Tài liệu Đánh giá kết quả kết hợp xương ít xâm nhập bằng nẹp khóa trong gãy thân xương đùi không vững: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 286
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KẾT HỢP XƯƠNG ÍT XÂM NHẬP
BẰNG NẸP KHÓA TRONG GÃY THÂN XƯƠNG ĐÙI KHÔNG VỮNG
Trương Trí Hữu*, Nguyễn Thế Trí**
TÓM TẮT
Mở đầu: Điều trị phẫu thuật kết hợp xương bên trong cho gãy thân xương đùi người lớn còn nhiều tranh
luận. Phương pháp điều trị phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp vít khóa với đường mổ ít xâm nhập là phương
pháp an toàn để chọn.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị lâm sàng và X quang của gãy thân xương đùi không vững
bằng nẹp vít khóa với đường mổ ít xâm nhập
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ 1/2012 đến 12/2015, chúng tôi hồi cứu 43 bệnh nhân với 43
thân xương đùi được phẫu thuật với phương pháp kết hợp xương nẹp vít khóa bắc cầu với đường mổ ít xâm nhập
và có sự hỗ trợ của màn tăng sáng tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình và Bệnh viện Nhân Dân Gia Định..
Kết quả đánh giá bao gồm lành xương lâm sàng, phục hồi chức năn...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 337 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả kết hợp xương ít xâm nhập bằng nẹp khóa trong gãy thân xương đùi không vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 286
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KẾT HỢP XƯƠNG ÍT XÂM NHẬP
BẰNG NẸP KHÓA TRONG GÃY THÂN XƯƠNG ĐÙI KHÔNG VỮNG
Trương Trí Hữu*, Nguyễn Thế Trí**
TÓM TẮT
Mở đầu: Điều trị phẫu thuật kết hợp xương bên trong cho gãy thân xương đùi người lớn còn nhiều tranh
luận. Phương pháp điều trị phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp vít khóa với đường mổ ít xâm nhập là phương
pháp an toàn để chọn.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị lâm sàng và X quang của gãy thân xương đùi không vững
bằng nẹp vít khóa với đường mổ ít xâm nhập
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ 1/2012 đến 12/2015, chúng tôi hồi cứu 43 bệnh nhân với 43
thân xương đùi được phẫu thuật với phương pháp kết hợp xương nẹp vít khóa bắc cầu với đường mổ ít xâm nhập
và có sự hỗ trợ của màn tăng sáng tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình và Bệnh viện Nhân Dân Gia Định..
Kết quả đánh giá bao gồm lành xương lâm sàng, phục hồi chức năng, dấu hiệu trên X quang.
Kết quả: Thời gian theo dõi trung bình là 28 tháng. Tỉ lệ lành xương đạt 95,3% không ghi nhận trường hợp
nào bị viêm xương. Chức năng phục hồi tốt và rất tốt là 97,7%. Can lệch gập góc và can lệch chồng ngắn ở tổng
cộng 9 bệnh nhân, gãy nẹp 2 ca và không liền xương 1 ca
Kết luận: Kết hợp xương bằng nẹp vít khóa với đường mổ ít xâm lấn cho các loại gãy thân xương đùi không
vững là phương pháp lựa chọn hiệu quả
Từ khóa: Gãy thân xương đùi không vững, nẹp khóa nén ép
ABSTRACT
TREATMENT OF ADULT FEMORAL SHAFT FRACTURES BY LOCKING
COMPRESSION PLATE OSTEOSYNTHESIS
Truong Tri Huu, Nguyen The Trí * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 286 – 290
Introduction: There are a lot of options regarding the internal fixation of shaft of femur fractures in adult
patients. Locking compression plating is a safe procedure for unstable distal third fractures can be operated by
minimally invasive approach
Objectives: The purpose of the study was to evaluate the clinical and radiological outcome of internal
fixation with locking compression plate with unstable fracture shaft of the femur with MIS technique
Methods: This is a retrospective study in which 43 patients with fracture shaft of femur were treated using
locking compression plating technique under fluoroscopy from January 2012 to December 2015 in Hospital for
Traumatology Orthopedics and Hospital of People Gia Dinh. Outcome measures included radiological and
clinical union parameters, and functional outcome was assessed by Modified Sander`s criteria.
