Tài liệu Đánh giá kết quả điều trị gãy lún nhiều mảnh đồi gót bằng nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 201
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY LÚN NHIỀU MẢNH ĐỒI GÓT
BẰNG NẮN KÍN VÀ XUYÊN ĐINH DƯỚI MÀN TĂNG SÁNG
Trương Trí Hữu*, Võ Phước Minh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gãy lún đồi gót phạm khớp dưới sên di lệch là loại gãy xương hay gặp. Loại gãy này nếu không
điều trị sẽ dẫn đến thoái hóa khớp dưới sên làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế người bệnh. Mổ mở kết hợp
xương sử dụng đường mổ ngoài kinh điển thường gây tổn thương phần mềm nặng khó lành vết thương. Nghiên
cứu này chúng tôi chọn phương pháp phẫu thuật nắn kín và cố định nhiều kim K Wire dưới C Arm.
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết quả lâm sàng nắn kín và xuyên kim dưới C Arm gãy phạm đồi gót.
Phương pháp nghiên cứu tiền cứu mô tả cắt dọc trên 46 bệnh nhân gãy lún nhiều mảnh đồi gót, với tổng
số 51 xương gót được phẫu thuật nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng tại bệnh viện Chấn thương Chỉnh
hình TP HCM từ 01/01/2017 đến 0...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 130 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả điều trị gãy lún nhiều mảnh đồi gót bằng nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 201
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY LÚN NHIỀU MẢNH ĐỒI GĨT
BẰNG NẮN KÍN VÀ XUYÊN ĐINH DƯỚI MÀN TĂNG SÁNG
Trương Trí Hữu*, Võ Phước Minh**
TĨM TẮT
Đặt vấn đề: Gãy lún đồi gĩt phạm khớp dưới sên di lệch là loại gãy xương hay gặp. Loại gãy này nếu khơng
điều trị sẽ dẫn đến thối hĩa khớp dưới sên làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế người bệnh. Mổ mở kết hợp
xương sử dụng đường mổ ngồi kinh điển thường gây tổn thương phần mềm nặng khĩ lành vết thương. Nghiên
cứu này chúng tơi chọn phương pháp phẫu thuật nắn kín và cố định nhiều kim K Wire dưới C Arm.
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết quả lâm sàng nắn kín và xuyên kim dưới C Arm gãy phạm đồi gĩt.
Phương pháp nghiên cứu tiền cứu mơ tả cắt dọc trên 46 bệnh nhân gãy lún nhiều mảnh đồi gĩt, với tổng
số 51 xương gĩt được phẫu thuật nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng tại bệnh viện Chấn thương Chỉnh
hình TP HCM từ 01/01/2017 đến 01/08/2018. Sau mổ bệnh nhân được hướng dẫn tập luyện tại phịng. Tập
khớp cổ chân và khớp bàn chân trước tập sau mổ 6 tuần. bệnh nhân được đánh giá bằng X quang xương gĩt để
đo gĩc Bưhler và Gissane.
Tất cả các bệnh nhân đều tái khám theo dõi, đánh giá chức năng lâm sàng của bàn chân bằng thang điểm
Rowe, đánh giá chức năng chung bằng bảng đánh giá của Hall và Pennal. Số liệu được xử lý và phân tích với
phần mềm SPSS 18.0.
Kết quả: Từ ngày 01/01/2017 đến 01/08/2018 chúng tơi tiến hành theo dõi và điều trị 46 bệnh nhân gãy lún
nhiều mảnh đồi gĩt với tổng cộng 51 xương gĩt được phẫu thuật. Tuổi trung bình 42 (tuổi trung bình là 42).
Thời gian theo dõi trung bình 12 tháng. Gĩc Boehler sau mổ trung bình 30º. Gĩc Gissane trung bình sau mổ 120
º Chức năng lâm sàng bàn chân theo thang điểm Rowe 90 % đạt khá- xuất sắc, 5,9% trung bình và 3,9% kém.
Tất cả 100% trường họp đều lành xương với thời gian lành trung bình 13 tuần.
Kết luận: nắn kín và xuên kim cố định gãy lún đồi gĩt dưới màn tăng sáng cho kết quả hồi phục tốt ít biến
chứng và tốt hơn cho loại gãy lún hình lưỡi.
Từ khĩa: Gãy lún đồi gĩt.
ABSTRACT
EVALUATION OF RESULTS IN CLOSED REDUCTION AND PERCUTANEOUS K WIRE PINNING
OF DEPRESSED CALCANEAL FRACTURES WITH FLUOROSCOPY
Truong Tri Huu, Vo Phuoc Minh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 201-208
Background: Depressed intraarticular calcaneal fractures is the most frequently. These fractures without
treatment frequently result in subtalar osteoarthritis with potentially severe economic impact on the patient.
