Tài liệu Đánh giá kết quả điều trị thoát vị vết mổ thành bụng bằng mảnh ghép: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 126
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ VẾT MỔ
THÀNH BỤNG BẰNG MẢNH GHÉP
Vương Thừa Đức*, Phạm Hiếu Liêm**, Trần Minh Hiếu***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thoát vị vết mổ thành bụng (TVVMTB) là biến chứng muộn thường gặp sau phẫu thuật mở
bụng. Việc điều trị bằng khâu thành bụng đơn thuần thường khó khăn với tỷ lệ tái phát khá cao. Việc dùng mảnh
ghép đã được chứng minh là làm giảm tái phát nhưng chưa được báo cáo nhiều ở VN. Vì vậy nghiên cứu này
nhằm khảo sát kết quả sớm và muộn của kỹ thuật mổ dùng mảnh ghép này.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả báo cáo loạt ca trong hơn 6 năm (01/2011 - 03/2016) tại BV
Bình Dân.
Kết quả: Đã có 88 trường hợp TVVMTB được mổ. Tuổi trung bình là 62,3 ± 14, gồm 67 nữ và 21 nam. Tất
cả đi khám bệnh vì khối phồng vùng bụng với thời gian trung bình là 2,2 năm, trong đó có 10 BN (10,2%) đã
từng mổ TVVM ít nhất 1 lần.
...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 170 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả điều trị thoát vị vết mổ thành bụng bằng mảnh ghép, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 126
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ VẾT MỔ
THÀNH BỤNG BẰNG MẢNH GHÉP
Vương Thừa Đức*, Phạm Hiếu Liêm**, Trần Minh Hiếu***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thoát vị vết mổ thành bụng (TVVMTB) là biến chứng muộn thường gặp sau phẫu thuật mở
bụng. Việc điều trị bằng khâu thành bụng đơn thuần thường khó khăn với tỷ lệ tái phát khá cao. Việc dùng mảnh
ghép đã được chứng minh là làm giảm tái phát nhưng chưa được báo cáo nhiều ở VN. Vì vậy nghiên cứu này
nhằm khảo sát kết quả sớm và muộn của kỹ thuật mổ dùng mảnh ghép này.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả báo cáo loạt ca trong hơn 6 năm (01/2011 - 03/2016) tại BV
Bình Dân.
Kết quả: Đã có 88 trường hợp TVVMTB được mổ. Tuổi trung bình là 62,3 ± 14, gồm 67 nữ và 21 nam. Tất
cả đi khám bệnh vì khối phồng vùng bụng với thời gian trung bình là 2,2 năm, trong đó có 10 BN (10,2%) đã
từng mổ TVVM ít nhất 1 lần.
Vị trí thường gặp là đường giữa (75%), trong đó nhiều nhất là dưới rốn (57,9%), còn trong những thoát vị
thành bụng bên thì hố chậu phải là nhiều nhất (19,3%). 66% BN có lỗ thoát vị 5-10 cm và 34% >10 cm. Đa số
(70,5%) có cân thành bụng mỏng hoặc nhão.
Phẫu thuật: 90,9% BN được khâu thành bụng và đặt Mesh tăng cường trước cân, chỉ có 8 BN (9,2%) đặt
Mesh trong cân. Kết quả: 12 BN có biến chứng sau mổ (13,6%), trong đó tụ dịch cao nhất (6 BN), kế đến là chảy
máu, nhiễm trùng, hoại tử da (mỗi loại là 2 BN). Có 2 BN tái phát (2,4%) sau 1 năm đặt mảnh ghép. Cả 2 trường
hợp này đều tái phát trong năm đầu và đều là nữ, > 50 tuổi, BMI > 25, lỗ thoát vị dài >10cm, vị trí giữa dưới rốn,
đã từng mổ TVVMTB bằng phương pháp khâu thành bụng trước đây.
Kết luận: Phục hồi thành bụng bằng mesh có tỷ lệ tai biến biến chứng thấp (13,6%) và thường là nhẹ, không
phải mổ lại, với tỷ lệ tái phát thấp (2,4%).
Từ khoá: Thoát vị, mảnh ghép polypropylen
ABSTRACT
RESULT OF INCISIONAL HERNIA REPAIR WITH POLYPROPYLENE MESH
Vuong Thua Duc, Pham Hieu Liem, Tran Minh Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 126 - 134
Purpose: Abdominal incisional hernia is a common late complication after laparotomy. Tissue based repair
with single suture is of high recurrence rates. Mesh based repair was proved better in western countries with low
recurrence rates but there were few of such report in VN so now. This study is to survey the complications and
recurrence of mesh reair in treatment of abdominal incisional hernias.
Methode: Retrospective case series study in Binh Dan hospital in 6 years (2011-2016).
Results: There were 67 female and 21 male patients of incisional hernia operated. Their mean age was 62.3 ±
1. All of them admitted with lumps on or near the operative scars. The most common location among the midline
hernias was sub-umbilical (57.9%) and the most common among location the lateral hernias was the right lower
* Bệnh viện Bình Dân., **Đại học Y Dược TP.HCM, ***ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: PGS.Vương Thừa Đức ĐT: 090397925 Email: vuongthuaduc@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 127
quadrant (19.3%). All patients had large hernias with the defects longer than 5 cm (66% from 5 to 10 cm, 34% >
10 cm) and 70% among them were of thin, weak abdominal fascias.
Operations performed: 80 (90.9%) abdominal closures with onlay mesh reinforcement and 8 (9%) inlay
mesh repairs.
The oprative results: 12 (13.6%) complications; composing 6 subcutaneous fluid collections, 2 hemorrhages, 2
infections, 2 skin necroses. None of them needed reopating or mesh removal. There were 2 patients recurred
(2.4%) after 1 year. Both of them were female, age>50, BMI>25, defect >10cm, sub-umbilical, and with previous
recurrent histories.
