Tài liệu Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật thay van động mạch chủ ít xâm lấn: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
50
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT THAY VAN
ĐỘNG MẠCH CHỦ ÍT XÂM LẤN
Võ Tuấn Anh*, Nguyễn Thị Thu Trang*, Phạm Trần Việt Chương*, Vũ Tam Thiện*, Vương Ngọc Minh*,
Nguyễn Hoàng Định*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật tim ít xâm lấn phát triển mạnh trên thế giới và đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân.
Đường tiếp cận này đã và đang được áp dụng rộng rãi tại nhiều trung tâm lớn. Phẫu thuật van động mạch chủ
ít xâm lấn cũng không phải ngoại lệ, được áp dụng với hai đường tiếp cận khác nhau là nửa trên xương ức và
liên sườn II bên phải. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả bước đầu thay van động mạch chủ ít xâm lấn tại Trung
tâm Tim mạch – Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Đối tượng và Phương pháp: Đánh giá 35 trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán bệnh lý van động mạch
chủ và được phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Từ tháng 10/2016...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 425 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật thay van động mạch chủ ít xâm lấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
50
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT THAY VAN
ĐỘNG MẠCH CHỦ ÍT XÂM LẤN
Võ Tuấn Anh*, Nguyễn Thị Thu Trang*, Phạm Trần Việt Chương*, Vũ Tam Thiện*, Vương Ngọc Minh*,
Nguyễn Hoàng Định*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật tim ít xâm lấn phát triển mạnh trên thế giới và đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân.
Đường tiếp cận này đã và đang được áp dụng rộng rãi tại nhiều trung tâm lớn. Phẫu thuật van động mạch chủ
ít xâm lấn cũng không phải ngoại lệ, được áp dụng với hai đường tiếp cận khác nhau là nửa trên xương ức và
liên sườn II bên phải. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả bước đầu thay van động mạch chủ ít xâm lấn tại Trung
tâm Tim mạch – Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Đối tượng và Phương pháp: Đánh giá 35 trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán bệnh lý van động mạch
chủ và được phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Từ tháng 10/2016 đến tháng 12/2018, có 35 trường hợp phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm
lấn. Trong đó có 18 trường hợp thực hiện qua đường mở ngực nửa trên xương ức và 17 trường hợp thực hiện
qua đường mở liên sườn II bên (P). Tuổi trung bình là 53,4 tuổi. Tỉ lệ nam:nữ là 1,2:1. Sau phẫu thuật, thời gian
nằm hồi sức trung bình là 1,3 ngày, thời gian thở máy trung bình là 12,8 giờ và thời gian nằm viện trung bình là
6,2 ngày. Không có trường hợp tử vong nào, có 01 trường hợp tai biến mạch máu não không hồi phục, 01 trường
hợp chuyển mổ hở do chảy máu khó kiểm soát, 01 bệnh nhân cần phẫu thuật lại do chảy máu.
Kết luận: Phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh cho
kết quả an toàn, hiệu quả, giảm sang chấn về thể chất và tinh thần cho người bệnh. Việc chọn lựa bệnh nhân hợp
lý và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn phẫu thuật sẽ giúp đem lại kết quả tốt nhất cho người bệnh.
Từ khóa: phẫu thuật ít xâm lấn, đường mở ngực nửa trên xương ức, đường mở ngực liên sườn II bên phải,
phẫu thuật van động mạch chủ
ABSTRACT
PRELIMINARY RESULTS OF MINIMALLY INVASIVE AORTIC VALVE SURGERY
Vo Tuan Anh, Nguyen Thi Thu Trang, Pham Tran Viet Chuong, Vu Tam Thien, Vuong Ngoc Minh,
Nguyen Hoang Dinh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 – No. 6 - 2019: 50 - 57
Objectives: Minimally invasive aortic valve surgery is under rapid development worldwide in recent years.
The number of this type of surgery is growing dramatically in developped countries. This study aimed for the
assessment of indications, techniques and short term result of minimally invasive vavlve surgery.