Open reduction for osteosynthesis using an extensile lateral approach has traditionally been used to treat
displaced intra-articular calcaneal fractures, and the surgery is generally delayed until soft tissue swelling has
subsided. In this study, we choose the method of closed reduction and percutaneous K wire pinning of displaced
calcaneal fractures with fluoroscopy.
Objectives: To investigate the clinical outcome of closed reduction and percutaneous K wire pinning of
displaced intraarticular calcaneal fractures with fluoroscopy.
*BV Chấn Thương Chỉnh Hình **BV An Bình
Tác giả liên lạc: TS Trương Trí Hữu. ĐT 0918591576. Email: truongtrihuu08@gamail.com.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 202
Methods: A prospective review of 46 patients with 51 calcaneal fractures who had percutaneous reduction
and multiple pinning fixation for displaced intraarticular fracture of calcaneus with fluoroscopy was done. This
researsh was in HTO, HCM City from 01/01/2017 to 01/08/2018. During this post-op period, the patients were
educated on how to perform bed exercises for joints above the surgical site, including muscle strengthening and
body conditioning. Active range of motion exercises for the ankle and forefoot began 6 weeks postoperatively. All
patients were followed up regularly The patients were assessed with plain calcaneus radiography to measure
Bưhler’s angle and Gissane ’s angle of the calcaneus. The results were assessed using Rowe score and Bưhler’s
angle of the calcaneus. Functional assessment involved the use of Rowe scoring system and Hall và Pennal foot
scoring. statistical analysis was SPSS 18.0 Version.
Results: we operated 46 cases incuding 51 displaced intraarticular calcaneal fractures from 01/01/2017 to
01/08/2018. The frequent age of the patients ranged from 30 to 49 years (mean: 42 years). The mean time of
follow- up was 12 months. The posoperative radiography to measure Bưhler’s angle was 30º and Gissane ’s angle
of the calcaneus was 120º. The Rowe foot score was 90% of patients achieving fair to excellent 90.2 %, average
5.9% and fair 3.9%. the rate of bone union was 100% and the time to union averaged 13 weeks
Conclusion: Closed reduction and percutaneous fixation of intraarticular fracture of calcaneus with
fluoroscopy offers the prospect of fewer complications and better outcome especially in tongue-type fracture
Keyword: Depressed intraarticular calcaneal fractures.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy xương gĩt là loại gãy xương hay gặp ở
độ tuổi lao động (khoảng 90% xảy ra ở độ tuổi
21-49)(1). So với các bệnh lý gãy xương khác, gãy
xương gĩt chiếm khoảng 2% trong tất cả các
bệnh lý gãy xương khác ở người trưởng thành,
và chiếm khoảng 26% trong gãy xương chi dưới,
nhưng chiếm 60% các gãy xương vùng cổ bàn
chân(7). Gãy xương gĩt phạm khớp chiếm 60 –
75%, trong đĩ khớp dưới sên là nơi chịu lực và
truyền lực chính của xương gĩt nếu khơng được
phục hồi giải phẫu tốt sẽ gây ra thối hĩa khớp
kèm các rối loạn tĩnh và động của tồn bộ bàn
chân, làm giảm khả năng chịu lực và đi đứng
hạn chế(6). Chính vì vậy, làm giảm nghiêm trọng
chất lượng cuộc sống và tăng gánh nặng kinh tế
cho gia đình và xã hội. Baron(2) cảnh báo gãy
xương gĩt là một tổn thương nặng và tàn tật,
tiên lượng xấu.
Hiện nay, cĩ nhiều phương pháp phẫu thuật
điều trị gãy xương gĩt phạm khớp: nâng đồi gĩt
theo phương pháp Essex-Lopresti bằng đinh
Steinman(3) dưới màn tăng sáng, kết hợp xương
(KHX) bên trong bằng đường mổ rộng bên ngồi
hay KHX bằng nẹp vít khĩa ít xâm lấn(11), các
phương pháp phẫu thuật này khác nhau ở cách
tiếp cận xương gĩt, vật liệu sử dụng KHX ổ gãy,
vật liệu cấy ghép.Tuy nhiên, tranh cải vẩn tồn tại
liên quan đến việc phân loại, điều trị, quản lý
sau mổ cũng như dụng cụ để KHX cho loại gãy
này(9). Do đĩ, điều trị gãy xương gĩt vẫn là một
thách thức đối với phẫu thuật viên chấn thương
chỉnh hình
Năm 1952 Essex-Lopresti(3) đưa ra phương
pháp nắn kín qua da bằng đinh Steinman dưới
màn tăng sáng và tăng cường bột cẳng bàn chân.
Ưu điểm của phương pháp này là kỹ thuật đơn
giản, thời gian phẫu thuật nhanh, hạn chế được
nhiễm trùng hoại tử mép da. Tuy nhiên, nĩ chỉ
thích hợp với các loại gãy phạm khớp dưới sên
cĩ dạng gãy hình lưỡi.