Conclusion: Mesh based repair for abdominal incisional hernia is safe with slight complications and low
recurrence rates (2.4%).
Key words: hernia, polypropylene mesh
MỞ ĐẦU
Thoát vị vết mổ thành bụng (TVVMTB) là
biến chứng muộn thường gặp nhất của phẫu
thuật mở bụng, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt
của BN, thậm chí còn gây ra biến chứng nghẹt.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật khác
nhau để điều trị TVVMTB. Trước kia, điều trị
TVVMTB bằng phẫu thuật khâu lại thành bụng
là chủ yếu. Kỹ thuật mổ tuy đơn giản, nhưng lại
gây căng thành bụng và dẫn đến tỉ lệ tái phát
cao, có thể lên đến từ 12% – 54(10). Hiện nay, trên
thế giới, thường dùng kỹ thuật mổ đặt mảnh
ghép do có tỉ lệ tái phát thấp hơn, từ 2% – 36%. Ở
Việt Nam, kỹ thuật điều trị TVVMTB bằng kỹ
thuật đặt mảnh ghép đã được thực hiện từ năm
2000, tuy nhiên cho đến nay, vẫn có ít báo cáo về
hiệu quả giảm tái phát và biến chứng thành
bụng của phương pháp này. Do đó, chúng tôi
muốn tiến hành nghiên cứu này nhằm các mục
tiêu sau đây:
-Xác định tỉ lệ biến chứng thành bụng của
phương pháp điều trị thoát vị vết mổ thành
bụng bằng phẫu thuật đặt mảnh ghép
-Xác định tỉ lệ tái phát của phương pháp điều
trị thoát vị vết mổ thành bụng bằng phẫu thuật
đặt mảnh ghép.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang hồi cứu từ năm 2011
đến năm 2016.
Địa điểm thu thập số liệu: bệnh viện
Bình Dân.
Đối tượng nghiên cứu
BN bị TVVMTB được phẫu thuật đặt mảnh
ghép Polypropylene tại BV Bình Dân và lọai
trừ những trường hợ mà hồ sơ bệnh án không
đầy đủ.
Kỹ thuật mổ: đặt mảnh ghép trước cân
(Onlay Mesh Repair) kết hợp với khâu thành
bụng hoặc đặt mảnh ghép trong cân (Inlay
Mesh Repair).
Phân tích và xử lý số liệu
Tất cả số liệu được mã hóa, nhập và tính toán
dựa vào phần mềm STATA 13.
KẾT QUẢ
Có 88 bệnh nhân BN bị TVVMTB được điều
trị phẫu thuật đặt mảnh ghép Polypropylene tại
bệnh viện Bình Dân từ năm 2011 đến năm 2016.
Đặc điểm bệnh nhân
Tuổi BN trung bình là 62,3 ± 14 tuổi. Tỉ lệ
bệnh nhân nữ (67 BN, 76,1%) cao hơn bệnh nhân
nam (21 BN, 23,8%). Tất cả BN đều thừa cân với
BMI trung bình là 24,4 + 4,3.
Trong những lý do mổ lần đầu, viêm ruột
thừa chiếm tỉ lệ cao nhất (34,1%), thứ 2 là phụ
khoa (27,3%). Lý do khiến BN đi khám bệnh là vì
khối phồng vết mổ (69 BN,78,4%) hoặc khối
phồng kèm đau (9 BN,10,2%). Thời gian BN
mang TVVM là từ 1-10 năm (trung bình là
2,2 năm).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 128
Bảng 1: Lý do mổ lần đầu.
Lý do mổ lần đầu Tần số (Tỷ lệ %)
Viêm ruột thừa 30 (34,1)
Phụ khoa 24 (27,3)
Ống tiêu hóa – đường mật 23 (26,1)
Khác 11 (12,5)
Bảng 2: Nguy cơ tái phát.
Nguy cơ tái phát Tần số (Tỷ lệ%)
Tiền căn nhiễm trùng vết mổ 26 (29,5)
Mổ nhiều lần 23 (26,1)
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 4 (4,5)
Đái tháo đường 13 (14,8)
Phì đại tuyến tiền liệt 2 (2,3)
Bảng 3: Tiền sử diều trị TVVM.
Đã được mổ TVVM Tần số (Tỷ lệ%)
Một lần 8 (9,1)
Hai lần 1 (1,1)
Không 79 (89,8)
Đặc điểm thương tổn
Bảng 4: Phân bố vị trí thoát vị vết mổ cũ.
Đường mổ cũ (n = 88) Tần số (Tỷ lệ %)
Giữa trên rốn (M2) 7(8,0)
Giữa dưới rốn (M4) 41 (46,6)
Giữa trên dưới rốn (M3) 18 (20,5)
Mac Burney (L3) 17 (19,3)
Jalaguier (L2) 5 (5,7)
Bảng 5: Kích thước lỗ thoát vị.
Chiều rộng lỗ thoát vị Tần số (tỷ lệ %)
< 5 cm 33 (37,5)
6 – 10 cm 53 (60,2)
>10 cm 2 (2,3)
Chiều dài lỗ thoát vị Tần số (tỷ lệ %)
5-10 cm 58 (66%)
>10 cm 30 (34%)
Bảng 6: Một số đặc điểm khác trong khi mổ.
Đặc điểm (n = 88) Tần số Tỷ lệ %
Tổn thương cân cơ
Nhão 62 70,5
Chắc 26 29,5
Dính ruột Tần số Tỷ lệ %
Không có 32 36,4
Dính ruột lên túi 40 45,5
Dính ruột lên thành bụng 9 10,2
Dính ruột lên túi + thành bụng 7 8
Có túi thoát vị phụ 8 9,1
Đường mổ hay bị thoát vị nhất vẫn là đường
giữa (75%), trong đó vị trí bị TVVM nhiều nhất
là đường giữa dưới rốn (57,9%), còn trong số
những TVVM thành bụng bên thì hố chậu phải
là nhiều nhất (19,3%). Tất cả BN có lỗ thoát vị
khá dài (5-10cm, 66%) hoặc dài (>10cm, 34%).