Results: The average time of follow-up is 28 months. The rate of bone healing is 95.3% without
osteomyelitis. Based on functional assessment parameters, 97.7% of patients had excellent to good, mal union is 9
cases, fail of plate is 2 cases and non union 1 case.
Conclusion: internal fixation of locking compression plate with MIS technique is optimal treatment for
unstable fracture shaft of the femur
*Bệnh viện Chấn thương Chỉnh ** Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: TS.BS Trương Trí Hữu. ĐT: 0918591576 Email: truongtrihuu08@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 287
Keywords: unstable fracture shaft femur, locking compression plating,
MỞ ĐẦU
Gãy xương đùi là loại gãy xương thường gặp
do nhiều nguyên nhân khác nhau như tai nạn
giao thông (TNGT), tai nạn sinh hoạt (TNSH), tai
nạn lao động (TNLĐ), tai nạn thể thao (TNTT),
trong đó gãy thân xương chiếm khoảng 1/5. Có
nhiều phương pháp điều trị phẫu thuật gãy thân
xương đùi như kết hợp xương bằng khung cố
định ngoài đối với gãy hở nặng, kết hợp xương
bên trong bằng nẹp vít hay đinh nội tủy
Kuntscher hoặc đinh nội tủy có chốt đối với gãy
kín(Error! Reference source not found.,9). Phương pháp kết hợp
xương bên trong bằng đinh nội tủy cho đến nay
vẫn là chỉ định ưu tiên hàng đầu trong điều trị
gãy thân xương đùi. Tuy nhiên đối với loại gãy
không vững thân xương đùi hoặc ở một số vị trí
giải phẫu như 1/3 dưới hay 1/ 3 trên thân xương
đùi sẽ có một giải pháp khác có thể được lựa
chọn gần đây là kết hợp xương nẹp vít khóa bắc
cầu với đường mổ ít xâp nhập và có sự hỗ trợ
của màn tăng sáng(Error! Reference source not found.). Phương
pháp kết hợp xương bằng nẹp vít kinh điển cũng
đã được nhiều tác giả thực hiện trong các loại
gãy không vững. Tuy nhiên kỹ thuật có những
nhược điểm như can thiệp phẫu thuật phần
mềm lớn, bộc lộ rộng làm ảnh hưởng đến mạch
máu nuôi xương dẫn đến chậm liền xương, khớp
giả, nhiễm trùng, bong nẹp vít.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả những bệnh nhân trên 15 tuổi đã được
phẫu thuật kết hợp xương nẹp vít khóa với
đường mổ ít xâm lấn tại BVNDGD và BVCTCH
từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015, với
đặc điểm:
Gãy kín thân xương đùi loại không vững từ
B1 đến C3 theo phân loại của AO.
Tiêu chuẩn loại trừ
Gãy xương là bệnh lý
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang. Số
liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 12.0.
Tất cả bệnh nhân được lập hồ sơ bệnh án và
thu thập số liệu.
Phương pháp phẫu thuật
Hình 1. Tư thế, đường mổ, kỹ thuật nắn chỉnh và
kết hợp xương.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 288
Hình 2. Kết hợp xương nẹp vít khóa thân xương đùi.
Đánh giá kết quả
Các tiêu chí đánh giá kết quả bao gồm sự
lành xương, phục hồi chức năng, các di lệch còn
lại và các biến chứng.
Đánh giá sự liền xương dựa vào X-quang:
chúng tôi dựa theo tiêu chuẩn của Winquist(Error!
Reference source not found.), được xem là liền xương khi
trên có can xương bắc cầu qua ổ gãy trên cả hai
bình diện X-quang thẳng và nghiêng.
Đánh giá phục hồi chức năng
Kết quả phục hồi chức năng dựa trên thang
điểm của Sanders(Error! Reference source not found.) gồm 5 chỉ
số. Kết quả được chia làm 4 mức độ:
Rất tốt = 36-40 điểm.
Tốt = 26-35 điểm.
Trung bình = 16-25 điểm.
Xấu = 0-15 điểm.
Đánh giá di lệch:
Di lệch gập góc đo trên X-quang.
Di lệch chồng ngắn dựa trên lâm sàng qua
đo độ dài tuyệt đối hoặc tương đối.