Gần dây phẫu thuật mở KHX bên trong cho
những trường hợp gãy lún phạm khớp xương
gĩt được thực hiện khá rộng rãi. Với lợi thế kiểm
sốt tốt ổ gãy, thao tác nắn chỉnh mặt khớp dễ
dàng và chính xác cùng với việc ghép thêm
xương xốp đã cải thiện rõ rệt việc phục hồi lại
giải phẫu cho xương gĩt. Tuy nhiên, bên cạnh đĩ
phương pháp này cũng để lại nhiều vấn đề đáng
phải quan tâm. Đĩ là tỷ lệ nhiễm trùng và hoại
tử mép da sau mổ khá cao 16-25%(5), do đặc
điểm giải phẫu vùng này rất ít phần mềm che
phủ xương. Kỹ thuật mổ phức tạp địi hỏi phẫu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 203
thuật viên phải cĩ kinh nghiệm, trang thiết bị hỗ
trợ phải đồng bộ, chi phí cho cuộc mổ cao,
khơng phải cơ sở y tế nào cũng thực hiện được.
Từ những thực tế trên, đề tài “Đánh giá kết
quả điều trị gãy lún nhiều mảnh đồi gĩt bằng
nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng”
được chúng tơi thực hiện dựa trên nguyên lý của
kỹ thuật Essex-Lopresti. Với ưu điểm kỹ thuật
đơn giản, cĩ thể nắn chỉnh tốt để phục hồi các
đường gãy phạm khớp dưới sên, cố định các
mảnh gãy bằng nhiều đinh nhỏ chống di lệch
thư phát sau nắn chỉnh và hạn chế được tỷ lệ
nhiễm trùng, hoại tử mép da do mổ mở gây ra.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả lâm sàng và phục hồi giải
phẫu của xương gĩt trên phim x-quang.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân được chẩn đốn gãy lún
nhiều mảnh xương gĩt, dựa trên lâm sàng và X-
quang, CT Scan nếu cĩ.
Bệnh nhân khơng cĩ chống chỉ định
phẫu thuật.
Bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên, xương đã
trưởng thành khơng bệnh lý
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân cĩ bệnh lý về thần kinh: liệt chi
dưới, rỗng tủy, bệnh phong.
Bệnh gãy xương hở.
Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu.
Nơi thực hiện
Khoa Cấp cứu và khoa Chi dưới bệnh viện
Chấn thương chỉnh hình – TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tiền cứu mơ tả cắt
dọc trên 46 bệnh nhân gãy lún nhiều mảnh đồi
gĩt, với tổng số 51 xương gĩt được phẫu thuật
nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng tại
bệnh viện chấn thương chỉnh hình từ 01/01/2017
đến 01/08/2018. Lập hồ sơ bệnh án theo dõi cho
từng bệnh nhân, đánh giá chức năng lâm sàng
của bàn chân bằng thang điểm Rowe(11), đánh giá
chức năng chung bằng bảng đánh giá của Hall
và Pennal(4), đo đạt chỉ số gĩc Boehler, gĩc
Gissane trước và sau mổ đánh giá hình thái giải
phẫu của xương gĩt. Chụp X quang bàn chân tư
thế nghiêng và Harris đánh giá sự lành xương.
Số liệu được xử lý và phân tích với phần
mềm SPSS 18.0.
Kỹ thuật mổ
Dụng cụ cần cĩ
Đinh kirschner từ 2.4 – 3.0, khoan pin, kiềm
cắt đinh, màn tăng sang.
Phương pháp vơ cảm
Tê tủy sống.
Tư thế bệnh nhân
Bệnh nhân được đặc nằm trên bàn mổ với tư
thế nằm nghiêng 90o về bên chân lành hoặc nằm
ngữa. Đặc ga-rơ gốc chi.
Kiểm tra đánh giá các đường gãy bằng màn
tăng sáng, đo đạc các gĩc Boehler, gĩc Gissane(8).
Nắn ép hai bên xương gĩt để nắn chỉnh hình
thái xương gĩt và thao tác được thực hiện liên
tục trong suốt quá trình nâng đồi gĩt. Xuyên 1
đinh vào xương gĩt ngay sau lồi củ gĩt hướng
về phía xương hộp nhưng khơng vướt qua
đường gãy làm địn bẩy, tiến hành nắn chỉnh các
di lệch. Kiểm tra dưới màn tăng sáng với các
bình diện nghiêng, tư thế chụp Harris và
Broden(2,10) đến khi thấy gĩc Boehler đạt từ 20 –
40o, chiều cao và độ bè xương gĩt phục hồi càng
nhiều càng tốt, tiến hành xuyên đinh vào xương
hộp sau khi mặt khớp dưới sên được phục hồi.
