 1,34 ± 1,05
8 tuần 1,43 ±1,065
3 tháng 1,20 ±1,158
6 tháng 0,57 ± 0,60
Lần cuối 0,37 ± 0,73
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 300
Mức độ teo cơ sau phẫu thuật trung bình là
0,37 ± 0,73. Theo tiêu chuẩn teo cơ đùi trong tổn
thương hệ thống duỗi gối của Castaing và
Duthie là được xếp loại rất tốt, chưa ảnh hưởng
đến hệ thống duỗi gối.
Với thời gian nghiên cứu trung bình 10
tháng, nghiên cứu này có kết quả cải thiện đau
chè đùi theo thang điểm Kujala trung bình trước
mổ từ 59,7 lên đến 87,3 ở lần thăm khám cuối
sau phẫu thuật.
X quang nghiêng đánh giá bệnh lý gân bánh
chè cao thấp sau phẫu thuật.
Kết quả chụp X quang gối nghiêng đo chỉ số
Caton – Deschamps(2) trước và sau phẫu không
có sự khác biệt. Với kết quả chỉ số Caton-
Deschamps trước và sau là 1±0,1.
Đánh giá trên cộng hưởng từ:
Bảng 3: Cộng hưởng từ trước và sau mổ.
MRI(mm) Trước PT Sau PT
Khuyết gân 0 3
Chiều dài gân BC 42 42
Chiều rộng gân BC 29 29
Chiều dày gân BC 4 5
Chức năng khớp gối theo thang điểm IKDC.
Bảng 4: Kết quả thang điểm IKDC.
IKDC A B C D
Ahn 2012(n 117) 70(59,8%) 40(34,1%) 7(5,98%) 0(0%)
Chúng tôi 11(31,4%) 22(62,9%) 2(5,7%) 0(0%)
Với thời gian theo dõi trung bình 10,9
tháng, kết quả phục hồi chức năng khớp trong
nghiên cứu của chúng tôi theo thang điểm
IKDC ở lần khám cuối có 33 trường hợp bình
thường và gần bình thường, chiếm tỷ lệ 94,3%,
trong đó bình thường (A) chiếm 31,4%. Kết
quả này cao hơn kết quả của tác giả Viola R(10)
ở nhóm lấy ghép ít xâm nhập là 81% và tương
đương tác giả Ahn 2012(1) lấy ghép bằng
đường mổ kinh điển là 93,9%.
Sự hài lòng của bệnh nhân.
100% bệnh nhân hài lòng về sẹo mổ lấy
mảnh ghép.
BÀN LUẬN
Đặc điểm lấy mảnh ghép
Thời gian lấy mảnh ghép trung bình 16 phút,
nhanh nhất 15 phút, lâu nhất 20 phút, có 01
trường hợp. So với tác giả Loncu (2012)(6) lấy
ghép bằng một đường rạch kinh điển mất 7,6
phút, thì thời gian lấy mảnh ghép của chúng tôi
kéo dài hơn 8,6 phút
Diễn biến phục hồi biên độ vận động khớp gối
Chương trình phục hồi chức năng ngay
sau mổ nhấn mạnh vai trò của việc cử động
của xương bánh chè và duỗi thụ động hoàn
toàn kết hợp với mang nẹp ở tư thế duỗi lúc
ngủ. Một số tác giả khác lại khuyến cáo nên
mang nẹp và bất động sau mổ để bảo vệ chỗ
lấy mảnh ghép trong vòng 6 tuần. Phòng ngừa
vẫn là biện pháp đầu tiên và hiệu quả nhất để
tránh đơ gối sau mổ bằng cách kiểm soát sưng
đau, tập sớm cơ tứ đầu đùi, cho chống chân
sớm, di động xương bánh chèvà tập tầm độ
khớp đúng theo giai đoạn.