Tỉ lệ bệnh nhân có cân thành bụng được
đánh giá mỏng hoặc nhão trước và trong mổ
chiếm đa số (70,5%). Tỉ lệ dính ruột lên túi và
thành bụng là 63,6%.
Đặc điểm cuộc mổ
Thời gian mổ trung bình là 52 + 26 ph, có 35 BN
(39,8%) phải gở dính
Đa số là khâu thành bụng và đặt Mesh tăng
cường trước cân (90,9%), chỉ có 8 BN (9,2%) đặt
Mesh trong cân (Inlay Mesh Repair). (Bảng 7).
Có 36 BN được đặt dẫn lưu (5 BN rút dẫn
lưu sau 24 giờ và 31 BN rút dẫn lưu sau 48 giờ).
Bảng 7: Phương pháp phẫu thuật.
Phương pháp phẫu thuật (n = 88) Tần số (Tỷ lệ %)
Đặt Mesh trong cân (Inlay) 8 (9,1)
Khâu + Mesh trước cân (Onlay) 80 (90,9)
Kết quả phẫu thuật
Biến chứng sau mổ
Thời gian hậu phẫu trung bình là 4,2 ngày
(từ 1-18 ngày).
Có 12 BN có biến chứng sau mổ (13,6%).
Trong đó tụ dịch cao nhất (58,33%), kế đến là
chảy máu, nhiễm trùng, hoại tử da, mỗi loại là
16,7% (Bảng 8).
Bảng 8: Biến chứng thành bụng sau mổ (n = 12).
Biến chứng thành bụng Tần số (Tỷ lệ %)
Chảy máu 2 (16,7)
Nhiễm trùng 1 (8,3)
Nhiễm trùng + hoại tử da 1 (8,3)
Hoại tử da 1 (8,3)
Tụ dịch 7 (58,33%)
Chúng tôi ghi nhận:
Biến chứng tụ dịch có liên quan với việc
không đặt dẫn lưu (p = 0,043 < 0,05).
Biến chứng tụ dịch dễ xảy ra trên bệnh nhân
có lỗ thoát vị dài > 10cm (p = 0,002< 0,05).
Có 1 trường hợp tụ dịch cần phải can thiệp
dẫn lưu vào ngày thứ 7 sau mổ vì ống dẫn lưu
không hiệu quả, 6 trường hợp tụ dịch còn lại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 129
được điều trị bảo tồn bằng băng ép và nội khoa.
Có 2 BN bị chảy máu sau mổ ở mức độ tối
thiểu và đáp ứng điều trị nội khoa.
Có 2 BN hoại tử da tại mép vết mổ bao gồm;
1 bệnh nhân kèm biến chứng nhiễm trùng và 1
bệnh nhân trên cơ địa hút thuốc lá lâu năm. Cả 2
được xử trí cắt lọc mép da, mở rộng vết mổ, thay
băng, bơm rửa dung dịch Bétadine loãng.
Một BN bị nhiễm trùng thành bụng phải
can thiệp xảy ra ở BN có cơ địa béo phì và
tăng huyết áp, phát hiện vào ngày thứ 5 sau
mổ. Xử trí: sử dụng lại kháng sinh, mở rộng
vết mổ để hở da và chăm sóc mỗi ngày, không
cần lấy mảnh ghép.
Kết quả sau mổ >1 năm
Chúng tôi theo dõi đến >1 năm được 82 BN
(93,2%) gồm; 34 BN (38,6%) đến tái khám và 48
BN (54,4%) liên lạc được qua điện thoại.
Chúng tôi ghi nhận có 2 BN tái phát (2,4%)
sau 1 năm đặt mảnh ghép. Cả 2 trường hợp tái
phát đều xuất hiện trong năm đầu và đều là nữ,
> 50 tuổi, BMI > 25, thành bụng nhão, lỗ thoát vị
có kích thước lớn (dài > 10cm, rộng > 4cm), thoát
vị đều là giữa dưới rốn, bị TVVM tái phát (đã mổ
thoát vị vết mổ thành bụng bằng phương pháp
khâu thành bụng trước đây).
Khi phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến
tái phát, chúng tôi nhận thấy chỉ 2 yếu tố; chiều
dài lỗ thoát vị > 10cm và tiền căn bị thoát vị vết
mổ thành bụng tái phát làm tăng tỉ lệ tái phát sau
khi phẫu thuật điều trị TVVM thành bụng (p <
0,05). Các yếu tố khác (tuổi, giới, BMI, thành
bụng nhão) không ảnh hưởng đến tái phát.
BÀN LUẬN
Xuất độ thoát vị vết mổ
Ở Việt Nam chưa có số liệu chính thức về tỉ
lệ TVVM thành bụng. Theo y văn, tỉ lệ này dao
động từ 0,5 đến 11%. Hiện nay, tỉ lệ TVVM sẽ
giảm dần theo sự thay thế phẫu thuật mở bằng
phẫu thuật nội soi.
Nhìn chung, TVVM bị nhiều nhất vào
khoảng từ 50 đến 70 tuổi. Ngược lại với thoát vị
bẹn, trong tất cả tổng kết về TVVM chúng tôi
đều thấy bệnh nhân nữ luôn chiếm đa số(25). Có
thể giải thích sự chênh lệch giới tính rõ rệt về tần
suất mắc bệnh trong nghiên cứu này bằng tỉ lệ
cao của bệnh lý phụ khoa trong lý do mổ lần
đầu. Lý do mổ lần đầu có liên quan đến bệnh lý
sản-phụ khoa chỉ đứng sau bệnh lý viêm ruột
thừa. Phẫu thuật cắt ruột thừa được xem như
một can thiệp nhỏ và đơn giản. Tuy nhiên,
nhiễm trùng thành bụng sau cắt ruột thừa lại
hay xảy ra dẫn đến hậu quả sau cùng là TVVM.
