Tài liệu Đánh giá kết quả của cắt đốt nội soi bằng điện lưỡng cực trong tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 78
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CẮT ĐỐT NỘI SOI BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC
TRONG TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
Trần Lê Linh Phương*, Dương Hoàng Lân**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tính hiệu quả và độ an toàn của kỹ thuật CĐNS bằng điện lưỡng cực trong TSLT-
TTL.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
tiền cứu có kiểm chứng và theo dõi. Chọn tất cả các trường hợp thỏa tiêu chuẩn và được điều trị bằng kỹ
thuật CĐNS bằng điện lưỡng cực tại bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
từ ngày 01/11/2013 đến 31/03/2015.
Kết quả: Các kết quả về cải thiện triệu chứng và niệu động học: điểm IPSS trung bình sau 3 tháng
4,76 ± 1,98 điểm, điểm QoL trung bình sau 3 tháng 1,04 ± 0,55 điểm, lưu lượng dòng tiểu tối đa Qmax
trung bình sau CĐNS 3 tháng là 20,30 ± 4,73 mL/giây. Đánh giá tình trạng đi tiểu sau CĐNS theo
Nguyễn...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả của cắt đốt nội soi bằng điện lưỡng cực trong tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 78
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CẮT ĐỐT NỘI SOI BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC
TRONG TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
Trần Lê Linh Phương*, Dương Hoàng Lân**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tính hiệu quả và độ an toàn của kỹ thuật CĐNS bằng điện lưỡng cực trong TSLT-
TTL.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
tiền cứu có kiểm chứng và theo dõi. Chọn tất cả các trường hợp thỏa tiêu chuẩn và được điều trị bằng kỹ
thuật CĐNS bằng điện lưỡng cực tại bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
từ ngày 01/11/2013 đến 31/03/2015.
Kết quả: Các kết quả về cải thiện triệu chứng và niệu động học: điểm IPSS trung bình sau 3 tháng
4,76 ± 1,98 điểm, điểm QoL trung bình sau 3 tháng 1,04 ± 0,55 điểm, lưu lượng dòng tiểu tối đa Qmax
trung bình sau CĐNS 3 tháng là 20,30 ± 4,73 mL/giây. Đánh giá tình trạng đi tiểu sau CĐNS theo
Nguyễn Bửu Triều, có 94,44% bệnh nhân có kết quả tốt về cải thiện triệu chứng và niệu động học, 5,56 %
cải thiện khá và không có TH nào là cải thiện kém sau CĐNS. Lượng nước tiểu tồn lưu RU trung bình sau
CĐNS 3 tháng là 25,37 ± 17,68 ml, thời gian đặt thông niệu đạo trung bình 2,33 ± 0,87 ngày, thời gian
nằm viện trung bình 2,39 ± 0,83 ngày. Tai biến và biến chứng: hội chứng cắt đốt 0% (sự khác biệt về nồng
độ Na+ máu trước và sau CĐNS không có ý nghĩa thống kê), tỉ lệ thủng vỏ TTL trong CĐNS là 1,85 %,
chảy máu sau CĐNS 1,85%, nhiễm khuẩn đường tiết niệu 3,7%, bí tiểu sau rút thông niệu đạo 3,7%, tiểu
không kiểm soát tạm thời 3,7%, hẹp miệng niệu đạo 1,85%, xuất tinh ngược dòng 14,29%.
Kết luận: CĐNS bằng điện lưỡng cực trong tăng sinh lành tính TTL mang lại hiệu quả cao: các triệu
chứng đường tiết niệu dưới được cải thiện rõ rệt (điểm số IPSS giảm), bệnh nhân cảm thấy có chất lượng
đời sống tốt hơn (điểm số QoL giảm), lưu lượng dòng tiểu tối đa được cải thiện đáng kể và trở về gần như
bình thường sau CĐNS (Qmax tăng), lượng nước tiểu tồn lưu giảm đáng kể sau CĐNS (RU giảm), thời
gian đặt thông niệu đạo giúp rút ngắn thời gian nằm viện. Kỹ thuật này có tỉ lệ xảy ra tai biến - biến chứng
thấp.
Từ khóa: Cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo, tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt, điểm số
IPSS, điểm số QoL, Qmax.
ABSTRACT
ASSESSING EFFECTS OF BIBOLAR TRANSURETHRAL RESECTION OF THE PROSTATE (TURP)
IN THE TREATMENT OF BENIGN PROSTATIC HYPERPLASIA (BPH).