Method: We reported 35 patients underwent minimally invasive aortic valve surgery at the University
Medical Center at Ho Chi Minh City.
Results: From 10/2016 to 12/2018, 35 patients with aortic valve disease were operated with minimally
invasive approach, including 19 ministernotomy and 18 right 2nd intercostal thoracotomy. Mean age was 53.4.
Male to female ratio was 1.2:1. Mean ICU time was 1.3 days, mean mechanical ventilation time was 12.8 hours,
in-hospital time was 6.2 days. No short term mortality recorded, 1 patient suffered permenant stroke, 1
*Khoa Phẫu Thuật Tim mạch – Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Hoàng Định ĐT: 0908 500 090 Email: nguyenhoangdinh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
51
conversion to sternotomy. 1 patient needed to reexplored due to uncontrolled bleeding.
Conclusions: In our primitive experience with minimally aortic valve surgery, the early outcomes are
satisfactory with low morbidity and no mortality. This procedure is though safe and feasible, provided that patient
selection is good and safety protocols are followed.
Key words: Minimally invasive cardiac surgery, left minithoracotomy, coronary artery bypass
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật van động mạch động mạch chủ
đã được phát triển từ lâu, là một phương pháp
được thực hiện thường quy, có rất ít nguy cơ và
kết quả lâu dài rất tốt. Cho đến hiện nay, đường
tiếp cận kinh điển giữa xương ức được xem là an
toàn và hiệu quả(7).
Phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn
được mô tả lần đầu tiên vào năm 1993(18), sau đó
phát triển và trở nên phổ biến vào năm 1996 và
năm 1997 như là đường tiếp cận thay thế cho
phẫu thuật mở đường giữa xương ức kinh điển
dành cho bệnh nhân bệnh lý van động mạch chủ
đơn thuần(8). Một số đường tiếp cận được mô tả
trong y văn như: đường tiếp cận cạnh xương
ức(6), đường dưới nách(12), đường mở nửa dưới
xương ức(19). Ngày nay, phẫu thuật van động
mạch chủ ít xâm lấn được tiếp cận chủ yếu qua
đường mở ngực nửa trên xương ức và đường
mở ngực liên sườn II bên (P)(14).
Nhờ vào kết quả phẫu thuật tốt, phẫu thuật
van động mạch chủ ít xâm lấn đã trở thành
đường tiếp cận thường quy tại những trung tâm
có lượng bệnh cao(9). Bên cạnh hiệu quả của
đường mổ nhỏ hơn và cải thiện về mặt thẩm mỹ,
nhiều nghiên cứu đã chứng minh phẫu thuật
van động mạch chủ ít xâm lấn giảm chảy máu
sau mổ, giảm truyền máu, giảm rung nhĩ cũng
như giảm đau sau mổ nhưng không ảnh hưởng
đến tỉ lệ tử vong(10,16). Tuy vậy, kết quả này
không đồng nhất ở các trung tâm khác nhau.
Bên cạnh đó, đường tiếp cận ít xâm lấn cũng có
những nhược điểm như thời gian chạy tuần
hoàn ngoài cơ thể và thời gian kẹp động mạch
chủ kéo dài(4).
Tại Việt Nam, có một số trung tâm ở phía
Bắc và phía Nam, trong đó Trung tâm Tim mạch
Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh là
một trong những đơn vị triển khai thành công
phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn qua
đường mở ngực nửa trên xương ức và đường
mở ngực liên sườn II bên (P). Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá kĩ thuật và
kết quả bước đầu sau 02 năm thực hiện cũng
như rút ra một số kinh nghiệm trong triển khai
kĩ thuật mới.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật van
động mạch chủ ít xâm lấn qua đường mở ngực
nửa trên và đường mở ngực liên sườn II bên
phải tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân có bệnh lý van động mạch chủ có
chỉ định phẫu thuật theo hướng dẫn điều trị
bệnh van của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kì(17).
