Tài liệu Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
58
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU
CỦA PHẪU THUẬT GỐC ĐỘNG MẠCH CHỦ ÍT XÂM LẤN
Nguyễn Thị Thu Trang*, Võ Tuấn Anh*, Phạm Trần Việt Chương*, Vũ Tam Thiện*, Vương Ngọc Minh*,
Nguyễn Hoàng Định*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật tim ít xâm lấn phát triển mạnh trên thế giới và đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân.
Số lượng phẫu thuật gốc động mạch chủ được thực hiện bằng kĩ thuật ít xâm lấn tại các nước có nền y tế phát
triển đã tăng lên đáng kể. Đề tài nhằm mục tiêu đánh giá chỉ định, các kĩ thuật thực hiện và kết quả ngắn hạn của
phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn qua đường mở ngực nửa trên xương ức và rút ra một số kinh nghiệm
trong thời gian đầu triển khai.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Đánh giá 10 trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán bệnh lý gốc
động mạch chủ và được phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh.
Kết quả: Từ tháng 10/2016 đến tháng 1...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
58
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU
CỦA PHẪU THUẬT GỐC ĐỘNG MẠCH CHỦ ÍT XÂM LẤN
Nguyễn Thị Thu Trang*, Võ Tuấn Anh*, Phạm Trần Việt Chương*, Vũ Tam Thiện*, Vương Ngọc Minh*,
Nguyễn Hoàng Định*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật tim ít xâm lấn phát triển mạnh trên thế giới và đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân.
Số lượng phẫu thuật gốc động mạch chủ được thực hiện bằng kĩ thuật ít xâm lấn tại các nước có nền y tế phát
triển đã tăng lên đáng kể. Đề tài nhằm mục tiêu đánh giá chỉ định, các kĩ thuật thực hiện và kết quả ngắn hạn của
phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn qua đường mở ngực nửa trên xương ức và rút ra một số kinh nghiệm
trong thời gian đầu triển khai.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Đánh giá 10 trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán bệnh lý gốc
động mạch chủ và được phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh.
Kết quả: Từ tháng 10/2016 đến tháng 12/2018, có 10 trường hợp phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn
qua đường mở ngực nửa trên xương ức, trong đó có 3 trường hợp phẫu thuật Tirone David và 7 trường hợp
phẫu thuật Bentall. Sau phẫu thuật, thời gian nằm hồi sức trung bình là 2,4 ngày, thời gian thở máy trung bình
là 15,7 giờ và thời gian nằm viện trung bình là 7,6 ngày. Trong giai đoạn hậu phẫu bệnh nhân nhanh chóng phục
hồi và được tập vật lý trị liệu rất sớm. Sau phẫu thuật, bệnh nhân hòa nhập sinh hoạt thường nhật tốt. Không có
trường hợp tử vong hay chuyển mổ hở nào. 01 bệnh nhân cần phẫu thuật lại do chảy máu.
Kết luận: Phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn qua đường mở ngực nửa trên xương ức thực hiện trên
10 bệnh nhân tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM cho kết quả an toàn, có hiệu quả, giảm sang chấn về thể
chất và tinh thần cho người bệnh. Kỹ thuật ít xâm lấn được áp dụng ngày càng rộng rãi và hoàn thiện, giúp củng
cố và mở rộng mối quan hệ giữa chuyên ngành Phẫu thuật Tim với chuyên ngành Nội Tim mạch. Việc chọn lựa
bệnh nhân hợp lý và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn phẫu thuật sẽ giúp đem lại kết quả tốt nhất
cho người bệnh.
Từ khóa: phẫu thuật ít xâm lấn, đường mở ngực nửa trên xương ức, phẫu thuật gốc động mạch chủ
ABSTRACT
PRELIMINARY RESULTS OF MINIMALLY INVASIVE AORTIC ROOT SURGERY
Vo Tuan Anh, Nguyen Thi Thu Trang, Pham Tran Viet Chuong, Vu Tam Thien, Vuong Ngoc Minh,
Nguyen Hoang Dinh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 – No. 6 - 2019: 58 - 64
Objectives: Minimally invasive aortic root surgery is under rapid development worldwide in recent years.