Theo phân loại của EHS chúng tôi nhận thấy
khoảng 50% bệnh nhân nghiên cứu thuộc loại
M4 (dưới rốn), 50% còn lại bao gồm các thoát vị
trên rốn (M2), thoát vị rốn (M3) và vùng chậu
(L). Điều này phù hợp hoàn toàn với lý do mổ
lần đầu của bệnh nhân chủ yếu là viêm ruột thừa
và bệnh lý phụ khoa.
Các tác giả Thụy Điển nghiên cứu về thời
điểm phát triển thoát vị sau khi mở-đóng
bụng. Thật sự có hiện tượng tách xa lớp cân
xảy ra sau khi khâu một thời gian. Thời gian
này là 12 tháng. Trên cơ sở tách xa lớp cân,
TVVM phát triển.
Yếu tố nguy cơ của TVVM
Chưa có một yếu tố riêng lẻ nào đóng vai trò
nguyên nhân hay yếu tố nguy cơ cho TVVM sau
mở bụng. Nhưng với kết quả phân tích đa biến
trên 1000 trường hợp mở bụng giữa cho thấy
yếu tố nhiễm trùng và yếu tố mở bụng nhiều lần
có ảnh hưởng đến tần suất TVVM(5). Nhận xét
này rất phù hợp với kết quả của chúng tôi: 29,5%
bệnh nhân nhóm đặt mảnh ghép có nhiễm trùng
vết mổ trong lần mổ trước; 26,1% bệnh nhân có
tiền căn mở bụng nhiều lần; còn những tiền căn
khác (COPD, phì đại tiền liệt tuyến, ĐTĐ, hút
thuốc lá) đều có xuất độ không đáng kể.
Pena nhận thấy mảnh ghép có vai trò dự
phòng TVVM (p = 0,02) cho những bệnh nhân
phải mở bụng đồng thời có cơ địa đặc biệt như:
trên 70 tuổi, ung thư, chỉ số BMI trên 30 và hút
thuốc lá(22).
Một tổng kết 25 năm kinh nghiệm phẫu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 130
thuật TVVM của đại học Göttingen đưa ra nhận
xét rằng kinh nghiệm của phẫu thuật viên được
xem như một yếu tố tiên lượng đối với bệnh
nhân(16). Phẫu thuật viên có kinh nghiệm trên 19
lần đặt mảnh ghép có tỉ lệ biến chứng và tái phát
giảm rõ rệt so với phẫu thuật viên dưới 9 lần đặt
mảnh ghép.
Chỉ định dùng mảnh ghép
Tại bệnh viện Shouldice, mảnh ghép được
chỉ định nếu kích thước lỗ thoát vị trên 6 cm
hoặc kích thước lỗ thoát vị dưới 6 cm kèm
theo căng thành bụng khi khâu. Trong 188
bệnh nhân, có 34% bệnh nhân được khâu và
66% bệnh nhân được đặt mảnh ghép(6). Tỉ lệ tái
phát là 6% đối với lỗ thoát vị dưới 6 cm, là
17,5% đối với lỗ thoát vị từ 6 đến 10 cm(6,29).
Một tổng kết 40 trung tâm ngoại khoa quốc
gia của Thụy Điển về TVVM năm 2004 cho thấy
tỉ lệ dùng mảnh ghép là 60%(13) cũng trong tổng
kết này, tỉ lệ thoát vị tái phát cao rõ rệt ở nhóm
đặt mảnh ghép trước cân có lỗ thoát vị trên 3 cm.
Bên cạnh kích thước lỗ khuyết cân khiến ta
quyết định có dùng mảnh ghép hay không.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận còn thấy
tỉ lệ nhão cân và toác rộng cân khá cao (70,5%).
Và đây cũng là yếu tố góp phần quyết định cho
việc dùng mảnh ghép.
Đánh giá thương tổn & Kỹ thuật phục hồi
thành bụng:
Chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào đưa ra
tiêu chuẩn rõ ràng về chất lượng bờ cân thành
bụng trong phục hồi TVVM thành bụng. Thực tế
các phẫu thuật viên vẫn phải dùng kinh nghiệm
đánh giá tại thời điểm phẫu thuật bằng cách sờ
nắn, dựa vào độ dày mỏng của cân hay tình
trạng cân thành bụng bị rách khi khâu.
Kích thước thật sự của lỗ khuyết cân thành
bụng được đo lúc mổ bao gồm cả các lỗ thoát vị
phụ hay vùng yếu thành bụng(9). Chúng tôi nhận
thấy tỉ lệ thành bụng bị yếu, mỏng đi khá cao
(70,5%). Áp lực khoang bụng đẩy túi thoát vị ép
trực tiếp lên cơ thành bụng làm cho cơ bị yếu
dần(1). Cuối cùng, khả năng giữ chắc đường khâu
thành bụng bị yếu dần theo thời gian tạo cơ hội
TVVM hình thành.
Nếu bỏ sót túi thoát vị phụ hay một túi
ngách nhỏ nào đó sẽ là mầm móng của thoát vị
tái phát. Chúng tôi có 8 trường hợp (9,1%) có hai
túi thoát vị trở lên và ngăn cách giữa hai túi là
một cầu xơ. Do vậy yêu cầu luôn mở phúc mạc
túi thoát vị, ngoài mục đích gỡ dính hoặc phẫu
tích bờ cân dễ dàng hơn, còn để tìm các ngách
hay túi thoát vị thứ hai(18).