Tran Le Linh Phuong, Duong Hoang Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 1 - 2016: 78 - 84
Objective: To determine the efficacy and safety of bibolar transurethral resection of the prostate
(TURP) in the treatment of benign prostatic hyperplasia (BPH).
Research design and methods: A retrospective study was conducted with patients who underwent
bipolar TURP at University Medical Center HCMC from November, 2013 to March, 2015.
Result: The mean postoperative 3-month IPSS and Qol was 1.98 ± 4.76 and 0.55 ± 1.04, the mean
* Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Dương Hoàng Lân ĐT: 0906257462 Email: duong_hoang_lan@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tiết Niệu Học 79
mean postoperative 3-month Qmax was 20.30 ± 4.73 mL / sec. According Nguyen Buu Trieu score of
improving symptoms and urodynamic after TURP : 94.44% of patients had good result. The mean
postoperative 3-month volume of residual urine (RU) was 25.37 ± 17.68 ml, the mean length of and the
mean of hospitalization was 2.39 ± 0, 83 days. There was no TUR complication (patients did not
experienced a significant decrease in the serum sodium concentration) postoperative bleeding was 1.85%,
urinary tract infection was 3.7%, urinary retention after the withdrawal through the urethra 3.7%,
temporary urinary incontinence was 3.7%, 1.85% urethra narrow mouth, ejaculation reverse 14.29% line.
Conclusion: Bibolar TURP show some efficacy in the the treatment of BPH: improving lower urinary
tract symptoms (reduced IPSS scores), get better life quality (Qol score reduction), increasing postoperative
Qmax increased, decreasing RU volume significantly after TURP while rendering shorter hospitalizations.
This technique also had low occurrence of complications.
Key word: Bibolar transurethral resection of the prostate (Bibolar TURP), Benign prostatic
hyperplasia (BPH), IPSS, Qol, Qmax.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt (TSLT-
TTL) là bệnh lý thường gặp ở nam giới lớn tuổi.
Theo Gabuev A. và cộng sự, thể tích TTL ở nam
giới tuổi từ 50 đến 80 có sự tăng lên đáng kể và
tốc độ dòng tiểu giảm rõ (từ 22,1 xuống 13,7
ml/s)(5), khoảng 40,5% đàn ông trên 50 tuổi có
Triệu chứng đường tiết niệu dưới (LUTS) gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đời
sống của bệnh nhân(6).
Hiện nay có rất nhiều phương pháp ngoại
khoa điều trị TSLT-TTL. Theo Hiệp Hội Niệu
Khoa Châu Âu, CĐNS bằng điện đơn cực được
xem là tiêu chuẩn vàng trong điều trị TSLT-
TTL(4). Mặc dù hiệu quả đạt được rất lớn, nhưng
CĐNS bằng điện đơn cực vẫn có những biến
chứng như chảy máu cần phải truyền máu (8%),
xuất tinh ngược dòng, tiểu không kiểm soát (1%-
3%), hội chứng cắt đốt nội soi (CĐNS) (1% -
3%)(3). CĐNS bằng điện lưỡng cực là phương
pháp xuất hiện sau CĐNS bằng điện đơn cực.
Theo một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên có nhóm chứng báo cáo năm 2013 của
Bogdan Geavlete và cs(2) cho thấy: CĐNS bằng
điện lưỡng cực mang lại hiệu quả cao hơn so với
CĐNS tiêu chuẩn. Kỹ thuật này giúp hạn chế các
biến chứng thủng vỏ bao, chảy máu, thời gian
lưu thông niệu đạo, thời gian nằm viện cũng
ngắn hơn và không có trường hợp nào được báo
cáo có xảy ra hội chứng CĐNS. Tuy nhiên tại
Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu nào giúp đánh giá kỹ thuật này thật
sự có mang lại hiệu quả cao và an toàn giống
như trong lý thuyết và nghiên cứu của các tác giả
nước ngoài hay không. Vì vậy chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này với mong muốn đạt được
mục tiêu sau:
Xác định tính hiệu quả của kỹ thuật CĐNS
bằng điện lưỡng cực trong TSLT-TTL.
Xác định tính an toàn của kỹ thuật CĐNS
bằng điện lưỡng cực trong TSLT-TTL.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân nam, trên 50 tuổi, nhập viện
Bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh được chẩn đoán là TSLT-TTL có chỉ định
điều trị ngoại khoa, từ đó chọn những BN có chỉ
định CĐNS TSLT-TTL
Tiêu chuẩn loại trừ
BN có chống chỉ định ngoại khoa hay chống
chỉ định CĐNS TSLT-TTL
Bàng quang hỗn loạn thần kinh (dựa vào kết
quả đo áp lực đồ bàng quang trên những TH
nghi ngờ có bàng quang hỗn loạn thần kinh).