Một đinh thứ 2 được xuyên vào ở vị trí thấp hơn
đinh thứ nhất theo hướng song song trục xương
gĩt vào xương hộp để hỗ trợ cố định ổ gãy. Nếu
cần thiết cĩ thể xuyên thêm đinh thứ 3, thứ 4 để
cố định các mảnh gãy.
Sau phẫu thuật, chân được bĩ bột cẳng bàn
chân ngay tại phịng mổ, đợi bột khơ tiến hành
cắt sát chân đinh. Chụp x-quang kiểm tra hai
bình diện nghiêng và Harris. Sau mổ bệnh nhân
được tư vấn đi bằng 2 nạng khơng chạm chân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 204
đau, tái khám sau 2 tuần sau mổ, 04 tuần ở lần
tiếp theo và sau mỗi 06 tuần. Bỏ bột và rút đinh
sau 10 -12 tuần sau đĩ bắt đầu tập đi nạng chịu
lực chân đau tăng dần.
KẾT QUẢ
Chúng tơi đã theo dõi và điều trị 46 bệnh
nhân (40 nam và 6 nữ) với tuổi trung bình là
41,59 tuổi, tập trung nhiều ở lứa tuổi 30 -49 tuổi
(65,2%). Nguyên nhân của tai nạn chủ yếu là do
té cao 41 ca (89,1% các trường hợp) và 5 ca
(10,9% các trường hợp) bị tai nạn lưu thơng.
13/46 ca (28,3%) gãy xương gĩt 2 bên và 7/46 ca
(15,2%) cĩ các tổn thương phối hợp khác như
gãy cột sống, gãy xương chi dưới... Trong 13 ca
bị gãy xương gĩt 2 bên cĩ 5 ca phải phẫu thuật
cả hai chân nên tổng số xương gĩt phẫu thuật là
51 ca. 100% các ca đều đạt lành xương sau 3 – 6
tháng, trung bình 3,75 tháng. Gĩc Boehler trước
mổ tất cả các trường hợp đều cĩ số đo ≤ 0o, sau
mổ gĩc Boehler trung bình 30,80 (Bảng 1).
Bảng 1. Sự hồi phục gĩc Boehler sau mổ
Gĩc Boehler Trước mổ Sau mổ
Số lượng 51 51
Nhỏ nhất <0 10
Lớn nhất 0 40
Trung bình 0 30,80 ± 6,81
Trung vị 0 30
Cĩ 30 ca (58,8%) trong số 51 xương gĩt trong
lơ nghiên cứu khơng đau khi đi bộ liên tục tại
thời điểm đánh giá lại lần cuối. 14 ca (27,5%) đau
nhẹ khi chạy nhảy, 5 ca (9,8%) đau khi đi lại làm
việc nhẹ và 2 ca (3,9%) đau khi làm nặng. 48 ca
(94,2%) cĩ biên độ vận động khớp cổ chân bằng
với chân khơng lành. 2 ca (3,92%) cĩ dáng đi
khập khiểng. 48/15 ca (94,12%) cĩ hoạt động
bình thường và 5 ca (5,98%) bị hạn chế cơng việc
trong đĩ cĩ 2 ca (3,92%) phải thay đổi cơng việc.
Bảng 2: Đánh giá chức năng bàn chân theo Rowe(11)
Mức độ Số ca Tỷ lệ (%)
Xuất sắc 37 72,6
Khá 9 17,6
Trung bình 3 5,9
Kém 2 3,9
Tổng cộng 51 100
Tỷ lệ khá và xuất sắc là 90,2%, trung bình
5,9%, cĩ 2 trường hợp (3,9%) kém bị nhân đau
khi đi lại và cần thay đổi cơng việc (Bảng 2).
Đánh giá kết quả chung theo tiêu chuẩn Hall
và Pennal(4) (Bảng 3), với số ca tốt và khá 89,1%,
trung bình và xấu 10,8%.
Bảng 3: Kết quả chung theo tiêu chuẩn Hall và
Pennal(4)
Kết quả Số ca Tỷ lệ (%)
Tốt 34 73,9
Khá 7 15,2
Trung bình 3 6,5
Xấu 2 4,3
Tổng số 46 100
Các biến chứng
Trong số 51 trường họp được phẫu thuật.
Trong đĩ cĩ 9 ca (17,6%) lành xương mà khơng
cĩ bất kỳ biến chứng nào. 42/51 ca (82,4%) cĩ
biểu hiệu của rối loạn dinh dưỡng da với da khơ,
nhăn nheo, bàn chân nhỏ hơn bên lành, tê nhẹ.
Đây cũng là biến chứng thường gặp nhất của
việc bĩ bột. Cĩ 2/51 ca (3,9%) nhiễm trùng chân
đinh được điều trị kháng sinh cắt lọc lành hẳn
sau 2 tuần khơng để lại di chứng.