Trong các phẫu thuật TVVMTB, việc đóng
thành bụng bao giờ cũng gặp những vấn đề
tương đối khó khăn. Thứ nhất, khó khăn trong
việc ước lượng và khâu chính xác bờ của lỗ thoát
vị (do thừa phúc mạc và thiếu cân). Thứ hai, khi
đóng bụng quá căng sẽ kéo theo tăng áp lực
trong ổ bụng, làm giảm chức năng hô hấp, cuối
cùng sẽ gây tăng áp lực khoang bụng từ đó sinh
ra những biến chứng về hô hấp sau phẫu thuật
(gặp trong các trường hợp TVVM lớn). Đối với
phẫu thuật TVVMTB quá lớn mà chúng ta
không thể khâu khép hết lỗ khuyết cân, chúng
tôi buộc phải khâu mesh vào bờ cân (Inlay mesh
repair) đồng thời bảo tồn lá phúc mạc đến mức
tối đa có thể, cắt tiết kiệm bao túi thoát vị hoặc sử
dụng một phần của bao này, hoặc độn mạc nối
lớn che mặt dưới mảnh ghép, tạo lớp ngăn cách
an toàn giữa mảnh ghép và tạng trong khoang
bụng. Trong nghiên cứu này có 8/88 (9,1%)
không còn đủ lớp cân để đóng kín được lỗ
khuyết cân thành bụng mà phải đặt mảnh ghép
trong cân, 80 BN còn lại (91%) đóng cân lại rồi
tăng cường thêm mesh may vào mặt trước cân
(Onlay mesh reinforcement).
Campanelli đã sử dụng mảnh ghép Vicryl để
thay thế phúc mạc và mảnh ghép Marlex® để
thay thế lớp cân trong trường hợp thoát vị lớn
với lỗ khuyết cân hơn 10 cm chiều ngang và 15
cm chiều dọc. Kết quả sau 31,4 tháng theo dõi
không ghi nhận tái phát hay nhiễm trùng phải
lấy bỏ mảnh ghép(4). Vấn đề vô trùng ngoại khoa
và bảo vệ nghiêm ngặt vị trí được chọn để đặt
mảnh ghép là rất cần thiết nhằm phòng ngừa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 131
nhiễm trùng thành bụng hoặc nhiễm trùng
mảnh ghép(3,4,7).
Vấn đề gở dính ruột: Chúng tôi phải lưu ý
điều này vì tỉ lệ dính ruột khá cao (63,6%). Ở
những bệnh nhân khi mổ thấy có hiện tượng
dính ruột mà trong tiền sử bệnh không có các
cơn đau của tắc ruột thì việc chủ động gỡ dính
ruột theo chúng tôi là không cần thiết, vì đây là
dính ruột trong “trật tự”. Hơn nữa động tác gỡ
dính có thể là nguyên nhân dẫn đến những cơn
đau bụng do dính mới trong tương lai, chưa kể
đến biến chứng thủng ruột khi gỡ dính mà có
thể gây nhiễm trùng mảnh ghép. Do vậy, theo
chúng tôi chỉ cần gỡ những quai ruột dính vào
vết mổ và xung quanh bờ cân lỗ thoát vị đủ để
có thể phục hồi thành bụng.
Chọn vị trí đặt mảnh ghép
Về vị trí đặt mảnh ghép, vị trí sau cơ trước
cân của Rives-Stoppa được nói đến rất nhiều vì tỉ
lệ tái phát thấp, nhưng đòi hỏi phải phẫu tích
thành bụng khó khăn và phức tạp(13). Trong khi
đó, vị trí trước cân cơ (Onlay) bị phản đối vì tái
phát cao và nguy cơ tụ dịch, nhiễm trùng do
mảnh ghép nằm dưới da(30). Thực tế lại cho thấy
mảnh ghép trước cân –cơ có những ưu điểm nổi
bật như dễ dàng thực hiện, ít bóc tách thành
bụng, biến chứng phẫu thuật rất thấp và mảnh
ghép nhanh chóng cài vào thành bụng(20,22). Mặt
khác vị trí thoát vị trên thành bụng cũng quyết
định vị trí đặt mảnh ghép. Khoang tiền phúc
mạc của hai hố chậu và trên xương mu rất thuận
tiện để đặt mảnh ghép. Khoang sau cơ thẳng
vùng trên rốn rất thuận lợi để áp dụng phương
pháp của Rives-Stoppa. Trong khi đó khoang
quanh rốn thì chỉ có một lớp cân và lá phúc mạc
dính chặt vào lớp cân nên mảnh ghép rất khó
đặt sau cân.
Đặt mảnh ghép trong khoang bụng (mảnh
ghép chống dính) có thể thực hiên bằng mổ mở
hoặc phẫu thuật nội soi. Ưu điểm của phẫu thuật
nội soi là rút ngắn thời gian nằm viện, ít đau, tỉ lệ
nhiễm trùng thấp hơn. Nhưng về tỉ lệ tái phát thì
không khác biệt so với mổ mở.
Chúng tôi đồng ý rằng, không có phương
pháp nào là tốt nhất cho mọi TVVM. Trong thực
tế cần dựa vào từng trường hợp cụ thể để đưa ra
phương pháp can thiệp hợp lý nhất(15,18,26).
Biến chứng sau mổ
Biến chứng của chúng tôi phù hợp với hầu
hết các báo cáo trên y văn thế giới.