Được phẫu thuật ít xâm lấn qua đường mở
ngực nửa trên xương ức hoặc đường mở ngực
liên sườn II bên phải.
EF > 60%, tuổi < 70, PAPs < 60 mmHg.
Chức năng thất (P) tốt, (TAPSE > 15 mm).
Các bệnh nhân thỏa tiêu chí sau được đưa
vào nhóm phẫu thuật qua liên sườn II bên phải
Động mạch chủ ngực lên ngang mức ngã ba
động mạch phổi nằm lệch phải (hơn 1 nửa động
mạch chủ nằm về phía bên phải so với bờ phải
xương ức).
Khoảng cách từ động mạch chủ ngực lên
đến xương ức < 10 cm.
Góc giữa trục động mạch chủ ngực lên và
trục thẳng đứng > 45o.
Các bệnh nhân thỏa tiêu chí sau được đưa
vào nhóm phẫu thuật qua liên sườn II bên phải.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
52
Tiêu chuẩn loại trừ
Có bệnh lý tim mạch khác cần can thiệp đi
kèm: Bệnh lý van hai lá, bệnh lý động mạch
vành, bệnh lý tim bẩm sinh
Bệnh nhân đã từng phẫu thuật tim qua
đường giữa xương ức.
Hình 1. Động mạch chủ lệch phải (A), góc giữa động mạch chủ lên và trục thẳng đứng > 45 (11) (B)
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả loạt ca.
Trích lục dữ liệu hồ sơ bệnh án tại Khoa
Phẫu Thuật Tim Mạch, Bệnh viện Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh của các bệnh nhân được
phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn qua
đường mở ngực nửa trên xương ức và liên sườn
II bên phải trong thời gian từ tháng 10/2016 đến
tháng 12/2018.
Các bước tiến hành phẫu thuật
Mở ngực nửa trên xương ức (Hình 2)
Bệnh nhân nằm ngửa, kê một gối vải dưới
hai vai. Dán các bản điện cực sốc điện ngoài. Sát
trùng và trải khăn mổ bộc lộ toàn bộ xương ức
và vùng bẹn đùi hai bên. Bệnh nhân được theo
dõi các thông số huyết động như một trường
hợp mổ tim có tuần hoàn ngoài cơ thể thông
thường. Trong thời gian đầu mới triển khai,
chúng tôi thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể qua
đường ngoại vi: Rạch da 3 cm trên nếp lằn bẹn
bên (P). Bộc lộ và kiểm soát động mạch và tĩnh
mạch đùi. Dưới siêu âm tim qua thực quả, luồn
dây dẫn đầu J dài 260 mm qua tĩnh mạch đùi lên
đến tĩnh mạch chủ trên, đặt cannula tĩnh mạch
hai tầng (SorinTM) theo dây dẫn sao cho đầu trên
của cannula nằm trong tĩnh mạch chủ trên. Đặt
cannula động mạch đùi theo phương pháp
Seldinger. Khi đã quen với phẫu trường, bác sĩ
phẫu thuật có thể chọn lựa đặt cannula động
mạch chủ ở động mạch chủ ngực lên để tránh
các biến chứng của tuần hoàn ngoài cơ thể
ngược dòng.
Rạch da 5-8cm 2cm dưới hõm ức đến liên
sườn IV. Việc lựa chọn đi về phía bên phải hoặc
bên trái của xương ức tùy thuộc vào hình ảnh
động mạch chủ lên và gốc động mạch chủ trên
phim chụp cắt lớp vi tính có cản quang, nếu hơn
1/2 động mạch chủ ngực lên và gốc động mạch
chủ nằm bên ngoài bờ phải xương ức, chúng tôi
chọn mở về phía bên phải. Nếu động mạch chủ
ngực lên và gốc động mạch chủ nằm nghiêng về
phía bên trái nhiều hơn, chúng tôi chọn mở về
phía bên trái.