Với thời gian nghiên cứu trung bình 10
tháng, nghiên cứu này có kết quả cải thiện đau
chè đùi theo thang điểm Kujala(5) trung bình
trước mổ từ 59,7 lên đến 87,3 ở lần thăm khám
cuối sau phẫu thuật. Tác giả Randall J(8) thực hiện
một nghiên cứu so sánh giữa 2 nhóm lấy gân
bánh chè và gân chân ngỗng. Kết quả là không
có sự khác biệt giữa hai nhóm theo thang điểm
Kujala(5). Trong đó, nghiên cứu của chúng tôi cho
kết quả tương tự nhóm lấy gân bánh chè bằng
kỹ thuật kinh điển là 87,3 ở lần khám cuối.
Không có trường hợp nào gãy xương bánh chè,
xương chày, đứt gân bánh chè hay vỡ mảnh
ghép. Vì vậy, cũng có thể nói, kỹ thuật lấy mảnh
ghép này an toàn.
Gãy xương bánh chè
Gãy xương bánh chè rất hiếm gặp khi lấy
mảnh ghép gân bánh chè. Trong nhóm nghiên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 301
cứu của chúng tôi không gặp trường hợp nào
(0%). Theo các tác giả trên tỷ lệ là 0,06% – 1,8%.
Bảng 5: Biến chứng gãy xương bánh chè.
Tác giả Trong Sau Tổng
Ahn (2012)
(1)
(n=117)
0(0%) 1(0,06%) 1(0,85%)
Gregory(2008)
(3)
(n =1725)
1(0,06%) 1(0,06%) 2(0,12%)
Chúng tôi
(n =35)
0(0%) 0(0%) 0(0%)
Đứt gân bánh chè
Bảng 6: Biến chứng đứt gân BC.
Tác giả Trong Sau Tổng
Gregory(2008)
(3)
0(0%) 0(0%) 1725
Kartus. J(2006)
(4)
0(0%) 13(0,24%) 5364
Chúng tôi 0(0%) 0(0%) 35
Đứt gân bánh chè cũng là một biến chứng
không thường gặp khi lấy nút xương ở giữa
bánh chè. Chúng tôi không có trường hợp đứt
gân bánh chè trong và sau khi phẫu thuật được
ghi nhận. Osman(7) ghi nhận 13 trong 5364
trường hợp lấy gân bánh chè tái tạo DCCT,
chiếm tỉ lệ 0,24%.
Đau trước gối và rối loạn cảm giác sau phẫu
thuật
Bảng 7: Bảng đánh giá đau trước gối sau phẫu thuật.
Tác giả Ahn (2012) Tsuda
(2001)
Osman Riaz
(2015)
Chúng tôi
ĐTG 36(30,7%) 13(17%) 22(31%) 6(17,1%)
VAS 0,4/10
RLCG 44(37,6%) 13(17%) 23(32%) 1(2,9%)
DT(cm) 10
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, đau
trước gối được ghi nhận ở những bệnh nhân đau
dọc theo hai bên của gân bánh chè, từ các bên
của xương bánh chè tới lồi củ xương chày dựa
theo thang điểm đau trước gối Kujala(5) trong các
sinh hoạt hàng ngày là 17,1%. Với kết quả này,
thấp hơn tác giả Ahn(2012) (1) là 30,7%. Tương
đương Tsuda(2001)(9) là 17%. Tương tự, đau khi
quỳ gối chúng tôi cũng gặp 6 trường hợp, chiếm
tỉ lệ 17,1%, thấp hơn so với nhóm lấy mảnh ghép
gân BC kinh điển một đường mổ của tác giả
Ahn(1) là 30,7% và 31% của Osman(7) với kỹ thuật
lấy ghép gân BC 1 đường dọc, 1 đường ngang.
Khả năng quỳ gối
Bảng 8: Khả năng quỳ gối trên nền cứng.