BN có các triệu chứng rối loạn đường tiểu
dưới nhưng không có TSLT-TTL: bàng quang
không ổn định, viêm bàng quang, hẹp cổ bàng
quang đơn thuần
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 80
BN có phẫu thuật TTL trước đó.
BN được chẩn đoán là ung thư TTL dựa vào
kết quả sinh thiết trước mổ hoặc kết quả GPB
sau mổ.
Phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu
mô tả hàng loạt ca, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu tiền cứu có kiểm chứng và theo dõi.
Cỡ mẫu: chọn tất cả các trường hợp thỏa tiêu
chuẩn và được điều trị bằng kỹ thuật CĐNS
bằng điện lưỡng cực tại bệnh viện Đại Học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ
ngày 01/11/2013 đến 31/03/2015.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 01/11/2013 đến 31/05/2015,
chúng tôi đã chọn được 54 TH thỏa các tiêu
chuẩn và đưa vào nghiên cứu, với tuổi trung
bình của mẫu nghiên cứu là 72,21 ± 10,39, nhỏ
nhất là 51 tuổi và lớn nhất là 94 tuổi. Đa số bệnh
nhân đến nhập viện vì lý do bí tiểu cấp có 36 TH
(66,67 %) còn lại là tiểu khó (33,33 %). Chúng tôi
thu được một số kết quả như sau:
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu trước và sau CĐNS
Đặc điểm Trước mổ Sau mổ 1 tháng Sau mổ 3 tháng
VTTL trung bình (gram) 56,11 ± 16,77 19,94 ± 7,80 20,56 ± 7,68
Điểm số IPSS trung bình (điểm) 29,29 ± 4,35 7,69 ± 3,88 4,76 ± 1,98
Điểm số QoL trung bình (điểm) 5,41 ± 0,79 1,80 ± 0,68 1,04 ± 0,55
Qmax trung bình (mL/giây) 2,11 ± 3,66 16,06 ± 5,55 20,30 ± 4,73
Bảng 2: Các biến số hổ trợ giúp đánh giá kết quả
Biến số Giá trị trung bình
Thời gian PT (phút) 57,04 ± 17,09
Sự giảm Hb sau PT (g/dL) 0,80 ± 0,09
Sự chênh lệch Hct (%) 1,77 ± 3,54
Sự giảm Na
+
(mEq/L) 0,81 ± 3,65
Thời gian đặt thông niệu đạo (ngày) 2,33 ± 0,87
Thời gian nằm viện (ngày) 2,39 ± 0,83
Bảng 3: Các tai biến – biến chứng
Tai biến – biến chứng Tần suất (%)
Chảy máu khó cầm trong mổ 0
Hội chứng CĐNS 0
Thủng vỏ TTL 1,85
Thủng bàng quang 0
Chảy sau CĐNS 1,85
Nhiễm khuẩn đường niệu 3,7
Bí tiểu sau rút thông niệu đạo 3,7
Tiểu không kiểm soát tạm thời 3,7
Tiểu không kiểm soát vĩnh viễn 0
Tử vong 0
Hẹp miệng niệu đạo 1,85
Xuất tinh ngược dòng 14,29
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, Hb trung
bình trước PT là 12,93 ± 1,72 g/dL và Hb trung
bình sau PT 1 giờ là 12,33 ± 1,53 g/dL. Sử dụng
phép kiểm Paired Samples Test để so sánh trung
bình 2 biến số định lượng, từ đó chúng tôi có
được kết quả: sự khác biệt Hb trước và sau PT có
ý nghĩa thống kê (p = 0,0001) cho thấy CĐNS
bằng điện lưỡng cực trong TSLT-TTL là có chảy
máu. Tuy nhiên Hb giảm trung bình sau PT là
0,80 ± 0,09 g/dL, sự giảm Hb này không nhiều,
cho thấy CĐNS bằng Bipolar có chảy máu
nhưng làm giảm Hb không đáng kể. Kết quả này
tương đồng với nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài như: Jae Heon Kim và cs (2014, n = 69) Hb
giảm trung bình sau PT là 1,0 ± 0,3 g/dL(6), Joon
Woo Kim và cs (2014, n=43) Hb giảm trung bình
sau PT là 1,0 ± 0,9 g/dL(9), Mamoulakis và cs
(2012, n = 141) Hb giảm trung bình sau PT là 0,8
mEq/L(10), Chang – Ying Xie và cs (2011, n = 110)
Hb giảm trung bình sau PT là 1,02 ± 0,54 g/dL(11),
Riccardo Autorino và cs (2009, n = 32) Hb giảm
trung bình sau PT là 0,8 g/dL(1). Điều này càng
nhấn mạnh rằng CĐNS bằng điện lưỡng cực
trong TSLT-TTL là có chảy máu những lượng
máu mất không đáng kể, không gây ảnh hưởng
đến huyết động của bệnh nhân, trong nghiên
cứu của chúng tôi không có TH nào phải truyền
máu trong phẫu thuật.