Mở màng tim và treo màng tim với các mũi
chỉ treo. Bộc lộ gốc động mạch chủ, động mạch
chủ ngực lên và một phần đầu của quai động
mạch chủ. Chạy tuần hoàn ngoài cơ thể đủ lưu
lượng và hạ thân nhiệt xuống 30 độ C. Hút thất
trái qua tĩnh mạch phổi trên phải. Kẹp động
mạch chủ, nếu bệnh nhân có hở van động mạch
chủ nặng, bơm dung dịch liệt tim trực tiếp qua
hai lỗ vành, nếu van động mạch chủ kín, bơm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
53
dung dịch liệt tim thuận dòng qua gốc động
mạch chủ. Chúng tôi sử dụng thường quy dung
dịch liệt tim Custodiol cho tất cả các trường hợp
phẫu thuật ít xâm lấn.
Cắt van động mạch chủ, đo đạc và đặt chỉ
rời hoặc chỉ có đệm. Thay van động mạch chủ
tương tự như những trường hợp thay van tiêu
chuẩn qua đường mở ngực kinh điển.
Mở kẹp động mạch chủ cho tim đập lại. Khi
nhịp tim ổn định, cai dần tuần hoàn ngoài cơ
thể. Kiểm tra kết quả phẫu thuật bằng siêu âm
tim qua thực quản. Kiểm tra cầm máu, lưu ý đến
bó mạch ngực trong. Dẫn lưu khoang màng tim
qua xoang ngang và dẫn lưu khoang màng phổi
phải. Rút các cannula động mạch và tĩnh mạch
đùi. Tái tạo mạch máu bằng chỉ Prolene 6.0.
Hình 2. Đường mở ngực nửa trên xương ức, đi về
bên trái nếu động mạch chủ ngực lên và gốc động
mạch chủ nằm về phía bên trái nhiều hơn(21)
Mở ngực trước liên sườn II bên Phải (Hình 3)
Bệnh nhân nằm ngửa, mê nội khí quản, kê
gối vuông dưới vai phải. Dán các bản điện cực
sốc điện ngoài. Rạch da 5cm tương ứng với liên
sườn 2 bên phải. Bộc lộ bó mạch ngực trong bên
phải, dung clip mạch máu kẹp và cắt rời động
mạch và tĩnh mạch ngực trong phải. Cắt rời
xương sườn số 3 tại vị trí nối giữa sụn sườn 3
vào xương ức. Dùng vén mô mềm để bộc lộ tốt
hơn phẫu trường. Mở màng ngoài tim, bộc lộ
động mạch chủ ngực lên và gốc động mạch chủ
bằng những mũi chỉ treo màng tim lên thành
ngực. các mũi chỉ này đóng vai trò rất quan
trọng để có 1 phẫu trường tốt.
Hình 3. Đường mở ngực liên sườn II bên phải tiếp
cận van động mạch chủ(13)
Bộc lộ bó mạch đùi phải và thiết lập tuần
hoàn ngoài cơ thể ngoại biên tương tự như
đường mở ngực nửa trên xương ức. Kẹp động
mạch chủ, chạy liệt tim thuận dòng qua gốc
động mạch chủ hoặc qua trực tiếp qua lỗ động
mạch vành nếu có hở van động mạch chủ nặng.
Mở động mạch chủ, cắt van động mạch chủ
và thay van động mạch chủ tương tự như thay
van động mạch chủ qua đường mở ngực giữa
xương ức. Lưu ý vị trí của lá vành phải là vị trí
tương đối khó đặt chỉ, cần quan sát kĩ và bộc lộ
thật tốt trước khi thực hiện thao tác nhằm tránh
các tai biến do kĩ thuật gây ra.
Thả kẹp động mạch chủ, các thao tác về
sau tương tự như đường mở ngực nửa trên
xương ức.
Hình 4. Bộc lộ van động mạch chủ qua đường mở
ngực liên sườn II(13)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
54
Y Đức
Bài nghiên cứu được chấp thuận bởi Hội
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh với quyết định
số 4037/QĐ - ĐHYD ngày 25 tháng 09 năm 2018.