- Chảy máu: Tỉ lệ máu tụ thành bụng sau mổ
của Chevrel (1997) và Flamment (1999) lần lượt
là 1,8% và 0,7%(18). Chúng tôi có hai trường hợp
chảy máu sau mổ (2,3%), biểu hiện bằng dấu
hiệu máu đỏ tươi chảy theo ống dẫn lưu ra bình
hút chân không. Cả hai trường hợp này đều tự
ngưng chảy máu sau 48 giờ chứng tỏ đây chỉ là
chảy máu tối thiểu từ những mạch máu nhỏ
thuộc lớp dưới da và tự ngưng nhờ băng ép tốt
thành bụng sau mổ. Phòng ngừa biến chứng
chảy máu bằng cách phẫu tích thành bụng nhẹ
nhàng và cầm máu tỉ mỉ. Không ngần ngại khâu
cột các mạch máu xuyên gặp phải trong lúc phẫu
tích lớp dưới da ra khỏi lá trước cơ thẳng bụng
và cân-cơ chéo ngoài.
- Hoại tử da: Đây là biến chứng rất ít gặp.
Tỉ lệ hoại tử da theo báo cáo của AFC là 1,2%
còn theo Lechaux là 0,9%(18). Hoại tử da sau
mổ có nguyên nhân là phẫu tích rộng và sát
lớp bì, hoặc sử dụng máy đốt quá mức cần
thiết gây tình trạng thiểu dưỡng bờ da, dẫn
đến hoại tử. Hoại tử da có thể là hậu quả của
nhiễm trùng vết mổ thông qua hiện tượng
viêm phù nề, chèn ép, cuối cùng dẫn đến thiểu
dưỡng mô. Mặt khác, hoại tử da cũng là yếu tố
thuận lợi cho các biến chứng khác như viêm
mô tế bào, nhiễm trùng sâu. Đây không là biến
chứng nặng sau mổ thoát vị nhưng ảnh hưởng
nhiều đến kết quả phẫu thuật vì mảnh ghép bị
lộ ra ngoài do vết mổ không liền và cần phải
chăm sóc lâu dài mới có được mô hạt đầy đủ
cho quá trình thượng bì hóa.
- Tụ dịch: Đây là diễn biến đặc thù thường
thấy sau đặt mảnh ghép và hầu như rất ít xảy ra
sau khâu thành bụng đơn thuần. Có quan điểm
không xem tụ thanh dịch là một biến chứng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 132
thành bụng sau đặt mảnh ghép. Trong trường
hợp dịch tụ tồn tại sau mổ 8 tuần và có triệu
chứng lâm sàng thì đây là một biến chứng thật
sự. Những trường hợp tụ dịch mạn tính có thể
tồn tại do nang hóa ổ tụ dịch.
Trong các vị trí đặt mảnh ghép thành
bụng, vị trí trước cân hay để lại hậu quả tụ
thanh dịch nhiều nhất(23). Ở một trường hợp tụ
dịch đã can thiệp, chúng tôi nhận thấy băng
ép đàn hồi thành bụng bị lỏng lẻo, ống dẫn
lưu không hút hiệu quả mặc dù dịch tụ không
đáng kể. Do vậy, kinh nghiệm cho thấy cần
phải kiểm tra lại ống dẫn lưu và băng ép đàn
hồi thành bụng vào ngày hậu phẫu thứ nhất
nhằm mục đích can thiệp kịp thời như tạo
thêm lực hút chân không, thay băng thun mới.
Đối với những trường hợp có tụ dịch trên siêu
âm nhưng khám lâm sàng không có dấu hiệu
nhiễm trùng cũng như bệnh nhân không than
phiền khó chịu gì, chúng tôi chỉ theo dõi và
xem như tụ dịch không triệu chứng.
Đối với biến chứng tụ thanh dịch tồn tại sau
tuần thứ 8, hoặc diễn tiến tạo thành nang to chứa
dịch vàng có khi lẫn máu nhưng cấy vô trùng,
Fawcett và Juan Carlos khuyên nên can thiệp lại
để cắt nang thì mới chấm dứt được biến chứng
tụ và chảy dịch sau đặt mảnh ghép.
Nhiễm trùng: Là biến chứng đáng ngại nhất.
Một nghiên cứu đa trung tâm được thực hiện tại
Mỹ đưa ra những yếu tố dự đoán có giá trị của
biến chứng nhiễm trùng thành bụng sau đặt
mảnh ghép bao gồm: đang hút thuốc, dùng
corticoide mạn tính, thời gian mổ, mảnh ghép
tan. Trong đó yếu tố đang hút thuốc lá được xem
như một yếu tố nguy cơ. Theo dõi ngắn hạn cho
thấy mảnh ghép không tan được chứng minh là
không gây tăng tỉ lệ nhiễm trùng mảnh ghép(14).
Petersen rút ra được nhận xét từ 175 ca đặt mảnh
ghép tan và không tan rằng vị trí đặt mảnh ghép
trong thành bụng không liên quan đến tỉ lệ
nhiễm trùng. Hầu hết các phẫu thuật viên có số
liệu thuyết phục về nhiễm trùng mảnh ghép đều
nhận xét không cần lấy lưới polypropylene nhờ
cấu trúc đơn sợi và những lỗ cho mô hạt cài vào.
Tuy nhiên để mô hạt cài tốt, mảnh ghép
polypropylene phải được cố định và căng đều.
Nhìn chung tần suất nhiễm trùng sau đặt mảnh
ghép điều trị TVVM xung quanh con số 2%.
Trường hợp nhiễm trùng của chúng tôi, mảnh
ghép được giữ lại vì vết mổ được tách rộng ngay
và mảnh ghép nằm ngay dưới da, dẫn lưu rất
hiệu quả không còn xoang tụ dịch nào khác. Mô
hạt sẽ mọc dần dần và cài vào mảnh ghép trong
một hoặc hai tuần và che kín mảnh ghép bằng
mô liên kết, sẵn sàng để ghép da (hoặc thượng bì
hoá một cách tự nhiên). Điều này được chứng
minh bằng quá trình chăm sóc và theo dõi cả ba
bệnh nhân (1 nhiễm trùng, 2 hoại tử da) đến
ngày lành sẹo hoàn toàn.