The number of this type of surgery is growing dramatically in developped countries. This study aimed to assess
the indications, techniques and short term result of minimally invasive root surgery.
Method: We reported 10 patients underwent minimally invasive aortic root surgery at the University
Medical Center at Ho Chi Minh City.
Results: From 10/2016 to 12/2018, 10 patients with aortic root disease were operated with minimally
*Khoa Phẫu Thuật Tim mạch – Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Hoàng Định ĐT: 0908 500 090 Email: nguyenhoangdinh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
59
invasive approach, including 3 Tirone David and 7 Bentall. Mean ICU time was 2.4 days, mean mechanical
ventilation time was 15.7 hours, in-hospital time was 7.6 days. In postoperative time, patients recovered quickly,
experienced less pain than normal and returned to normal activities in a short time. No mortality nor full
sternotomy conversion was recorded. 01 patient needed to be re-explored due to bleeding.
Conclusions: In our very first experiences with minimally root procedure, the early outcomes are
satisfactory with low morbidity and no mortality. The procedure is thought safe and feasible, provided that patient
selection is good and safety protocols are followed.
Key words: minimally invasive cardiac surgery, ministernotomy, aortic root surgery
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, phẫu thuật tim ít
xâm lấn đã có những bước phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ. Các lợi ích của phẫu thuật
tim ít xâm lấn đã được chứng minh từ những
năm giữa thập kỉ 90. Trong vòng 20 năm trở lại
đây, bác sĩ phẫu thuật tim mạch trên thế giới đã
phát triển và hoàn thiện kĩ thuật, trao đổi kinh
nghiệm chuyên môn. Kỹ thuật mổ tim ít xâm lấn
đã được tối ưu hóa, đem lại kết quả rất tốt và
đảm bảo được độ an toàn cho bệnh nhân so với
phẫu thuật tim kinh điển.
Phình gốc động mạch chủ là một bệnh lý
phức tạp, đòi hỏi các ê-kíp giàu kinh nghiệm
trong phẫu thuật tim mạch mới có thể tiếp cận
và điều trị hiệu quả và không có những biến
chứng đáng tiếc. Chính vì vậy, việc áp dụng
đường tiếp cận ít xâm lấn trong việc điều trị
phình gốc động mạch chủ không dễ dàng,
nhưng nếu có thể ứng dụng thành công có thể
đem lại rất nhiều lợi ích cho người bệnh.
Có nhiều đường tiếp cận trong phẫu thuật
tim ít xâm lấn: đường mở ngực bên bên phải,
đường mở ngực trước bên trái, đường mở một
phần xương ức (nửa trên hoặc nửa dưới). Đường
mở ngực nửa trên xương ức là đường tiếp cận
phù hợp với bệnh lý gốc động mạch chủ vì có
thể bộc lộ rõ ràng cấu trúc này, động mạch chủ
ngực lên và một phần quai động mạch chủ. Vì
vậy, bác sĩ phẫu thuật có thể dễ dàng tiếp cận và
thực hiện các thao tác điều trị với một phẫu
trường đủ rộng mà không bị ảnh hưởng.
Tại Việt Nam, có một số cơ sở ở phía Bắc và
phía Nam, trong đó Trung tâm Tim mạch Bệnh
viện Đại học Y Dược TP.HCM là một trong
những đơn vị đầu tiên triển khai thành công
phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn qua
đường mở ngực nửa trên xương ức. Chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá chỉ
định, kĩ thuật và kết quả bước đầu sau 02 năm
thực hiện cũng như rút ra một số kinh nghiệm
để góp phần thúc đẩy sự phát triển kĩ thuật mới.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật gốc
động mạch chủ ít xâm lấn qua đường mở ngực
nửa trên xương ức tại bệnh viện Đại học Y Dược
TP.HCM.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân có phình gốc động mạch chủ với
đường kính tối đa của các xoang Valsalva ≥
55mm có hoặc không có hở van động mạch chủ
đi kèm.