Tác giả Không khó
hoặc
Khó nhẹ
Khá khó hoặc
Không thể
Ahn 2012 (n 117) 81 (69,2%) 36 (30,8%)
F.Gaudot 2009 (n 21)
Nhóm chứng (n 19)
16 (76,2%) 5 (23,8%)
14 (73,7%) 5 (26,3%)
Osman Riaz 2015 (71) 60 (84,5%) 11 (15,5%)
Chúng tôi 29 (82,9%) 6 (17,1%)
Kết quả bệnh có thể quỳ mà không khó khăn
hoặc khó nhẹ là 82,9%. Kết quả này cao hơn so
với nhóm bệnh nhân của tác giả Ahn với kỹ
thuật lấy ghép kinh điển cũng như nhóm chứng
của Gaudot là 64,1% và 73,7%. Tỷ lệ bệnh nhân
không thể quỳ và quỳ khá khó khăn trong nhóm
nghiên cứu của chúng tôi là 17,1%, tỷ lệ này
cũng tương đương với tác giả Osman(7) với kỹ
thuật lấy mảnh ghép qua một đường dọc phía
bánh chè và đường ngang phía chày là 15,5%.
Bảng 9: Khả năng quỳ gối trên nền mềm.
Tác giả Không khó hoặc
Khó nhẹ
Khá khó hoặc
Không thể
Ahn 2012 (n 117) 111 (94,9%) 6 (5,1%)
Chúng tôi 35 (100%) 0 (0%)
Kết quả 100% bệnh nhân sau phẫu thuật
trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có thể
quỳ trên nền mềm mà không khó khăn hoặc
khó nhẹ. Kết quả này cao hơn so với nhóm
bệnh nhân của tác giả Ahn với kỹ thuật lấy
ghép kinh điển là 94,9%.
Thang điểm đau trước gối Kujala(5)
Bảng 10: So sánh thang điểm Kujala với tác giả khác.
Tác giả Trước PT Sau PT
E. Witvwouw (2001) 67(20,1) 89,5(13,4)
Chúng tôi 59,7 87,3
Có những tranh cãi về cấu trúc sinh học của
vùng gân bánh chè sau khi lấy. Một số đã xác
định mô sẹo, trong khi một số khác đã chứng
minh có sự tiến triển của quá trình sửa chữa
vùng khiếm khuyết gân theo thời gian. Loncu(6)
chứng minh có một quá trình cải thiện của sự
giảm dần cường độ tín hiệu phân giải cao của
gân trong 18 tháng và kết luận rằng những
khiếm khuyết của gân có khả năng tái tạo lại.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 302
Chúng tôi đã không thể chứng minh sự chữa
lành hoàn toàn của phần gân được lấy trong tất
cả các bệnh nhân của chúng tôi. 5 trong số 10
người được chụp MRI kiểm tra lại có dây chằng
bánh chè liên tục và mất khiếm khuyết vùng lấy
ghép và 5/10 người vẫn còn vùng khuyết với
kích thước rộng 3mm. Trong tất cả 10 bệnh nhân
được chụp MRI lại của chúng tôi, khiếm khuyết
xương đã được lấp đầy với các mô liên kết nằm
giữa gân và xương.
Chức năng khớp gối theo thang điểm IKDC.
Bảng 11: Kết quả thang điểm IKDC.
IKDC A B C D
Ahn 2012
(1)
(n 117)
70(59,8%) 40(34,1%) 7(5,98%) 0(0%)
Chúng tôi 11(31,4%) 22(62,9%) 2(5,7%) 0(0%)
Với thời gian theo dõi trung bình 10,9
tháng, kết quả phục hồi chức năng khớp trong
nghiên cứu của chúng tôi theo thang điểm
IKDC ở lần khám cuối có 33 trường hợp bình
thường và gần bình thường, chiếm tỷ lệ 94,3%,
trong đó bình thường (A) chiếm 31,4%. Kết
quả này cao hơn kết quả của tác giả F. Gaudot
ở nhóm lấy ghép ít xâm nhập là 81% và tương
đương tác giả Ahn 2012(1) lấy ghép bằng
đường mổ kinh điển là 93,9%.