Stone(27) tổng kết công trình 20 năm với 101
trường hợp mất thành bụng do nhiễm trùng
hoại tử được đặt mảnh ghép polypropylene.
Ông nhận xét rằng mảnh ghép polypropylene
có thể thích nghi với tình trạng nhiễm trùng
và đảm bảo nhiệm vụ làm khung cho mô hạt
phát triển. Gilbert(12) có tỉ lệ tụ thanh dịch 14%
(5/36), nhiễm trùng 6% (2/36). Tất cả bệnh
nhân nhiễm trùng, lộ mảnh ghép và mất da
đều phục hồi tốt với tưới rửa vết thương mà
không cần lấy mảnh ghép.
Tái phát
Nhìn chung tỉ lệ tái phát sau khâu thành
bụng dao động từ 12% đến 54%(11) và sau đặt
mảnh ghép là 2% đến 29% (Bảng 9).
Bảng 9: So sánh kết quả của các nghiên cứu khác về
mảnh ghép trước cân.
Tác giả (n) Theo dõi Tái phát
Lawson-Smith (n =34)
(17)
12 năm 2,9%
Mahmoud Uslu (n =232)
(20)
10 năm 2,1%
Thomas Anthony (n = 29)
(28)
4 năm 29%
Andersen (n = 56)
(2) 12 năm 14,3%
Israelsson (n = 171)
(13)
2 năm 19,3%
Licheri (n = 64)
(19)
10 năm 3,1%
Chúng tôi (n=88) 1-5 năm 2,4%
Chúng tôi nhận xét rằng thành bụng đã qua
một vài lần khâu nên các cấu trúc giải phẫu bị
thay đổi nhiều. Các lá cân, cơ bị rách và bị toác ra
xa dẫn đến hậu quả lỗ khuyết cân thành bụng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 133
khá to. Vị trí tái phát trên vết mổ cũ có thể ở cực
trên, cực dưới hoặc ở trung tâm đường mổ.
Nghiên cứu của Flum(11) (10.822 BN) cho thấy: (1)
Thoát vị tái phát không chỉ giới hạn trong 2 – 5
năm đầu sau mổ mà nó tiếp diễn theo thời gian;
(2) sau mỗi lần mổ lại thì tỉ lệ tái phát cao hơn; (3)
sử dụng mảnh ghép đã làm giảm tái phát sau
mổ; (4) tỉ lệ tái phát không hề thay đổi trong thời
gian qua mặc dù nhiều kỹ thuật và vật liệu mới
được áp dụng.
Các tác giả Thụy Điển(13) tổng kết 290 TVVM
với thời gian theo dõi 2 năm đã cho thấy tỉ lệ tái
phát tăng cao ở nhóm lỗ thoát vị có kích thước
trên 3cm. Trong khi đó bệnh viện Shouldice(29)
dựa trên phân tích đơn biến cho thấy những yếu
tố liên quan đến tái phát là kích thước lỗ thoát vị
> 6 cm có biến chứng đường tiêu hóa và nhiễm
trùng. Xu hướng của phẫu thuật viên chọn đặt
mảnh ghép đối với bệnh nhân có BMI trên 30 vì
nhận thấy thoát vị tái phát xảy ra ở nhóm bệnh
nhân có BMI trên 30 (p = 0,03)(24,28,29). Thomas
Anthony (n = 77) khi so sánh 2 nhóm khâu và
mảnh ghép cho thấy, tỉ lệ tái phát sau thời gian
theo dõi trung bình 45 tháng là 54% của nhóm
khâu và 29% của nhóm mảnh ghép (p < 0,05).
Riêng ở nhóm mảnh ghép, tỉ lệ tái phát cao có ý
nghĩa ở nhóm bệnh nhân vượt trên 120% cân
nặng lý tưởng và chỉ số BMI > 30 so với nhóm có
cân nặng lý tưởng(16,29).
Không để xảy ra căng thành bụng là cách
chủ yếu để phòng ngừa TVVM tái phát(1). Trong
trường hợp tái phát TVVM đường giữa sau đặt
mảnh ghép, tỉ lệ tái phát từ 1% đến 23% với thời
gian theo dõi trung bình 1,7 năm đến 6,7 năm.
Khi phẫu tích bộc lộ thành bụng để đặt mảnh
ghép, phẫu thuật viên dễ bỏ sót ở hai cực của
đường mổ khiến mảnh ghép không phủ đủ. Tại
vị trí mũi ức, nơi hai cân-cơ thẳng bám vào các
sụn sườn, mảnh ghép khó che phủ và khó cố
định chắc chắn nên có thể thoát vị phát triển ra
trước mảnh ghép. Hoặc một dạng đặc biệt nữa là
thoát vị tại trung tâm mảnh ghép khi lỗ khuyết
cân không được khâu kín(26).
Có thể nói J.P. Chevrel là người tiên phong
và nhiều kinh nghiệm nhất về phương pháp đặt
mảnh ghép trước cân. Từ năm 1980 đến 1996, tác
giả này có 389 trường hợp TTVM với các biến
chứng lần lượt là nhiễm trùng 2,27%, tụ thanh
dịch 5,45%, tụ máu 1,8%, và hoại tử da 0,9%.
Trên 153 trường hợp khâu thành bụng không
mảnh ghép tỉ lệ tái phát là 18,3%, trong khi 236
trường hợp đặt mảnh ghép trước cân có tỉ lệ tái
phát là 5,5%(7,8,21).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 88 bệnh nhân TVVM
trong vòng 6 năm (2011 – 2016). Chúng tôi rút ra
một số kết luận như sau:
Tỉ lệ biến chứng thành bụng của phẫu thuật
đặt mảnh ghép là 13,6%. Trong đó biến chứng tụ
dịch chiếm tỉ lệ cao nhất (8%), kế đến là biến
chứng chảy máu, nhiễm trùng, và hoại tử da
(2,3% cho mỗi loại). Phương pháp đặt mảnh
ghép không có biến chứng nặng, không có tử
vong và không có trường hợp nào phải lấy bỏ
mảnh ghép vì nhiễm trùng.