Được phẫu thuật ít xâm lấn qua đường mở
ngực nửa trên xương ức.
EF > 60%, tuổi < 70, PAPs < 60mmHg.
Chức năng thất (P) tốt (TAPSE > 15mm).
Tiêu chuẩn loại trừ
Có bệnh lý tim mạch khác cần can thiệp đi
kèm: bệnh lý van hai lá, bệnh lý động mạch
vành, bệnh lý tim bẩm sinh.
Bệnh nhân đã từng phẫu thuật tim qua
đường giữa xương ức.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả loạt ca.
Trích lục dữ liệu hồ sơ bệnh án tại Khoa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
60
Phẫu Thuật Tim Mạch, Bệnh viện Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh của các bệnh nhân được
phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn qua
đường mở ngực nửa trên xương ức trong thời
gian từ tháng 10/2016 đến tháng 12/2018.
Mô tả kỹ thuật
Dụng cụ phẫu thuật
Bộ dụng cụ phẫu thuật tim ít xâm lấn gồm
bộ banh ngực, các dụng cụ mổ cán dài được
thiết kế riêng cho phẫu thuật ít xâm lấn nhằm
làm giảm mức độ choán chỗ của dụng cụ trong
phẫu trường (Hình 1).
Máy tim phổi nhân tạo Stockert S5. Cannula
tĩnh mạch đùi 2 tầng SorinTM cỡ 22Fr và 23/25
Fr, cannula động mạch đùi số 18 Fr, 20 Fr. Dụng
cụ vén mô mềm.
Hình 1. Các dụng cụ phẫu thuật ít xâm lấn
Các bước tiến hành phẫu thuật
Bệnh nhân nằm ngửa, kê một gối vải dưới
hai vai. Dán các bản điện cực sốc điện ngoài. Sát
trùng và trải khăn mổ bộc lộ toàn bộ xương ức
và vùng bẹn đùi hai bên. Bệnh nhân được theo
dõi các thông số huyết động như một trường
hợp mổ tim có tuần hoàn ngoài cơ thể thông
thường. Chúng tôi đặt nội khí quản.
Trong thời gian đầu mới triển khai, chúng tôi
thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể qua đường
ngoại vi: Rạch da 3 cm trên nếp lằn bẹn bên (P).
Bộc lộ và kiểm soát động mạch và tĩnh mạch đùi.
Dưới siêu âm tim qua thực quản, luồn dây dẫn
đầu J dài 260 mm qua tĩnh mạch đùi lên đến tĩnh
mạch chủ trên, đặt cannula tĩnh mạch hai tầng
(SorinTM) theo dây dẫn sao cho đầu trên của
cannula nằm trong tĩnh mạch chủ trên. Đặt
cannula động mạch đùi theo phương pháp
Seldinger. Khi đã quen với phẫu trường, bác sĩ
phẫu thuật có thể chọn lựa đặt cannula động
mạch chủ ở động mạch chủ ngực lên để tránh
các biến chứng của tuần hoàn ngoài cơ thể
ngược dòng.
Rạch da 5 - 8cm 2cm dưới hõm ức đến liên
sườn IV. Việc lựa chọn đi về phía bên phải hoặc
bên trái của xương ức tùy thuộc vào hình ảnh
gốc động mạch chủ trên phim chụp cắt lớp, nếu
hơn 1/2 động mạch chủ ngực lên và gốc động
mạch chủ nằm bên ngoài bờ phải xương ức,
chúng tôi chọn mở về phía bên phải. Nếu động
mạch chủ ngực lên và gốc động mạch chủ nằm
nghiêng về phía bên trái nhiều hơn, chúng tôi
chọn mở về phía bên trái (Hình 2).