Nồng độ Na+ trung bình trước PT là 136,67 ±
4,06 mmol/uL và sau PT 1 giờ là 137,48 ± 3,66
mmol/uL. Sự khác biệt Na+ trước và sau PT
không có ý nghĩa thống kê và sự giảm Na+ trung
bình là 0,81 ± 3,65 mEq/L không đáng kể, cho
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tiết Niệu Học 81
thấy trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi
không có rối loạn nồng độ ion Na+ máu xảy ra
trong và sau CĐNS bằng điện lưỡng cực. Điều
này phù hợp với kết quả trong và sau PT không
có TH nào xảy ra Hội chứng cắt đốt. Kết quả này
tương đồng với nghiên cứu của các tác giả
Mamoulakis và cs (2012, n = 141) Na+ giảm trung
bình sau PT là 0,8 mEq/L(9), Autorino và cs (2009,
n = 35) Na+ giảm trung bình sau PT là 0,6
mEq/L(1), Chang-Jun Yoon và cs (2006, n = 49) Na+
giảm trung bình sau PT là 0,06 ± 3,63 mEq/L. Cho
thấy CĐNS bằng điện lưỡng cực trong TSLT-
TTL không làm rối loạn nồng độ ion Na+ máu
xảy ra trong và sau CĐNS bằng điện lưỡng cực.
Thời gian đặt thông niệu đạo trung bình 2,33
± 0,87 ngày (dài nhất là 5 ngày, ngắn nhất 1
ngày). Số TH có thời gian đặt thông niệu đạo ≤ 3
ngày chiếm 90,70%. Thời gian nằm viện sau
CĐNS được tính từ lúc sau phẫu thuật cho đến
khi bệnh nhân xuất viện. Nghiên cứu của chúng
tôi có thời gian nằm viện trung bình là 2,39±0,83
(dài nhất là 5 ngày, ngắn nhất 1 ngày). Số TH có
thời gian nằm viện ≤ 3 ngày chiếm 90,7%. Cho
thấy các bệnh nhân trong nghiên cứu này có thời
gian nằm viện sau CĐNS là tương đối ngắn vì
hơn 90 % bệnh nhân chỉ nằm viện ≤ 3 ngày sau
CĐNS, hầu hết bệnh nhân sớm ổn định về lâm
sàng sau PT và được xuất viện khá sớm. Kết quả
này của chúng tôi là phù hợp với nghiên cứu của
các tác giả nước ngoài như: Jae Heon Kim và cs
(2014, n=69) thời gian nằm viện trung bình
2,2±0,8 ngày(6), Ozgu Aydogdu và cs (2014, n=42)
thời gian nằm viện trung bình 2,3±1,1 ngày(2),
Chang-Jun Yoon và cs (2006, n=49) thời gian nằm
viện trung bình 3,52±2,55 ngày(12).
Điểm số IPSS trung bình trước mổ là
29,29±4,35 điểm, thấp nhất là 17 điểm, cao nhất là
35 điểm. Trong đó mức độ nhẹ (<7 điểm) 0%,
mức độ nặng (20 – 35 điểm) chiếm đa số với
96,3%. Cho thấy bệnh nhân đa số (96,3 %) đến
nhập viện vì triệu chứng rối loạn đường tiểu
nặng hoặc là đã có biến chứng của bệnh. Điểm
IPSS trung bình tái khám sau 1 tháng 7,69 ± 3,88
(cao nhất 18, thấp nhất 2). Điểm IPSS trước và
sau PT 1 tháng khác nhau có ý nghĩa thống kê,
cho thấy có sự cải thiện đáng kể điểm số IPSS
sau PT 1 tháng (phép kiểm Paired Samples Test).