Cĩ 2 trường họp bị lún lại đồi gĩt sau khi
theo dõi, 3 trường họp (6,5%) phải thay đổi nghề
nghiệp sau điều trị.
BÀN LUẬN
Hầu hết gãy xương gĩt là một chấn thương
năng lượng cao đi kèm với các tổn thương đi
kèm cũng như mức độ tổn thương mơ mềm
vùng gĩt chân khác nhau. Thời gian gần đây
phẫu thuật mở kết hợp xương bên trong đã
được sử dụng rộng rãi trong điều trị gãy lún
đồi gĩt nhằm phục hồi cấu trúc giải phẫu
xương gĩt, tuy nhiên phẫu thuật thường phải
trì hỗn cho đến khi mơ mềm bớt sưng nề
(thường 7 - 14 ngày)(5). Các biến chứng liên
quan đến mổ mở là các biến chứng liên quan
đến vết thương, mặc dù cĩ nhiều kỹ thuật
phẫu thuật tiên tiến, thiết kế tiện lợi cùng với
các tiến bộ của vật liệu cấy ghép xương, nhưng
tỷ lệ biến chứng vết mổ vẫn cịn cao. Theo
Myerson tỉ lệ biến chứng vết thương dao động
từ 16-25%(8). Essex- Lopresti(3) giới thiệu kỹ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 205
thuật nắn kín, xuyên đinh qua da dưới màn
tăng sáng vài thập kỷ trước, nhằm hạn chế các
biến chứng của việc mổ mở và đã đạt được
một số thành cơng nhất định. Được chứng
minh bằng nhiều cơng trình nghiên cứu của
các tác giả trong và ngồi nước. Tuy nhiên các
chỉ định của thủ thuật này chỉ giới hạn ở loại
gãy hình lưỡi, theo phân loại Sander(12) loại IIC
hoặc ở những bệnh nhân khơng cĩ khả năng
phẫu thuật.
Kỹ thuật điều trị gãy lún nhiều mảnh đồi gĩt
bằng nắn kín và cố định với đinh dưới màn tăng
sáng là một phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, được
cải biên từ kỹ thuật Essex- Lopresti đã được
nhiều tác giả trên thế giới sử dụng rộng rãi và
chứng minh về những lợi ích của kỹ thuật này
như giảm tỷ lệ biến chứng vết thương, phục hồi
hình thái giải phẫu xương gĩt, cải thiện chức
năng bàn chân.
Gĩc Boehler sau mổ
Trong 51 xương gĩt được mổ nâng đồi gĩt
kín dưới màng tăng sáng trong luận văn các ca
đều cĩ số đo gĩc Boehler ≤ 0o, gĩc Boehler sau
mổ được cải thiện từ 20o – 40o, cĩ 3 trường hợp
gĩc Boehler <10o. Trung bình gĩc Boehler sau mổ
là 30,8o.
Phục hồi hình lại giải phẫu xương gĩt là cần
thiết cho chức năng của bàn chân sau và mắc cá
chân. Sanders(11) báo cáo 82 bệnh nhân được theo
dõi (8-12 năm) sau phẫu thuật để so sánh với
phương pháp điều trị khơng phẫu thuật của gãy
xương gĩt phạm khớp, cho thấy cĩ sự khác biệt
giữa nhĩm phẫu thuật phục hồi giải phẫu xương
gĩt với nhĩm khơng phẫu thuật về triệu chứng
đau, chức năng bàn chân và giảm tỷ lệ thối hĩa
khớp sau chấn thương. Một khi hình thái giải
phẫu của xương gĩt phục hồi kém và thối hĩa
khớp sau chấn thương (thối hĩa khớp dưới sên)
tiến triển sẽ làm giảm chức năng bàn chân và cần
phải được điều trị thêm.
Sự tương quan giữa gĩc Boehler và diễn biến
lâm sàng trong gãy xương gĩt phạm khớp đã
được chứng minh. Hay nĩi cách khác, việc phục
hồi hình thái giải phẫu của bàn chân sau sẽ cho
kết quả lâm sàng tốt hơn.
Sự lún trở lại đồi gĩt
Do xương gĩt là một xương xốp, khi bị gãy
nhiều mảnh và lún đồi gĩt thì xương bị nát và
mất xương nhiều vì vậy làm cho xương gĩt trở
nên rỗng bên trong. Việc nắn kín xuyên đinh
qua phần vỏ xương cứng cĩ thể nâng được mặt
khớp, tuy nhiên rất dễ bị lún trở lại khi chân chịu
lực quá sớm do bệnh nhân chống chân đau sớm
hoặc do chưa đạt được độ lành xương vững
chắc, hay do kết hợp xương chưa đủ vững chắc,
một số trường hợp phẫu thuật viên xuyên đinh
cố định khơng qua khớp gĩt hộp, về nguyên tắc
kết hợp xương như vậy khơng vững đây cũng cĩ
thể xem như 1 nguyên nhân lún lại đồi gĩt.