Di lệch xoay dựa vào lâm sàng: Cho bệnh
nhân nằm, gối và háng gấp 90° và so sánh với
bên lành.
Thu thập các biến chứng bao gồm: nhiễm
trùng, lỏng vít, gãy nẹp, chồng ngắn, xoay,
khớp giả.
KẾT QUẢ
Đặc điểm Xquang gãy thân xương đùi không
vững.
Hầu hết là bệnh nhân trung niên và lớn tuổi.
Tuổi trung bình 53,7 tuổi. Nguyên nhân do tai
nạn sinh hoạt (46,6%) và tai nạn giao thông(
48,8%). Đa số gãy thân xương đùi ở đoạn 1/3
dưới. Gãy thân xương đùi trên X-quang ghi
nhận hầu hết gãy di lệch với đường gãy chéo, có
mảnh thứ ba hoặc nhiều mảnh. Đường gãy dài
chéo xoắn từ 1/3 trên xuống hay từ 1/3 giữa
xuống đến 1/3 dưới thân xương. Có trường hợp
gãy nát cả đoạn thân xương lan xuống dưới. Tỉ lệ
phân bố loại gãy theo phân loại AO là loại B1
(51,2%), loại B2 (32,5%), loại B3 (7%), loại C1 (7%)
và loại C2 (2,3%).
Kết quả điều trị
Lành xương
Tiêu chuẩn liền xương trên X-quang khi trên
X-quang có can xương bắc cầu qua ổ gãy trên ba
vỏ xương với thời gian theo dõi tối đa 6 tháng:
tổng số 43 bệnh nhân với 43 xương đùi gãy được
đánh giá, kết quả ghi nhận 1 trường hợp khớp
giả. Đánh giá lành xương sau gãy thân xương
đùi, cũng như nhiều xương dài khác, hiện chưa
có một tiêu chuẩn nào được xem như là tiêu
chuẩn vàng để dựa vào. Phần lớn các tác giả dựa
trên kết quả Xquang thông thường để xác định
lành xương. Theo tác giả Yeap(Error! Reference source not
found.), được xem là lành xương khi có can xương
bắc cầu hoàn toàn qua ba vỏ xương với thời gian
theo dõi 6 tháng. Hồi cứu có 1 trường hợp bệnh
nhân gãy nẹp và không lành xương tại thời điểm
8 tháng và được phẫu thuật lại,chúng tôi xếp vào
khớp giả.Như vậy có 41 bệnh nhân lành xương
trên tổng số 43 bệnh nhân khảo sát, tỉ lệ lành
xương đạt 95,3%.
Phục hồi chức năng
Tại thời điểm nghiên cứu, tổng số 43 bệnh
nhân với 43 xương đùi gãy được đánh giá kết
quả chức năng dựa vào tiêu chuẩn của
Sanders(Error! Reference source not found.) gồm năm yếu tố:
tầm vận động khớp gối, đau ổ gãy, biến dạng ổ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 289
gãy, khả năng đi lại và trở lại công việc. Đa số
bệnh nhân có chức năng phục hồi tốt và rất tốt
(chiếm 97,7%).
Bảng 1. Đánh giá kết quả phục hồi chức năng theo
Sanders
Kết quả Số bệnh nhân Tỉ lệ
Rất tốt 28 65,1%
Tốt 14 32,6%
Trung bình 1 2,3%
Xấu 0 0%
Biến chứng
Đến thời điểm nghiên cứu, chúng tôi không
ghi nhận trường hợp nào bị viêm xương. Không
ghi nhận trường hợp nào dị cảm hay mất cảm
giác do tổn thương thần kinh hoặc rối loạn dinh
dưỡng. Ghi nhận 2 trường hợp gãy nẹp và 1
trường hợp khớp giả. Di lệch còn lại bao gồm 2
xương di lệch gập góc và 7 xương di lệch chồng
ngắn, diễn tiến thành can lệch gập góc và can
lệch chồng ngắn ở tổng cộng 8 bệnh nhân.
BÀN LUẬN
Di lệch gập góc đến tại thời điểm nghiên cứu
với gập góc trung bình là 0,8° ghi nhận tất cả các
trường hợp nắn tốt đều không bị gập góc thêm.