Các triệu chứng đường tiết niệu dưới giảm đi
đáng kể. Điểm IPSS trung bình sau 3 tháng 4,76 ±
1,98 (cao nhất 9 điểm, thấp nhất 1 điểm). Điểm
IPSS trước PT, sau PT 1 tháng và 3 tháng khác
nhau có ý nghĩa thống kê (p=0,0001), cho thấy có
sự cải thiện đáng kể điểm số IPSS sau PT 3 tháng
so với IPSS sau PT 1 tháng và trước PT. Điểm
trung bình IPSS giảm đáng kể sau PT 1 tháng và
giảm mạnh nhất là sau PT 3 tháng, cho thấy sau
PT các triệu chứng đường tiết niệu dưới giảm đi
đáng kể và trở về gần như bình thường sau PT 3
tháng. Sự cải thiện điểm số trung bình IPSS sau
phẫu thuật 1 tháng của các tác giả nước ngoài
cũng gần tương đồng với nghiên cứu của chúng
tôi. Sau PT 3 tháng, điểm số IPSS trung bình
trong nghiên cứu của chúng tôi giảm nhiều hơn
của các tác giả nước ngoài, tuy kết quả này khá
tương đồng với nghiên cứu của Riccardo
Autorino (2009, n=59) có điểm số IPSS trung bình
sau PT 3 tháng là 4,3 so với 4,76 trong nghiên
cứu của chúng tôi. Khác biệt này có thể là do tính
chủ quan của bệnh nhân khi tự mình đánh giá
vào bảng điểm và số điểm IPSS trước PT trong
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn (bệnh nhân
đến trễ hơn) nên mức độ giảm nhiều hơn. Hầu
như tất cả bệnh nhân nhận thấy mức độ cải thiện
triệu chứng rõ rệt khi áp dụng năng lượng điện
lưỡng cực trong điều trị.
Điểm số chất lượng cuộc sống QoL trung
bình trước mổ là 5,41 ± 0,79 điểm, thấp nhất là 3
điểm, cao nhất là 6 điểm. Trong đó mức độ nhẹ
(0 – 2 điểm) 0%, mức độ nặng (5 – 6 điểm) chiếm
đa số với 85,2%. Cho thấy đa số (85,2%) bệnh
nhân đến nhập viện vì triệu chứng rối loạn
đường tiểu nặng hoặc là đã có biến chứng của
bệnh làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng đời
sống của bệnh nhân. Đa số bệnh nhân đến bệnh
viện khám do họ cảm thấy rất khó chịu và khổ
sở với các triệu chứng rối loạn đường tiểu dưới.
Trong đó điểm QoL trung bình ở nhóm bí tiểu
cao hơn điểm QoL trung bình ở nhóm tiểu khó
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 82
(5,55 > 5,11 điểm), như vậy bệnh nhân bí tiểu có
triệu chứng rối loạn đường tiểu ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng đời sống của bệnh nhân
hơn nhóm tiểu khó. Điểm QoL trung bình tái
khám sau 1 tháng 1,80 ± 0,68 (cao nhất 3, thấp
nhất 1). Như vậy điểm QoL trước và sau PT 1
tháng khác nhau có ý nghĩa thống kê (theo phép
kiểm Paired Samples Test, p = 0,0001). Cho thấy
chất lượng đời sống của bệnh nhận được cải
thiện đáng kể so với trước PT. Điểm QoL trung
bình sau 3 tháng 1,04±0,55 (cao nhất 3, thấp nhất
0). Điểm QoL trước PT, sau PT 1 tháng và 3
tháng khác nhau có ý nghĩa thống kê (p =
0,0001), cho thấy có sự cải thiện đáng kể điểm số
QoL sau PT 3 tháng so với QoL sau PT 1 tháng
và trước PT. Chất lượng đời sống của bệnh nhân
được cải thiện đáng kể và trở về gần như bình
thường sau PT 3 tháng. So với các tác giả nước
ngoài, nhìn chung mẫu nghiên cứu của chúng tôi
có điểm số trung bình QoL trước PT cao hơn
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, điều này
có thể giải thích một phần là do: đa số (85,2%)
bệnh nhân đến nhập viện vì triệu chứng rối loạn
đường tiểu nặng hoặc là đã có biến chứng của
bệnh làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng đời
sống của bệnh nhân, cũng có những trường hợp
bệnh nhân ngại đi khám bệnh, do điều kiện kinh
tế khó khăn, phần lớn bệnh nhân đến khám từ
các vùng quê xa không có đủ điện kiện để chăm
lo cho sức khỏe của mình. Tuy nhiên, sau CĐNS
thì phần lớn các bệnh nhân đều hài lòng với kết
quả PT, cảm thấy chất lượng cuộc sống được cải
thiện rõ rệt, điểm số chất lượng cuộc sống trung
bình sau mổ cải thiện đáng kể so với trước PT.