Trong lơ nghiên cứu cĩ 2/52 ca (3,92%) bệnh
nhân bị lún trở lại đồi gĩt sau thời gian theo dõi
12 tháng. Trong 2 trường hợp này 1 ca do xương
gĩt gãy nát sau mổ nâng gĩc Boehler lên được
30o, sau đĩ bị lún lại. Trường hợp cịn lại bệnh
nhân trẻ tuổi, bị gãy cả hai gĩt, sau mổ gĩc
Boehler 2 bên 30o, bĩ bột cả 2 chân khi xuất viện
về bệnh nhân chống chân đi sớm, nên lún lại đồi
gĩt bên P. cả hai trường hợp lún lại đồi gĩt đều
khơng cĩ giới hạn về chức năng cổ chân.
Qua đây cho thấy sự hợp tác của bệnh nhân
cũng đĩng vai trị rất quan trọng, ảnh hưởng
đến kết quả điều trị nhất là đối với phẫu thuật
nắn kín nâng đồi gĩt dưới màn tăng sáng.
Thời gian lành xương
Xương gĩt là một xương xốp, dễ lành xương.
Tỷ lệ khơng lành xương ở xương gĩt rất thấp,
theo Mann(6) tỷ lệ khơng lành xương ở xương gĩt
khơng đáng kể do vùng này là xương xốp. Cĩ
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng lành
xương: bệnh lý tiểu đường, hút thuốc lá, nhiễm
trùng sau mổ. Trong nghiên cứu này thời gian
lành xương sớm nhất là 3 tháng, trễ nhất là 6
tháng. Thời gian trung bình là 3,75 tháng tháng,
tỷ lệ lành xương đạt 100%. Việc đánh giá sự lành
xương chủ yếu dựa vào các yếu tố: triệu chứng
lâm sàng và hình ảnh can xương trên phim X
quang. Một bệnh nhân được đánh giá lành
xương khi trên lâm sàng bệnh nhân chống chân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 206
đi khơng đau và trên phim X-quang can xương
xĩa mờ các đường gãy.
Vai trị của ghép xương trong điều trị gãy
xương gĩt
Với cấu tạo và giải phẫu của xương gĩt khi
bị gãy do chấn thương với lực dồn nén sẽ cĩ mất
xương sau chấn thương. Sự khuyết hổng xương
sẽ rõ ràng hơn khi tiến hành nâng mặt khớp bị
lún. Việc lấp đầy khoảng trống xương sau khi
nâng mặt khớp gĩp phần hỗ trợ thêm về mặt cơ
học cũng như kích thích sự lành xương nhanh
hơn. Mặc dù việc sử dụng kỹ thuật nâng đồi gĩt
kín và cố định bằng đinh dưới màn tăng sáng để
điều tri gãy xương gĩt cĩ nguy cơ lành xương
khơng đầy đủ và đặc biệt là tái tạo mặt khớp
khơng tốt bằng mổ mở kết hợp xương bên trong
kèm ghép xốp, tuy nhiên chúng tơi cũng đã đạt
được giải phẫu của xương gĩt một cách tương
đối (gĩc Boehler trung bình sau mổ 300, lành
xương đạt 100%) mà khơng sử dụng bất kỳ một
loại mảnh ghép nào( xương tự thân hay chất
thay thế xương). Theo Menon(7) xương gĩt cĩ
mạch máu nuơi phong phú và nhanh lành
xương với việc tái tạo hủy cốt bào trong vịng 4 –
8 tuần sau phẫu thuật. Trên thực tế việc ghép
xương tự thân đã khơng được chứng minh là cĩ
lợi hơn về mặt hình thái và chức năng.
Tác giả Mann(6) mơ tả kỹ thuật điều trị gãy
xương gĩt bằng phẫu thuật xâm lấn tối thiểu
kèm tăng cường chất thay thế xương hoặc xi
măng sinh học qua da và đã chứng minh kết
quả lâm sàng tốt. Tuy nhiên, việc sử dụng các
chất thay thế xương sẽ làm tăng nguy cơ
nhiễm trùng.
Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật trung bình 25 phút,
đây là thời gian phẫu thuật ít hơn đáng kể so
với mổ mở kết hợp xương bên trong của Lâm
Quốc Thanh(5) 68 phút, hay của Rowe(11) 155
phút. Việc rút ngắn thời gian phẫu thuật sẽ
giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm vết mổ cũng
như hạn chế đáng kể những tai biến về gây mê
hồi sức.
Nhiễm trùng chân đinh
Trong lơ nghiên cứu cĩ 2/51 trường hợp
nhiễm trùng chân đinh (3,92%), cĩ dịch mủ chảy
ra theo chân đinh và 1 ca làm lỏng đinh. Cả hai
trường hợp được phát hiện sớm và tiến hành rút
dụng cụ sớm (6 tuần sau mổ), cắt lọc và dùng
kháng sinh sau 02 tuần ổn định và được bĩ bột
tăng cường.