Tỉ lệ tái phát của phương pháp điều trị
TVVM bằng phẫu thuật đặt mảnh ghép là 2,4%
(sau 1-5 năm). Hai yếu tố chiều dài lỗ thoát vị >
10cm và tiền căn bị thoát vị vết mổ thành bụng
tái phát có ảnh hưởng đến tỉ lệ tái phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anastasios KK. (2000). Repair of McBurney Incisional Hernias
After Open appendectomy", The Association of Program
Directors in Surgery, 7: 79-80.
2. Andersen LPH. (2009). Long-term recurrence and
complication rates after incisional hernia repair with the open
onlay technique. BMC Surgery, 9: 1-5.
3. Campanelli G (2004). Prosthetic repair, intestinal resection,
and potentially contaminated areas: Safe and feasible?. Hernia,
8: 190-192.
4. Campanelli G (2000). Surgical treatment of incisional hernias
with marked loss of substance. Hernia, 4: 202-205.
5. Carlson M.A., Condon R.E. (1995). Ventral hernia and other
complication of 1000 midline laparotomies. South Med J, 88:
450 - 453.
6. Chan G. (2005). A review of incisional hernia repairs:
preoperative weight loss and selective use of the mesh repair.
Hernia, 9: 37-41.
7. Chevrel J.P. (1990). Les éventrations de la paroi abdominale, pp:
13-22.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 134
8. Claudio M. Birolini (2000). Elective Colonic Operation and
Prosthetic Repair of Incisional Hernia: Does Contamination
Contraindicate AbdominalWall Prosthesis Use?. The American
Journal of Surgery, 191: 366-372.
9. Dan S.I. (2008). Open repair of ventral Inusiond Hernias. Surg
Clin N.am,88: 61-83
10. Deysine M. (1998). Ventral herniorrhaphy: treatment
evolution in a hernia service.Hernia, 2: 15-18.
11. Flum D.R., Horvath K., Koeprell T. (2003). Have outcomes of
incisional hernia repair improved with time? A population-
based analysis. Ann Surg, 237 (1): 129-135.
12. Gilbert A.I. (1997). Infected grafts of incisional hernioplasties.
Hernia, 1: 77-81.
13. Israelsson L.A., Montgomery P., Nordin L.S. (2006). Incisional
hernia repair in Sweden 2002. Hernia. 10(3):258-61.
14. Kelly R., Finan C., Catarina I., (2005). Predictors of wound
infection in ventral hernia repair. The American Journal of
Surgery, 190; 676-681.
15. Klinge U. (2005). Incisional Hernia: Open Techniques. World
journal of Surgery, 29: 1066-1072.
16. Langer C. (2005). Prognosis factors in incisional hernia
surgery: 25 years of experience.Hernia, 9: 16-21
17. Lawson-Smith M.J. (2006). Combined fascia and mesh repair
of incisional hernias.Hernia. 10(3):262-5.
18. Lechaux J.P., Lechaux D., Chevrel J.P. (2004). Traitement des
éventrations de la paroi Abdominale..EMC-Chirurgie, pp: 601 -
619
19. Licheri S.E., Pisano A., Garau E., Ghinami M.P. (2008). Chevrel
technique for midline incisional hernia: still an effective
procedure.Hernia, 12: 121-126.
20. Mahmoud U., Cakmak U., Sozener L.S., Turkcapar G.,
Kuterdem E. (2006). Incisional hernia treatment with
polypropylene graft: results of 10 years. Hernia. Volume
10, Issue 5, pp 380–384.
21. Ohana G., Miller A., (2006). Treatment of large incisional
abdominal wall hernias, using a modified preperitoneal
prosthetic mesh repair. Hernia. 10(3):232-5.
22. Pena C.G. (2003). Primary closure of laparotomies with high
risk of incisional hernia using prosthetic material: analysis of
usefulness.Hernia, 7: 134-136.
23. Reilingh T.V. (2004). Repair of large midline incisional hernias
with polypropylene mesh: Comparison of three operative
techniques. Hernia, 8: 56–59.
24. Sauerland S. (2004). Obesity is a risk factor for recurrence after
incisional hernia repair. Hernia, 8: 42-46.
25. Sauerland S. (2005). Primary incisional hernia repair with or
without polypropylene mesh: a report on 384 patients with 5-
year followup. Langenbeck’s Arch Surg, 390: 408 – 412.
26. Schumpelick V.U., Rosch R., Conze J., Junge K. (2007). How to
Treat the Recurrent Incisional Hernia: Open Repair in the
Midline. Recurrent Hernia Prevention and Treatment, pp: 191-197
27. Stone H.H. (1981). Management of Acute Full-thickness
Losses of the Abdominal Wall. Annals of Surgery, 193 (5): 121-
129.
28. Thomas A. (2000). Factors Affecting Recurrence following
Incisional Herniorrhaphy. World journal of surgery, 24: 95-101.
29. Vidovic D. (2006). Factors affecting recurrence after incisional
hernia repair. Hernia, 10: 322–325.
30. Yuri W.N. (2007). Comparative evaluation of adhesion
formation, strength of ingrowth, and textile properties of
prothestic meshes after long-term intra-abdominal
implanation in a rabbit. Journal of Surgical Research, 140: 6-11.
Ngày nhận bài báo: 10/10/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_dieu_tri_thoat_vi_vet_mo_thanh_bung_bang_ma.pdf