Điểm số QoL sau PT 1 tháng trong nghiên cứu
của chúng tôi (1,80 ±0,68 điểm) khá tương đồng
với tác giả Chang-Jun Yoon (2006, n=49) là 1,6
điểm. Kết quả sau PT 3 tháng, sự cải thiện điểm
số QoL trong mẫu của chúng tôi (1,04±0,55 điểm)
tương đồng với Riccardo Autorino (2009, n=59)
có QoL trung bình sau PT 3 tháng là 1 điểm và
Chang-Jun Yoon (2006, n=49) có QoL trung bình
sau PT 3 tháng là 1,2 điểm. Tuy nhiên so với các
tác giả: Jae Heon Kim (2014, n = 69) có QoL trung
bình sau PT 3 tháng là 2,1 điểm và Chang-Ying
Xie (2012, n = 78) có QoL trung bình sau PT 3
tháng là 2,15 ± 0,58 điểm, thì cho thấy sự cài
thiện QoL trong nghiên cứu của chúng tôi là
nhiều hơn, phần lớn bênh nhân của chúng tôi
hài long về sự cải thiện các triệu chứng đường
tiết niệu dưới sau CĐNS bằng điện lưỡng cực.
Qmax trung bình trước PT 2,11 ± 3,66 mL/giây
(thấp nhất là 0 mL/giây, cao nhất 10,9 mL/giây).
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có lưu lượng
dòng tiểu tối đa trung bình trước PT thấp hơn
mẫu nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, điều
này có thể là do mẫu nghiên cứu của chúng tôi
có đến 36/54 TH bí tiểu (chiếm 66,67%), tất cả
những TH này đều được qui ước Qmax = 0
mL/giây, chính vì vậy mà làm cho Qmax trung
bình trước PT của mẫu chúng tôi thấp hơn mẫu
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Phần lớn
các bệnh nhân nước ngoài thường đến khám
sớm, khi mức độ bế tắc đường tiểu chưa nhiều
như những bệnh nhân của chúng tôi. Xét kết quả
sau 1 tháng, Qmax trung bình là 16,06 ± 5,55 (cao
nhất 33,50 mL/giây, thấp nhất 5,50 mL/giây). Giá
trị Qmax trung bình trước và sau 1 tháng khác
nhau có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Paired
Samples Test). Như vậy sau PT hầu hết bệnh
nhân có cải thiện về lưu lượng dòng tiểu tối đa
đáng kể, gần như về mức bình thường. Kết quả
của chúng tôi tương đồng với các tác giả: Joon
Woo Kim (2013, n = 43) Qmax trung bình 15,8 ± 6,7
mL/giây, Chang-Jun Yoon (2006, n = 49) Qmax
trung bình 17,4 ± 3,8 mL/giây. Tuy nhiên, so với
tác giả Ozgu Aydogdu (2014, n = 42) có Qmax
trung bình 22,5 mL/giây, thì sự cải thiện lưu
lượng dòng tiểu tối đa sau CĐNS 1 tháng trong
nghiên cứu của chúng tôi có phần kém hơn của
tác giả Ozgu Aydogdu và cs, điều này có thể do
mẫu nghiên cứu của chúng tôi có Qmax trung
bình trước PT thấp hơn của Ozgu Aydogdu
đáng kể, chính vì vậy mà sự cải thiện Qmax của
chúng tôi tuy thấp hơn nhưng vẫn có mức độ
chênh lệch Qmax trước và sau PT gần tương đồng
với nhau (13,95 mL/giây so với 15,7 mL/giây).
Sau 3 tháng, Qmax trung bình là 20,30 ± 4,73 cao
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tiết Niệu Học 83
nhất 33,50 mL/giây, thấp nhất 10,60 mL/giây).