Theo một số cơng trình nghiên cứu trong và
ngồi nước, cĩ những sự khác biệt đáng kể về tỷ
lệ này như tác gả Essex- Lopresti(3) tỷ lệ này là
0%, Trần Đức Vinh(13) với 100 ca nghiên cứu cĩ tỷ
lệ nhiễm trùng chân đinh là 2%
Cĩ sự khác biệt như vậy cĩ lẽ một phần do
lỗi của phẫu thuật viên. Vì phẫu thuật nâng đồi
gĩt kín dưới màn tăng sáng là 1 phẫu thuật ít
xâm lần, nguy cơ nhiễm trùng thấp, nên cơng tác
vơ khuẩn trước, trong và sau cuộc mổ khơng
được phẫu thuật viên quan tâm đúng mức. Đây
là một quan điểm sai lầm dễ dẫn đến nguy cơ
nhiễm trùng chân đinh.
Một nguyên nhân nữa cũng đáng quan tâm
đĩlà ý thức giữ vệ sinh của bệnh nhân. Nhiều
bệnh nhân khơng hề vệ sinh vùng chân đinh
hàng ngày, chống chân đi sớm làm gãy bột,
thấm nước và bẩn. Đây cũng là một nguyên
nhân gây nhiễm trùng đáng phải lưu tâm.
Với các trường hợp nhiễm trùng chân đinh,
cần phải được phát hiện kịp thời, điều trị tích
cực, đặc biệt tốt nhất nên lấy mủ cấy khuẩn làm
kháng sinh đồ để điều trị hiệu quả hơn.
Vì vậy phẫu thuật khi làm phẫu thuật này
cũng phải đảm bảo cơng tác vơ trùng như bao
cuộc mổ khác.
Quay lại cơng việc cũ
Gãy xương gĩt là một tổn thương nghiêm
trọng, để lại nhiều di chứng nặng nề, làm giảm
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, tăng gánh
nặng kinh tế cho gia đình và xã hội nếu việc điều
trị khơng đạt kết quả tốt.
Trong luận văn cĩ 46 ca thì cĩ 3 trường hợp
(chiếm 6,52%) phải thay đổi nghề nghiệp do đau
và khơng chịu được sức nặng, hay do lớn tuổi ở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 207
nhà nội trợ. so với các tác giả khác tỷ lệ này cũng
tương đối phù hợp.
Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ thay đổi cơng
việc trong gãy xương gĩt khá cao, cĩ thể giải
thích tỷ lệ thay đổi cơng việc cao như vậy là vì
bệnh nhân đa phần là ở độ tuổi lao động làm
những cơng việc nặng nhọc như đi dứng nhiều,
leo trèo, mang vát nặng. Trong 3 trường hợp
thay đổi cơng việc của luận văn, đều cĩ tổn
thương nặng nề về giải phẫu của xương gĩt (gãy
lún nhiều mảnh độ 3), trong đĩ cĩ 1 trường hợp
tổn thương gãy cột sống thắt lưng kèm theo, 1
trường hợp bệnh nhân nữ 60 tuổi sau khi điều trị
gãy xương gĩt thì nghĩ làm việc ở nhà nội trợ.
Chính vì vậy, đứng trước 1 bệnh nhân gãy
xương gĩt nặng khi nắn kín phục hồi giải phẫu
chưa tốt, bệnh nhân trẻ tuổi cần cân nhắc mổ mở
để nắn chỉnh đồng thời ghép xương xốp?
Thối hĩa khớp dưới sên
Do thời gian nghiên cứu và theo dõi cịn
ngắn, thời gian theo dõi dài nhất khoảng 16
tháng chưa đủ để kết luận là cĩ hay khơng cĩ
thối hĩa khớp dưới sên sau khi phẫu thuật
nâng đồi gĩt kín dưới màn tăng sáng cố định
bằng đinh. Theo tác giả Essex- Lopresti để đánh
giá thối hĩa khớp dưới sên thì phải sau 6
năm(3), cịn theo Hall(4) thì thời gian này là 10
năm. Cịn theo tác giả Trần Đức Vinh(13) ghi nhận
được 4/70 ca (5,7%) sau 3 năm điều trị gãy
xương gĩt bằng thủ thuật Essex – Lopresti.
Đánh giá kết quả chung
Mục tiêu của việc điều trị gãy xương gĩt
bằng phương pháp nâng đồi gĩt kín và cố đinh
bằng đinh “K” dưới màn tăng sáng là phục hồi
lại giải phẫu, nâng mặt khớp lún, cố định vững
chắc. Do đĩ kết quả đạt được tùy thuộc nhiều
vào việc phục hồi lại các tổn thương giải phẫu
của xương gĩt. Việc đánh giá này chủ yếu dựa
trên theo dõi lâm sàng và hình ảnh học theo
từng giai đoạn bệnh.