KẾT QUẢ
Từ tháng 10/2016 đến tháng 12/2018, có tổng
cộng 35 bệnh nhân được phẫu thuật thay van
động mạch chủ ít xâm lấn qua đường mở ngực
nửa trên xương ức và đường mở ngực qua liên
sườn II bên phải. Trong đó, có 18 trường hợp
được phẫu thuật qua đường mở ngực nửa trên
xương ức và 17 trường hợp phẫu thuật phẫu
thuật qua đường mở ngực liên sườn II bên phải.
Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 48,3
tuổi, nhỏ nhất là 12 tuổi, lớn nhất là 76 tuổi, nhỏ
nhất là 16 tuổi. Tỉ lệ nam:nữ là 1,6:1. Tất cả các
bệnh nhân đều trong giai đoạn suy tim NYHA I
và II, không có trường hợp nào suy tim nặng ở
giai đoạn III và IV.
Bảng 1. Phân bố cơ chế bệnh sinh của bệnh lý van
động mạch chủ
Cơ chế bệnh sinh Số lượng Tỉ lệ %
Bẩm sinh 3 8,6
Hậu thấp 16 45,7
Van động mạch chủ 2 mảnh 12 34,3
Thoái hóa 4 11,4
Thời gian theo dõi trung bình của các bệnh
nhân là 14,8 tháng. Không có trường hợp nào
cần mổ lại vì rối loạn hoạt động của van hoặc các
nguyên nhân khác, 4 lượt bệnh nhân phải nhập
viện lại vì rối loạn đông máu do uống thuốc
kháng đông dạng kháng Vitamin K
(Acenocoumarol).
13
16
6
Hở van động
mạch chủ
Hẹp van động
mạch chủ
Hẹp hở van động
mạch chủ
Hình 5. Phân bố bệnh nhân theo tổn thương van
Bảng 2. Thông số sau phẫu thuật
Biến số
Nhóm nửa
trên xương
ức
Nhóm mở
ngực liên
sườn II
Thời gian kẹp động mạch
chủ trung bình (phút)
49,8 61,2
Thời gian tuần hoàn ngoài cơ
thể trung bình (phút)
71,4 84,2
Thời gian thở máy trung bình
(giờ)
11,7 10,8
Thời gian nằm hồi sức trung
bình (ngày)
1,7 1,4
Lượng máu mất trung bình
trong 24 giờ đầu (ml)
354 272
Bảng 3. Biến chứng sau phẫu thuật
Biến số
Nhóm nửa
trên xương
ức
Nhóm mở
ngực liên
sườn II
Tử vong sớm 0 0
Tai biến mạch máu não không
hồi phục
1 0
Chảy máu phải mổ lại 1 0
Suy thận cần chạy thận nhân tạo 0 0
Suy tim sau mổ cần IABP 0 0
Chuyển mổ hở 0 0
Hẹp động mạch đùi 0 1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
55
BÀN LUẬN
Phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn
tiếp tục nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng bác
sĩ phẫu thuật. Các lợi ích của phương pháp này
so với đường tiếp cận giữa xương ức kinh điển
không được đầy đủ do đa số các nghiên cứu
không có so sánh giữa 2 nhóm với nhau. Nghiên
cứu của chúng tôi cũng không có sự so sánh
giữa các đường tiếp cận ít xâm lấn so với đường
mở ngực giữa xương ức. Tuy vậy, giữa nhóm
đường mở ngực nửa trên xương ức và đường
mở ngực liên sườn II có tồn tại 1 số sự khác biệt.
Bảng 4. Ưu và nhược điểm của hai đường tiếp cận ít
xâm lấn
Đường mở nửa trên
xương ức
Đường mở liên sườn II
bên phải
Ưu điểm - Đơn giản
- Dễ thực hiện.
- Đầu tư ít
- Đường cong huấn
luyện ngắn hơn
- Không đòi hỏi về giải
phẫu
- Giảm đau, giảm chảy
máu.