Qmax trước PT, sau PT 1 tháng và 3 tháng khác
nhau có ý nghĩa thống kê (p = 0,0001, phép kiểm
Paired Samples Test), cho thấy có sự cải thiện
đáng kể Qmax sau PT 3 tháng so với Qmax sau PT 1
tháng và trước PT. Lưu lượng dòng tiểu tối đa
của bệnh nhân được cải thiện đáng kể và trở về
gần như bình thường sau PT 3 tháng. Kết quả
của chúng tôi tương đồng với các tác giả: Jae
Heon Kim (2014, n = 69) Qmax trung bình 19,3
mL/giây, Orhun Sinanoglu (2014, n = 163) Qmax
trung bình 19,1 ± 6,2 mL/giây, Ozgu Aydogdu
(2014, n = 42) Qmax trung bình 19,8 mL/giây,
Riccardo Autorino (2009, n = 59) Qmax trung bình
20,8 mL/giây, Chang-Jun Yoon (2006, n = 49) Qmax
trung bình 18,9 ± 3,1mL/giây. Tuy nhiên, so với
tác giả Chang-Ying Xie (2012, n = 78) có Qmax
trung bình 28,05 ± 8,69 mL/giây, thì sự cải thiện
lưu lượng dòng tiểu tối đa sau CĐNS 3 tháng
trong nghiên cứu của chúng tôi có phần kém
hơn của tác giả Chang-Ying Xie và cs, điều này
có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi có Qmax
trung bình trước PT thấp hơn của Chang-Ying
Xie, chính vì vậy mà sự cải thiện Qmax của chúng
tôi tuy thấp hơn nhưng vẫn có mức độ chênh
lệch Qmax trước và sau PT 3 tháng gần tương
đồng với nhau (18,19 mL/giây so với 18,4
mL/giây).
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy CĐNS
bằng điện lưỡng cức trong TSLT-TTL có tỉ lệ tai
biến – biến chứng thấp và phù hớp với báo cáo
của các tác giả nước ngoài.
KẾT LUẬN
Trong loạt nghiên cứu này, thực hiện CĐNS
bằng điện lưỡng cực trên 54 bệnh nhân bị TSLT-
TTL có chỉ định phẫu thuật, chúng tôi rút ra kết
luận sau:
Trên những trường hợp TSLT-TTL có chỉ
định can thiệp ngoại khoa, vai trò của CĐNS
bằng điện lưỡng cực có chỉ định trong các
trường hợp sau:
Khối lượng bướu dưới 80 gram.
Dịch rữa dùng trong cắt đốt là nước muối
sinh lý (NaCl 0,9%), không cần dùng loại dung
dịch không dẫn điện (Glycine, Sorbitol) nên
không bị ngộ độc glycine hay hội chứng sau
CĐNS cổ điển.
Thích hợp cho bệnh nhân có đặt máy tạo
nhịp tim.
Có thể sử dụng dòng điện tần số cao làm bốc
hơi mô bướu.
Hạn chế của CĐNS bằng điện lưỡng cực
trong TSLT-TTL là:
Nguy cơ cao bị chấn thương niêu đạo nếu
dòng điện bị lệch nếu sử dụng mức năng lượng
cao để kích hoạt dòng ion.
Nguy cơ chảy máu tái phát sau CĐNS do
hiệu quả đốt cầm máu bằng điện lưỡng cực
không sâu.
Kết quả nghiên cứu CĐNS bằng điện lưỡng
cực trong TSLT-TTL với 54 TH, tại bệnh viện Đại
Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, trong thời
gian từ 01/11/2013 đến 31/05/2015 cho thấy:
Về chỉ định
Tuổi trung bình là 72,21 ± 10,39 (51 - 94 tuổi).
Khối lượng TTL trung bình là 56,11 ± 16,77
gram (30 - 80 gram).
Bí tiểu tái diễn 66,67%, tiểu khó (Qmax < 10
ml/s) 33,33%.
Các kết quả về cải thiện triệu chứng và
niệu động học
Các triệu chứng đường tiết niệu dưới được
cải thiện rõ rệt sau CĐNS (điểm IPSS trung bình
sau 3 tháng 4,76 ± 1,98 điểm).
Bệnh nhân cảm thấy có chất lượng đời sống
tốt hơn sau CĐNS (điểm QoL trung bình sau 3
tháng 1,04 ± 0,55 điểm).
Lưu lượng dòng tiểu tối đa được cải thiện
đáng kể và trở về gần như bình thường sau
CĐNS (Qmax trung bình sau CĐNS 3 tháng là
20,30 ± 4,73 mL/giây).
Đánh giá tình trạng đi tiểu sau CĐNS theo
Nguyễn Bửu Triều, có 94,44% bệnh nhân có kết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 84
quả tốt về cải thiện triệu chứng và niệu động
học, 5,56 % cải thiện khá và không có TH nào là
cải thiện kém sau CĐNS.
Lượng nước tiểu tồn lưu giảm đáng kể sau
CĐNS (RU trung bình sau CĐNS 3 tháng là
25,37 ± 17,68 ml).
Thời gian đặt thông niệu đạo ngắn (trung
bình 2,33 ± 0,87 ngày).
Thời gian nằm viện ngắn (trung bình 2,39 ±
0,83 ngày).