Một trường hợp còn gập góc sau mổ. Bệnh nhân
bị gãy chéo đoạn dưới thân xương, có di lệch
gập góc trước mổ là 30°, sau mổ là 20°. Sau 8
tháng tái khám gãy nẹp, bệnh nhân được mổ lại
nẹp vít. Theo dõi đến tại thời điểm nghiên cứu,
di lệch gập góc 10°, xương liền tốt. Di lệch tại
thời điểm nghiên cứu và sau mổ khác nhau
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Điều này
cho thấy sự phục hồi xương gãy trong quá trình
lành xương tiến triển tốt và hiệu quả tác dụng tốt
của nẹp vít khóa, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình phục hồi chức năng của bệnh nhân.Theo
Apivatthakakul (2009)(Error! Reference source not found.) ghi
nhận trong lô nghiên cứu của ông không có
trường hợp nào có di lệch gấp góc > 10°. Điều
này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi.
Di lệch chồng ngắn tại thời điểm nghiên
cứu với chồng ngắn trung bình là 0,3cm ghi
nhận mọi trường hợp không chồng ngắn thêm
ngoại trừ một trường hợp có di lệch chồng
ngắn thêm. Bệnh nhân này bị gãy thân xương
đùi loại B2, có di lệch chồng ngắn trước mổ là
6cm, sau mổ còn chồng ngắn 2cm. Sau 3 tháng
tái khám bị gãy nẹp, bệnh nhân được mổ lại
bằng nẹp vít. Theo dõi đến tại thời điểm
nghiên cứu, di lệch chồng ngắn tăng lên 4cm,
xương liền xấu, đi lại khó khăn.
Di lệch chồng ngắn tại thời điểm nghiên cứu
thay đổi không có ý nghĩa thống kê so với di lệch
chồng ngắn sau mổ (p> 0,05). Thống kê này có ý
nghĩa cho thấy hiệu quả tốt của nẹp vít khóa, sự
phục hồi tốt trong quá trình lành xương của
bệnh nhân. Các tác giả khác cũng ghi nhận di
lệch chồng ngắn chiếm tỉ lệ nhỏ trong nghiên
cứu, tuy nhiên các trường hợp chiếm phần lớn
phục hồi tốt trong quá trình lành xương. Theo
Apivatthakakul (2009)(Error! Reference source not found.) ghi
nhận trong lô nghiên cứu của mình có hai
trường hợp bị ngắn chi chiếm 5,6%. Theo Kalam
(2015)(Error! Reference source not found.) ghi nhận có 3 trường
hợp ngắn chi từ 7,5%.
Tất cả 39 xương có di lệch xoay trước mổ đều
hết di lệch xoay sau mổ và không thay đổi đến
thời điểm nghiên cứu. Theo Apivatthakakul
(2009)(Error! Reference source not found.) ghi nhận có một
trường hợp còn di lệch xoay và phải mổ lại.
Tại thời điểm nghiên cứu với thời gian theo
dõi trung bình 28 tháng, tổng số 43 bệnh nhân
với 43 xương đùi gãy được đánh giá kết quả
chức năng dựa vào tiêu chuẩn của Sanders có 28
bệnh nhân xếp loại rất tốt (chiếm 65,1%), 14 bệnh
nhân xếp loại tốt (chiếm 32,6%), 1 bệnh nhân xếp
loại trung bình (chiếm 2,3%) và không có bệnh
nhân nào xếp loại xấu. So sánh nghiên cứu của
Bary (2015)(Error! Reference source not found.) với 30 bệnh
nhân được phẫu thuật gãy thân xương đùi có kết
quả đánh giá phục hồi chức năng dựa theo tiêu
chuẩn của Sanders, kết quả tốt và rất tốt là 90%.
Cũng dựa vào đánh giá thông số theo tiêu chuẩn
Sanders. Theo Bae SH(Error! Reference source not found.) báo
cáo kết quả rất tốt và tốt ở 17 bệnh nhân (chiếm
81%), trung bình ở 3 bệnh nhân (chiếm 14,2%),
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 290
xấu ở một trường hợp (chiếm 4,7%). Yuan(Error!
Reference source not found.) báo cáo 83% bệnh nhân đạt kết
quả từ rất tốt đến tốt. Như vậy nhìn chung kết
quả của chúng tôi là tương đối tốt hơn.