- Thẩm mỹ cao.
- Thời gian thở máy và
thời gian nằm hồi sức
ngắn hơn.
Nhược
điểm
- Đau nhiều hơn, nguy
cơ chảy máu cao hơn.
- Tính thẩm mỹ không
khác nhiều so với
đường mở ngực kinh
điển.
- Thời gian thở máy và
nằm hồi sức dài hơn.
- Phức tạp, đòi hỏi bộ
dụng cụ ít xâm lấn chuyên
biệt
- Khó thực hiện hơn.
- Đầu tư nhiều hơn
- Đường cong huấn luyện
nhiều hơn.
- Đòi hỏi 1 số yêu cầu về
giải phẫu
Nhóm phẫu thuật qua đường mở ngực nửa
trên xương ức có thời gian kẹp động mạch chủ
và thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể ngắn
hơn so với nhóm phẫu thuật qua liên sườn II. Lý
giải điều này, chúng tôi cho rằng khi so sánh với
đường mở ngực giữa xương ức kinh điển, sự
thay đổi kĩ thuật và phẫu trường của đường mở
ngực nửa trên xương ức là không nhiều. Kể cả
những thay đổi về dụng cụ phẫu thuật. Vì vậy
ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ
triển khai, không cần phải đầu tư nhiều về kinh
phí cũng như đường cong học tập. Ngược lại,
đường mở ngực liên sườn II có sự thay đổi đáng
kể về kĩ thuật cũng như phẫu trường, đòi hỏi bác
sĩ phẫu thuật phải có cách bộc lộ thật tốt phẫu
trường trước khi bắt đầu thay van để tránh
những biến chứng gây ra do quan sát hạn chế.
Đường tiếp cận này đòi hỏi bộ dụng cụ phẫu
thuật ít xâm lấn chuyên biệt, giá thành cao và
đường cong huấn luyện dài hơn so với đường
mở ngực nửa trên xương ức. Đây là nhược điểm
của phương pháp này(3) (Bảng 4).
Balmforth và cộng sự cũng nhận thất hai
đường tiếp cận ít xâm lấn cho thay van động
mạch chủ không có sự khác biệt về tỉ lệ tử vong
sớm. Tuy vậy, đường mở ngực liên sườn II giảm
thời gian nằm hồi sức và thời gian nằm viện dù
thời gian chạy máy tim phổi nhân tạo và thời
gian kẹp động mạch chủ dài hơn so với đường
mở nửa trên xương ức(2).
Các nghiên cứu so sánh giữa phẫu thuật van
động mạch chủ ít xâm lấn và đường tiếp cận ít
xâm lấn đều cho thấy đường tiếp cận ít xâm lấn
không làm tăng tỉ lệ tử vong và tỉ lệ tai biến
mạch máu não, làm giảm thời gian thở máy và
thời gian nằm hồi sức cũng như cải thiện mức độ
hài long của bệnh nhân về vấn đề thẩm mỹ, nhất
là đối với đường tiếp cận liên sườn II bên phải.
Tuy vậy, cũng giống như các phẫu thuật ít xâm
lấn khác, nhược điểm của đường tiếp cận này là
kéo dài thời gian kẹp động mạch chủ và thời
gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể. Tỉ lệ chuyển
mổ hở dao động trong khoảng 0 – 5% và tỉ lệ tử
vong nằm trong khoảng từ 0 đến 5%(1,10,15).