Tai biến và biến chứng
Hội chứng cắt đốt 0% (sự khác biệt về nồng
độ Na+ máu trước và sau CĐNS không có ý
nghĩa thống kê), tỉ lệ thủng vỏ TTL trong CĐNS
là 1,85 %.
Chảy máu sau CĐNS 1,85%, nhiễm khuẩn
đường tiết niệu 3,7%, bí tiểu sau rút thông niệu
đạo 3,7%, tiểu không kiểm soát tạm thời 3,7%,
hẹp miệng niệu đạo 1,85%, xuất tinh ngược dòng
14,29%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Autorino R, Damiano R, Di Lorenzo G, Quarto G, Perdonà
S, D’Armiento M, et al (2009), Four-year outcome of a
prospective randomised trial comparing bipolar
plasmakinetic and monopolar transurethral resection of
the prostate, Eur Urol, vol 55, pp.922–929.
2. Aydogdu O, Karakose A, Celik O, Atesci YZ (2014), “A
clinical study comparing BIVAP saline vaporization of the
prostate with bipolar TURP in patients with prostate
volume 30 to 80 mL: Early complications, physiological
changes and postoperative follow-up outcomes”, Original
Research, Izmir University School of Medicine, vol 8 (7-8),
pp.485-489.
3. Brian TH and Kevin TM (2007), “The gold standard:
transurethral resection of the prostate”, Complications of
Urologic Surgery and Practice, chapter 30, pp.393-397.
4. Eropean Association of Urology (EAU) (2014), Guidelines
on Management of Male Lower Urinary Tract Symptoms
(LUTS), incl, Benign Prostatic Obstruction (BPO), 2014.
5. Gabuev A, Oelke M (2011). Aktuelle Aspekte zur
Epidemiologie, Diagnostik und Therapie des Benignen
Prostatasyndroms. Latest Trends and Recommendations
on Epidemiology, Diagnosis, and Treatment of Benignen
Prostatic Hyperplasia (BPH). Aktuel Urol 2011; 42:
pp.167-178.
6. Geavlete B, et all. (2013), “Three-year prospective,
Randomized comparison of the bipolar plasma
vaporization of the prostate, monopolar and bipolar
resection in medium size BPH patients”, Journal of
Endourology, Mary Ann Liebert, Lne publishers, New
Orleans, vol 27 (1), pp.72.
7. Hội Tiết Niệu – Thận học Việt Nam (2014), Hướng dẫn xử
trí tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt, Nhà xuất bản Y học,
Hà Nội, tái bản lần 2, tr.5-12.
8. Kim JH, Park JY, Shim JS, Lee JG, Moon du G, Yoo JW, Choi
H, Bae JH (2014), “Comparison of outpatient versus
inpatient transurethral prostate resection for benign
prostatic hyperplasia: Comparative, prospective bi-centre
study”, Original Research, Canadian Urological
Association, vol 8 (1-2), pp.31-35.
9. Kim JW, Kim YJ, Lee YH, Kwon JB, Cho SR, Kim JS (2014),
“An Analytical Comparison of Short-term Effectiveness
and Safety Between Thulium:YAG Laser Vaporesection of
the Prostate and Bipolar Transurethral Resection of the
Prostate in Patients With Benign Prostatic Hyperplasia”,
KJU, The Korean Urological Association, vol 55, pp.41-46.
10. Mamoulakis C, Skolarikos A, Schulze M, Scoffone CM,
Rassweiler JJ, Alivizatos G, et al (2012), “Results from an
international multicentre double-blind randomized
controlled trial on the perioperative efficacy and safety of
bipolar vs monopolar transurethral resection of the
prostate”, BJU Int, vol 109, pp.240–248.
11. Xie CY, Zhu GB, Wang XH, Liu XB (2012), “A clinical
study comparing BIVAP saline vaporization of the
prostate with bipolar TURP in patients with prostate
volume 30 to 80 mL: Early complications, physiological
changes and postoperative follow-up outcomes”, Yonsei
Med J, vol 53 (4), pp.734-741.
12. Yoon CJ, Kim JY, Moon KH, Jung HC, Park TC (2006),
“Transurethral Resection of the Prostate with a Bipolar
Tissue Management System Compared to Conventional
Monopolar Resectoscope: One-Year Outcome”, Yonsei
Medical Journal, Yeungnam University College of
Medicine, vol 47 (5), pp.715-720.
Ngày nhận bài báo: 24/11/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2015
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_cua_cat_dot_noi_soi_bang_dien_luong_cuc_tro.pdf