Hình 2. Đường mở ngực nửa trên xương ức, đi về
bên trái nếu động mạch chủ ngực lên và gốc động
mạch chủ nằm về phía bên trái nhiều hơn(10)
Mở màng tim và treo màng tim với các mũi
chỉ treo. Bộc lộ gốc động mạch chủ, động mạch
chủ ngực lên và một phần đầu của quai động
mạch chủ. Chạy tuần hoàn ngoài cơ thể đủ lưu
lượng và hạ thân nhiệt xuống 300C. Hút thất trái
qua tĩnh mạch phổi trên phải. Kẹp động mạch
chủ, nếu bệnh nhân có hở van động mạch chủ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
61
nặng, bơm dung dịch liệt tim trực tiếp qua hai lỗ
vành; nếu van động mạch chủ kín, bơm dung
dịch liệt tim thuận dòng qua gốc động mạch
chủ. Chúng tôi sử dụng thường quy dung dịch
liệt tim Custodiol cho tất cả các trường hợp phẫu
thuật ít xâm lấn.
Sau khi bộc lộ rõ gốc động mạch chủ,
chúng tôi bóc tách hai động mạch vành, van
động mạch chủ và phần mô dưới mặt phẳng
vòng van động mạch chủ đối với phẫu thuật
Tirone David. Sau đó thực hiện phẫu thuật
Bentall: thay van động mạch chủ, thay động
mạch chủ ngực lên và cắm lại hai lỗ động
mạch vành hoặc phẫu thuật Tirone Davide:
cắm lại toàn bộ van động mạch chủ và 1 phần
các xoang Valsalva vào ống ghép, cắm lại hai
lỗ động mạch vành và thay động mạch chủ
ngực lên. Các loại phẫu thuật kinh điển đã
được mô tả kĩ lưỡng trong nhiều tài liệu, vì
vậy chúng tôi không nhắc lại ở đây (Hình 3).
Hình 3. Phẫu thuật Tirone David ít xâm lấn qua
đường mở ngực nửa trên xương ức(11)
Mở kẹp động mạch chủ cho tim đập lại. Khi
nhịp tim ổn định, cai dần tuần hoàn ngoài cơ
thể. Kiểm tra kết quả phẫu thuật bằng siêu âm
tim qua thực quản. Kiểm tra cầm máu, lưu ý đến
bó mạch ngực trong. Dẫn lưu khoang màng tim
qua xoang ngang và dẫn lưu khoang màng phổi
phải. Rút các cannula động mạch và tĩnh mạch
đùi. Tái tạo mạch máu bằng chỉ Prolene 6.0.
KẾT QUẢ
Từ tháng 10/2016 đến tháng 12/2018, có tổng
cộng 10 bệnh nhân được phẫu thuật gốc động
mạch chủ ít xâm lấn qua đường mở ngực nửa
trên xương ức. Trong đó, có 3 trường hợp được
phẫu thuật Tirone David và 7 trường hợp phẫu
thuật Bentall.
Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 45,2
tuổi, nhỏ nhất là 12 tuổi, lớn nhất là 59 tuổi. Tỉ lệ
nam:nữ là 1:1. Tất cả các bệnh nhân đều trong
giai đoạn suy tim NYHA I và II, không có
trường hợp nào suy tim nặng ở giai đoạn III và
IV. 3 trường hợp phẫu thuật Tirone David có
phình gốc động mạch chủ đơn thuần, không tổn
thương van động mạch chủ hoặc hở van động
mạch chủ nhẹ. Trong 7 trường hợp phẫu thuật
Bentall, có 3 trường hợp hẹp hở van động mạch
chủ nặng và 4 trường hợp hẹp van động mạch
chủ nặng đơn thuần, cả 7 trường hợp đều là van
động mạch chủ dạng hai mảnh (Bảng 1, 2).