KẾT LUẬN
Mặc dù nghiên cứu này còn nhiều hạn chế,
đánh giá đau dựa vào câu trả lời có tính chất
chủ quan của bệnh nhân. Một nhóm chứng với
một đường mổ lấy mảnh ghép gân xương bánh
chè kinh điển là cần thiết để so sánh sẽ tốt hơn.
Sự lựa chọn mảnh ghép cũng như kỹ thuật lấy
ghép thay thế DCCT của bác sĩ phẫu thuật được
quyết định bởi sự kết hợp của các yếu tố bao
gồm cả kết quả phục hồi chức năng, tốc độ
phục hồi chức năng, sự lành mảnh ghép, những
rối loạn bề mặt lấy ghép cũng như thói quen
của phẫu thuật viên cũng quyết định sự lựa
chọn ghép. Tuy nhiên với kết quả trên, có thể
khẳng định kỹ thuật lấy mảnh ghép gân xương
bánh chè ít xâm nhập trong tái tạo DCCT là an
toàn và hiệu quả. Hy vọng cung cấp thêm
những câu trả lời cho sự quyết định chọn lựa
mảnh ghép trong tái tạo DCCT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahn JH, Kim JG, Wang JH, Jung CH, Lim HC (2012). Long-
term results of anterior cruciate ligament reconstruction using
bone-patellar tendon-bone: an analysis of the factors affecting
the development of osteoarthritis. Arthroscopy 28: pp 1114–
1123.
2. Caton J (1989). Method of measuring the height of the patella.
Acta Orthop Belg.55: pp 385–386.
3. Gregory H (2008). The Incidence of Acute Patellar Tendon
Harvest Complications for Anterior Cruciate Ligament
Reconstruction. The Journal of Arthroscopic and Related Surgery,
Vol 24, No 2: pp 162-166.
4. Kartus J (2006). Donor-Site Morbidity after Anterior Cruciate
Ligament Reconstruction Using Autografts. Anterior Knee Pain
and Patellar Instability.; Vol 19: pp 305-319.
5. Kujala M, Laura H (1993). Scoring of Patellofemoral Disorders.
Arthroscopy Association of North America. The Journal of
Arthroscopic and Related Surgery 9(2): pp159- 163.
6. Loncu A, Mader R (2012). Bone-patellar tendon-bone graft via
a single minimally invasive approach versus a classical
approach in anterior cruciate ligament reconstruction: A
prospective study. Orthopaedics and Traumatology: Surgery &
Research Vol 98: pp 426- 431.
7. Osman R, Sohail N (2015). Quantifying the problem of
kneeling after a two incision bone tendon bone arthroscopic
anterior cruciate ligament reconstruction. MLTJ Muscles,
Ligaments and Tendons Journal CIC Edizioni internazionali. Vol 5
(3): pp 181-186.
8. Randall J, Risinger M, Bach BR (2005). Extensor Mechanism
Macrotraumatic Complications. Techniques in Orthopaedics.
Vol. 20. No. 4.pp 27-32.
9. Tsuda E, Okamura Y, Ishibashi Y, Otsuka H, Toh S (2001).
Techniques for reducing anterior knee symptoms after
anterior cruciate ligament reconstruction using a bone-patellar
tendon-bone autograft. Am J Sports Med; 29: pp450–456.
10. Viola R, Vianello R (1999). Three cases of patella fracture in
1,320 anterior cruciate ligament reconstructions with bone-
patellar tendon-bone autograft. Arthroscopy. Jan-Feb;15(1): pp
93-97.
Ngày nhận bài báo: 21/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/3/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_lay_manh_ghep_tu_than_gan_xuong_banh_che_ba.pdf