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến lựa
chọn đường tiếp cận ít xâm lấn là tỉ lệ tai biến
mạch máu não. Một số tác giả báo cáo tỉ lệ tai
biến mạch máu não tăng cao hơn khi sử dụng
tuần hoàn ngoài cơ thể ngược dòng từ động
mạch đùi(5). Trong nghiên cứu của chúng tôi,
nhóm phẫu thuật qua liên sườn II bên (P) không
có trường hợp nào tai biến mạch máu não, và
nhóm tiếp cận qua đường mở nửa trên xương ức
có 1 trường hợp, kết quả này không tương đồng
với các tác giả khác trên thế giới, tuy vậy, do số
liệu còn ít nên chưa thể nhận định khách quan
hoặc thực hiện so sánh giữa hai nhóm. Tuy vậy,
để tránh biến chứng do tuần hoàn ngoài cơ thể
ngược dòng, chúng tôi thực hiện chụp cắt lớp vi
tính có bơm thuốc cản quang đối với những
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
56
trường hợp có ít nhất 1 yếu tố nguy cơ tim mạch
để tầm soát mảng xơ vữa nguy cơ cao. Các mảng
xơ vữa nguy cơ cao được chia thành 5 mức độ
(Bảng 5).
Bảng 5. Phân độ mảng xơ vữa trên động mạch chủ(20)
Phân độ Mô tả
Độ I Không có dày nội mạc động mạch hoặc dày
rất ít
Độ II Dày nội mạc động mạch chủ 1 – 3.9 mm,
không có mảng vữa (atheroma)
Độ III Mảng vữa < 4mm
Độ IV Dày nội mạc hoặc mảng vữa > 4 mm
Độ V Mảng vữa di động cao hoặc loét.
Trong trường hợp phát hiện ra mảng xơ vữa
nguy cơ cao (độ IV, độ V), chúng tôi sẽ chọn lựa
đường mở ngực nửa trên xương ức để tránh
tuần hoàn ngoài cơ thể ngược dòng có thể gây
tăng nguy cơ tai biến mạch máu não.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỉ lệ tai
biến và biến chứng sau mổ thấp, tương đồng với
các nghiên cứu khác trên thế giới, qua đó cho
thấy cách tiếp cận ít xâm lấn an toàn và hiệu quả
đối với phẫu thuật van động mạch chủ trong
giai đoạn ngắn hạn. Tuy vậy, hạn chế của nghiên
cứu là số lượng bệnh nhân còn ít trong mỗi
nhóm, chưa đủ sức mạnh thống kê để đưa ra các
kết luận.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật van động mạch chủ ít xâm lấn
qua đường mở ngực nửa trên xương ức và
đường mở ngực liên sườn II bên phải an toàn và
hiệu quả, có tỉ lệ tử vong và biến chứng thấp,
thời gian thở máy và thời gian nằm hồi sức
ngắn. Việc chọn lựa bệnh nhân hợp lý và tuân
thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn phẫu
thuật sẽ giúp đem lại kết quả tốt nhất cho người
bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahangar AG, Charag AH, Wani ML, Ganie FA, Singh S, Ahmad
Qadri SA, Ahmad Shah Z (2013). Comparing Aortic Valve
Replacement through Right Anterolateral Thoracotomy with
Median Sternotomy. Int Cardiovasc Res J, 7(3):90-4.
2. Balmforth D, Harky A, Lall K, Uppal R (2017). Is
ministernotomy superior to right anterior minithoracotomy in
minimally invasive aortic valve replacement? Interact Cardiovasc
Thorac Surg, 25(5):818-821.
3. Bowdish ME, Hui DS, Cleveland JD, Mack WJ, Sinha R, Ranjan
R, Cohen RG, Baker CJ, Cunningham MJ, Barr ML, Starnes VA
(2016). A comparison of aortic valve replacement via an anterior
right minithoracotomy with standard sternotomy: a propensity
score analysis of 492 patients. Eur J Cardiothorac Surg, 49(2):456-
63.
4. Brown ML, McKellar SH, Sundt TM, Schaff HV (2009).
Ministernotomy versus conventional sternotomy for aortic
valve replacement: a systematic review and meta-analysis. J
Thorac Cardiovasc Surg, 137(3): p. 670-679 e5.
5. Cheng DC, Martin J, Lal A, Diegeler A, Folliguet TA, Nifong
LW, Perier P, et al (2011). Minimally invasive versus
conventional open mitral valve surgery: a meta-analysis and
systematic review. Innovations, 6(2):84-103.