Bảng 1. Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể và thời
gian kẹp động mạch chủ của các bệnh nhân
Số thứ tự
Thời gian chạy tuần hoàn
ngoài cơ thể (phút)
Thời gian kẹp động
mạch chủ (phút)
BN 1 220 183
BN 2 206 178
BN 3 210 184
BN 4 214 182
BN 5 190 169
BN 6 198 174
BN 7 186 155
BN 8 184 160
BN 9 188 158
BN 10 179 147
Trung bình 195 169
Bảng 2. Thời gian nằm thở máy và thời gian nằm hồi
sức
Số thứ tự
Thời gian thở máy
(giờ)
Thời gian nằm hồi sức
(ngày)
BN 1 16 3
BN 2 14 2
BN 3 18 3
BN 4 15 2
BN 5 14 2
BN 6 24 4
BN 7 11 2
BN 8 14 2
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
62
Số thứ tự
Thời gian thở máy
(giờ)
Thời gian nằm hồi sức
(ngày)
BN 9 17 2
BN 10 14 2
Trung bình 15,7 2,4
Không có trường hợp nào tử vong sớm trong
bệnh viện, có 1 trường hợp cần phẫu thuật lại
cầm máu do chảy máu tại bó mạch ngực trong
bên trái. 3 trường hợp Tirone David có siêu âm
tim trước xuất viện không có hẹp hở van động
mạch chủ (2 bệnh nhân) hoặc hở van động mạch
chủ nhẹ (1 bệnh nhân) (Bảng 3).
Bảng 3. Tai biến và biến chứng sớm sau phẫu thuật
Biến chứng
Số bệnh
nhân
Tỉ lệ %
Tử vong 0 0
Chảy máu cần phẫu thuật lại 1 10
Suy thận không hồi phục 0 0
Tai biến mạch máu não không
hồi phục
0 0
Tirone David thất bại do hở van
động mạch chủ
0 0
Chuyển mổ hở 0 0
Thời gian theo dõi trung bình của các bệnh
nhân là 16,3 tháng. Không có trường hợp nào
cần mổ lại vì rối loạn hoạt động của van hoặc các
nguyên nhân khác, 3 trường hợp phẫu thuật
Tirone David không có diễn tiến tăng nặng mức
độ hở van hơn. Có 2 bệnh nhân phải nhập viện
lại vì rối loạn đông máu do uống thuốc kháng
đông dạng kháng Vitamin K (Acenocoumarol).
BÀN LUẬN
Đường tiếp cận ít xâm lấn đã được ứng dụng
rộng rãi trong phẫu thuật tim. Có nhiều nghiên
cứu đã chứng minh hiệu quả của phương pháp
tiếp cận này cho bệnh lý van tim như van hai lá
và van động mạch chủ(1,6). Phương pháp ít xâm
lấn đem lại nhiều lợi ích cho người bệnh, trong
đó có thể kể đến giảm chảy máu, giảm truyền
máu, giảm thời gian nằm hồi sức, giảm thời gian
thở máy và rút ngắn thời gian trở về sinh hoạt
bình thường của bệnh nhân(1). Tuy vậy, số lượng
nghiên cứu đánh giá phẫu thuật gốc động mạch
chủ lại không nhiều và số liệu còn tương đối ít,
cho đến nay, mới chỉ có một số ít các nghiên cứu
gộp được thực hiện để đánh giá hiệu quả của
phương pháp này(3).