Đến thời điểm nghiên cứu, tất cả 43 bệnh
nhân với 43 xương đùi gãy được phẫu thuật theo
nguyên lý xâm lấn tối thiểu, chúng tôi không ghi
nhận trường hợp nào bị viêm xương, nhiễm
trùng. Không ghi nhận trường hợp nào dị cảm
hay mất cảm giác do tổn thương thần kinh hoặc
rối loạn dinh dưỡng. Ghi nhận 2 trường hợp gãy
nẹp (4,65%) và 1 trường hợp khớp giả (2,3%).
Trong đó có một trường hợp gãy nẹp được mổ
lại và xương lành tốt. Di lệch còn lại bao gồm 2
xương di lệch gập góc (4,65%) và 7 xương di lệch
chồng ngắn (16,3%), diễn tiến thành can lệch gập
góc và can lệch chồng ngắn ở tổng cộng 8 bệnh
nhân (18,6%).
Bảng 2. So sánh biến chứng với các tác giả khác
Biến chứng Bary (2015)
(n= 30)
Kalam (2015)
(n= 40)
Apivatthakakul (2009)
(n= 36)
Chúng tôi (n= 43)
Gãy nẹp, lỏng vít 10% 8,33% 4,65%
Khớp giả 5,55% 2,3%
Chồng ngắn 15% 5,55% 18,6%
Xoay 2,78%
Nhiễm trùng sau mổ 3,33% 10% 0% 0%
Qua bảng so sánh trên ta thấy biến chứng
gãy nẹp, lỏng vít, chồng ngắn và nhiễm trùng
sau mổ là những biến chứng thường gặp. Các
biến chứng này có thể gặp ở các phương pháp
điều trị khác nhau. Tuy nhiên, sự so sánh này
không có ý nghĩa thống kê do khác nhau về cỡ
mẫu cũng như chịu sự ảnh hưởng của kỹ
thuật mổ và tình trạng gãy xương. Hơn nữa,
nghiên cứu của chúng tôi là hồi cứu nên chỉ có
thể đánh giá được kết quả xa, không đánh giá
được kết quả gần.
KẾT LUẬN
Phương pháp kết hợp xương bằng nẹp vít
khóa với đường mổ ít xâm lấn cho phép kết hợp
xương vững chắc, nắn chỉnh tốt các di lệch, hạn
chế bộc lộ và tổn thương phần mềm nên cho kết
quả điều trị khả quan. Điều này cho chúng ta
thêm sự lựa chọn phương pháp điều trị hiệu quả
trong các gãy thân xương đùi không vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Apivatthakakul T (2009). Minimally invasive plate
osteosynthesis (MIPO) in the treatment of the femoral shaft
fracture where intramedullary nailing is not indicated, Sicot
(33), pp.1119-1126.
2. Bae SH (2010). Treatment of Femur Supracondylar Fracture
with Locking Compression Plate, Journal Korean Fract Soo,
23(3):pp 282-288.
3. Bary MH (2015). Treatment of Adult Femoral Shaft Fractures
by Locking Compression Plate Osteosynthesis- A Prospective
Study, Issue 3 Ver.III, pp. 66-70.
4. Kalam A (2015). Bridge plating of communited shaft of femur
fracture, Nepjol, pp. 7-12.
5. Sanders R, Swiontkowski M, Rosen H, Helfet D (1991).
Double-plating of comminuted,unstable fractures of the distal
part of the femur, JBJS, 73-A, pp.341-346.
6. Winquist RA, et al (1980). Comminuted fractures of the
femoral shaft treated by intramedullary nailing, Orthop Clin
North Am 11 (1), pp. 633-648.
7. Yeap EJ, et al (2007). Locking Compression Plate Fixation in
Distal Femoral Fractures: Early Result, Malaysian Orthopaedic
Journal, 1(1):pp 12-17.
8. Yuan BM, et al (2012). Preliminary clinical analysis of locking
compression plate fixation treatment of femoral shaft fractures
in adults, China Orthopaedic Journal 11, pp 34-40.
9. Zhang Y, et al (2011). Comparison of effect between
intramedulary nails and locking compression plates in the
treatment of femoral shaft fracture, China. Orthopaedic
Journal 9, pp 23-29.
Ngày nhận bài báo: 21/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/3/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_ket_hop_xuong_it_xam_nhap_bang_nep_khoa_tro.pdf