Sự hài lịng của bệnh nhân cũng là một tiêu
chí cần thiết để đánh giá điều trị thành cơng hay
thất bại của gãy xương gĩt. Bảng đánh giá phân
loại chung theo Hall và Pennal(4) cĩ 4 mức độ:
Tốt, khá, trung bình và xấu. Chủ yếu dựa vào
mức độ hài lịng và chức năng của cổ chân.
Với thời gian theo dõi từ 12-18 tháng
phương pháp điều trị của chúng tơi cĩ kết quả
tương đương với một số tác tác giả khác trong và
ngồi nước.
Trong kết quả luận văn, tỷ lệ tốt và khá
89,1% cũng tương đương với 1 số tác giả khác
Essex – Lopresti 85%(3), King 82%, Trần Đức
Vinh 81%(13).
Tỷ lệ trung bình – xấu là 10,8%, cũng khơng
chênh lệch nhiều so với một số tác giả trong và
ngồi nước.
Trong số 10,8% (5/46 ca) xấu- trung bình thì
cĩ 2 ca khi mổ nâng gĩc Boehler thất bại, gây
đau khi đi lại và giảm chức năng cổ bàn chân, 3
ca cịn lại cĩ 2 ca do lún lại gĩc Boehler sau mổ, 1
ca gĩc Boehler sau mổ <100, cho thấy cĩ mối liên
quan giữa phục hồi gĩc Boehler với chức năng
lâm sàng. Những ca cĩ gĩc Boehler > 250, thường
cĩ dự hậu lâm sàng và phục hồi chức năng cổ
chân tốt hơn. Với p < 0,05 (paired sample test), cĩ
ý nghĩa thống kê.
KẾT LUẬN
Phương pháp điều trị gãy lún nhiều mảnh
đồi gĩt bằng nắn kín và xuyên đinh dưới màn
tăng sáng là một kỹ thuật đơn giản, dễ thực hiện,
thời gian phẫu thuật nhanh cĩ thể phẫu thuật
ngay sau chấn thương, rút ngắn được thời gian
nội trú của bệnh nhân, làm giảm chi phí điều trị.
Tỷ lệ biến chứng nhiễm trùng khơng đáng kể,
khơng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Phương
pháp này giúp phục hồi hình thái xương gĩt
thơng qua việc cải thiện gĩc Boehler và kết quả
chức năng lâm sàng hồi phục tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bajammal S, Tornetta IP, Sander D et al (2005). “Displaced intra-
articular calcaneal fractures”. J Orthop trauma; 19: pp. 360-4
2. Baron LR, Stragielski FC, Christman AR (2015). “Positioning
Techniques and Terminology” Foot And Ankle Radiology,
2E(4):pp.138-181
3. Essex-Loprest P (1952). “The mechanism, reduction technique,
and results in fractures of the os calcis”. Br J Surg; 39:pp 395-419
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 208
4. Hall MC, and Pennal GF (1960). “Primary subtalar arthrodesis
in the treatment of severe fractures of the calcaneum”, J. Bone
Joint Surg.42B: pp 336-343.
5. Lâm Quốc Thanh (2016). “Đánh giá kết quả điều trị gãy lún
nhiều mảnh xương gĩt bằng phẫu thuật mở KHX nẹp ốc”. Luận
văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa II, ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch
6. Mann RA, Haskell A (2007). “Biomechanic of the Foot and
Ankle”. Surgery of the Foot and Ankle, 1:pp 19-20
7. Menon KV, Suresh SS, (2013). “Clinical anatomy and injury
mechanics” Fracture of Calcaneus, Adobe Acrobat Reader DC, 2,
pp 6-13
8. Myerson M, Quill GE Jr. (1993). Late complication of fracture of
the calcaneus, J Bone Joint Surg [Am], 75-A:pp. 331-341
9. Jones C, Parekh GS (2012). “The basics of foot and ankle”. Foot
and Ankle Surgery, 2:pp 10-12
10. Jone PC, Alastair SE (2007). “Imaging of the Foot and Ankle”.
surgery of the Foot and Ankle,3:pp71-77
11. Rowe CR, Sakellarides H, Freeman P, et al (1963), Fractures of os
calcis: a long term follow-up study of one hundred forty-six
patients. JAMA; 184:920..
12. Sanders R (2000). “Displaced intra-articular fractures of the
calcaneus". J Bone Joint Surg Am; 82A: pp. 225-250.
13. Trần Đức Vinh (2007). “Đánh giá kết quả điều trị gãy lún đồi gĩt
bằng thủ thuật Essex-Lopresti”. Luận văn thạc sỹ Y Khoa, Đại học
Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_dieu_tri_gay_lun_nhieu_manh_doi_got_bang_na.pdf