Theo Harky và cộng sự, phẫu thuật thay gốc
động mạch chủ ít xâm lấn là phương pháp tiếp
cận an toàn với nhiều ưu điểm, giảm tỉ lệ tử
vong sớm có ý nghĩa thống kê và không có sự
khác biệt trong tỉ lệ mổ lại do chảy máu, tai biến
mạch máu não và nhiễm trùng vết mổ khi so
sánh với đường tiếp cận toàn bộ xương ức kinh
điển. Thời gian kẹp động mạch chủ và thời gian
chạy máy tim phổi nhân tạo cũng không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai phương
pháp trên(3). Đây là một điểm rất tốt, vì thời gian
kẹp động mạch chủ kéo dài đã được chứng
minh làm tăng biến chứng tim mạch sau mổ với
tỉ lệ 1,4% cho mỗi phút kéo dài, vì vậy, lợi ích
của việc đường tiếp cận ít xâm lấn không làm
kéo dài thời gian kẹp động mạch chủ thể hiện rõ
nhất trên những bệnh nhân có chức năng thất
trái giảm và các bệnh nhân đái tháo đường(8).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian
kẹp động mạch chủ và thời gian chạy tuần hoàn
ngoài cơ thể trung bình lần lượt là 195 phút và
169 phút. Thời gian này kéo dài hơn so với các
tác giả trên thế giới, lý giải điều này, chúng tôi
cho rằng trong những trường hợp đầu tiên, thời
gian phẫu thuật sẽ kéo dài do bác sĩ phẫu thuật
cần làm quen với phẫu trường nhỏ hẹp, các
dụng cụ phẫu thuật với cấu tạo khác biệt cũng
như góc thao tác nhỏ hơn nhiều so với phẫu
thuật mở (Hình 4).
Phẫu thuật gốc động mạch chủ qua đường
mở ngực nửa trên xương ức làm giảm lượng
máu truyền, đồng thời rút ngắn thời gian nằm
hồi sức và thời gian nằm viện. Điều này cũng đã
được chứng minh tương tự đối với phẫu thuật
van hai lá ít xâm lấn qua đường mở ngực nhỏ
bên phải(2). Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời
gian nằm hồi sức và thời gian nằm viện tương
đối ngắn đối với các trường hợp phẫu thuật gốc
động mạch chủ. Tuy nhiên, do số liệu ít và
không có sự so sánh nên nghiên cứu chưa nêu
bật được ưu thế này khi so sánh với đường mở
ngực toàn bộ xương ức kinh điển.
Tuy có nhiều ưu điểm so với đường mở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
63
ngực kinh điển, một trong những hạn chế lớn
nhất của phẫu thuật ít xâm lấn là đường cong
học tập (Learning curve) kéo dài. Theo Holzhey
và cộng sự, đường cong học tập cần thiết để một
bác sĩ phẫu thuật vượt qua đối với van hai lá ít
xâm lấn là 75 đến 125 trường hợp, đồng thời cần
duy trì tần suất phẫu thuật là 2 bệnh
nhân/tuần(4). Bên cạnh đó, theo Nissen và cộng
sự, thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể và thời
gian kẹp động mạch chủ cũng sẽ giảm dần theo
thời gian, tuy vậy, mức độ giảm không nhanh
mà sẽ theo từng năm(7) (Hình 5).
Hình 4. So sánh thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể (A) và thời gian kẹp động mạch chủ (B) giữa mở ngực
nửa trên xương ức và mở ngực toàn bộ xương ức(3)
Hình 5. Thời gian kẹp động mạch chủ và thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể giảm dần theo năm ở cả van hai
lá và van động mạch chủ(7)
Cần phải lưu ý rằng các báo cáo đều được
xuất bản tại các trung tâm lớn, có số lượng ca
phẫu thuật cao và được thực hiện bởi các phẫu
thuật viên kinh nghiệm, vì vậy, sự ảnh hưởng
của đường cong học tập có thể không được rõ
nét ở các nghiên cứu này(5). Tác giả Shrestha và
cộng sự nhấn mạnh vai trò của đường cong học
tập và tác động của nó đến kết quả phẫu thuật.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
64
Từ đó, tác giả đề xuất phương pháp thực hiện
từng bước để vượt qua giai đoạn này trong phẫu
thuật gốc động mạch chủ. Nhờ vào phương
pháp này, các bác sĩ phẫu thuật còn ít kinh
nghiêm có thể tích lũy dần kinh nghiệm mà
không làm ảnh hưởng quá nhiều đến kết quả
phẫu thuật cũng như bệnh nhân(9). Số lượng
bệnh nhân mà tác giả đề nghị là 100 trường hợp.