6. Cohn LH, Adams DH, Couper GS, Bichell DP, Rosborough DM,
Sears SP, Aranki SF (1997). Minimally invasive cardiac valve
surgery improves patient satisfaction while reducing costs of
cardiac valve replacement and repair. Ann Surg, 226(4):421-6;
discussion 427-8.
7. Cooley DA (2000). Antagonist's view of minimally invasive
heart valve surgery. J Card Surg, 15(1):3-5.
8. Cosgrove DM and Sabik JF (1996). Minimally invasive approach
for aortic valve operations. Ann Thorac Surg, 62(2):596-7.
9. ElBardissi AW, Shekar P, Couper GS, Cohn LH (2011).
Minimally invasive aortic valve replacement in octogenarian,
high-risk, transcatheter aortic valve implantation candidates. J
Thorac Cardiovasc Surg, 141(2):328-35.
10. Gilmanov D, Bevilacqua S, Murzi M, Cerillo AG, Gasbarri T,
Kallushi E, Miceli A, Glauber M (2013). Minimally invasive and
conventional aortic valve replacement: a propensity score
analysis. Ann Thorac Surg, 96(3):837-43.
11. Glauber M, Ferrarini M, and Miceli A (2015). Minimally
invasive aortic valve surgery: state of the art and future
directions. Ann Cardiothorac Surg, 4(1):26-32.
12. Ito T, Maekawa A, Hoshino S, Hayashi Y (2013). Right
infraaxillary thoracotomy for minimally invasive aortic valve
replacement. Ann Thorac Surg, 96(2):715-7.
13. Lamelas J (2015). Minimally invasive aortic valve replacement:
the "Miami Method". Ann Cardiothorac Surg, 4(1):71-7.
14. Malaisrie SC, et al (2014). Current era minimally invasive aortic
valve replacement: techniques and practice. J Thorac Cardiovasc
Surg, 147(1):6-14.
15. Miceli A, Murzi M, Gilmanov D, Fugà R, Ferrarini M, Solinas M,
Glauber M (2014). Minimally invasive aortic valve replacement
using right minithoracotomy is associated with better outcomes
than ministernotomy. J Thorac Cardiovasc Surg, 148(1):133-7.
16. Neely RC, Boskovski MT, Gosev I, Kaneko T, McGurk S,
Leacche M, Cohn LH (2015). Minimally invasive aortic valve
replacement versus aortic valve replacement through full
sternotomy: the Brigham and Women's Hospital experience.
Ann Cardiothorac Surg, 4(1):38-48.
17. Nishimura RA, Otto CM, Bonow RO, Carabello BA, Erwin JP,
Fleisher LA, Jneid H, Mack MJ, McLeod CJ, O'Gara PT, Rigolin
VH, Sundt TM, Thompson A (2017). AHA/ACC Focused
Update of the 2014 AHA/ACC Guideline for the Management
of Patients With Valvular Heart Disease: A Report of the
American College of Cardiology/American Heart Association
Task Force on Clinical Practice Guidelines. Circulation,
135(25):e1159-e1195.
18. Rao PN and Kumar AS (1993). Aortic valve replacement
through right thoracotomy. Tex Heart Inst J, 20(4):307-8.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
57
19. Segesser LK, Westaby S, Pomar J, Loisance D, Groscurth P,
Turina M (1999). Less invasive aortic valve surgery: rationale
and technique. Eur J Cardiothorac Surg, 15(6):781-5.
20. Siddiqui MA, Holmberg MJ, and Khan IA (2002). High-grade
atherosclerosis of the aorta. Tex Heart Inst J, 29(1):60-1;
discussion 61-2.
21. Yan TD (2015). Mini-Bentall procedure and hemi-arch
replacement. Ann Cardiothorac Surg, 4(2):208-9.
Ngày nhận bài báo: 10/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_buoc_dau_cua_phau_thuat_thay_van_dong_mach.pdf