Kết quả ban đầu của chúng tôi tương đối
khả quan, không có trường hợp tử vong nào
được ghi nhận và không có các biến chứng nguy
hiểm, ảnh hưởng đến kết quả ngắn hạn và dài
hạn của bệnh nhân. Tuy vậy, hạn chế lớn nhất
của đề tài là số liệu còn ít, thời gian theo dõi
chưa đủ lâu, vì vậy mức độ chứng cứ cung cấp
không nhiều. Nghiên cứu của chúng tôi góp
phần cho thấy tính khả thi và an toàn của phẫu
thuật thay gốc động mạch chủ qua đường mở
ngực giữa xương ức, từ đó ủng hộ bắt đầu triển
khai và mở rộng đường tiếp cận này cho các
trường hợp khó, nhằm mục đích đem lại cho
người bệnh lợi ích lớn và thúc đẩy sự hòa nhập
với xu hướng hiện nay trên thế giới.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật gốc động mạch chủ ít xâm lấn
qua đường mở ngực trái thực hiện trên 10 bệnh
nhân tại bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM cho
kết quả an toàn, có hiệu quả, giảm sang chấn về
thể chất và tinh thần cho người bệnh. Kỹ thuật ít
xâm lấn được áp dụng ngày càng rộng rãi và
hoàn thiện, giúp củng cố và mở rộng mối quan
hệ giữa chuyên ngành Phẫu thuật Tim với
chuyên ngành Nội Tim mạch. Việc chọn lựa
bệnh nhân hợp lý và tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định về an toàn phẫu thuật sẽ giúp đem lại
kết quả tốt nhất cho người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cheng DC, Martin J, Lal A, Diegeler A, Folliguet TA, Nifong
LW, Perier P, Raanani E, Smith JM, Seeburger J, Falk V (2011).
Minimally invasive versus conventional open mitral valve
surgery: a meta-analysis and systematic review. Innovations,
6(2):84-103.
2. Grant SW, Graeme LH, Paul M, Steven H, Enoch A, Joseph Z
(2019). Propensity-matched analysis of minimally invasive
approach versus sternotomy for mitral valve surgery. Heart,
105(10):783-789.
3. Harky A, Al-Adhami A, Chan JSK, Wong CHM, Bashir M
(2018). Minimally Invasive Versus Conventional Aortic Root
Replacement - A Systematic Review and Meta-Analysis. Heart
Lung Circ, doi: 10.1016/j.hlc.2018.10.023.
4. Holzhey DM, Seeburger J, Misfeld M, Borger MA, Mohr FW
(2013). Learning minimally invasive mitral valve surgery: a
cumulative sum sequential probability analysis of 3895
operations from a single high-volume center. Circulation,
128(5):483-91.
5. Hughes GC, Zhao Y, Rankin JS, Scarborough JE, O'Brien S,
Bavaria JE, Wolfe WG, Gaca JG, Gammie JS, Shahian DM, Smith
PK (2013). Effects of institutional volumes on operative
outcomes for aortic root replacement in North America. J Thorac
Cardiovasc Surg, 145(1):166-70.
6. Johnston DR, et al (2012). Outcomes of less invasive J-incision
approach to aortic valve surgery. J Thorac Cardiovasc Surg,
144(4):852-858.
7. Nissen AP, Nguyen S, Abreu J, Nguyen TC (2019). The first 5
years: Building a minimally invasive valve program. J Thorac
Cardiovasc Surg, 157(5):1958-1965.
8. Ranucci M, Frigiola A, Menicanti L, Castelvecchio S, de
Vincentiis C, Pistuddi V (2012). Aortic cross-clamp time, new
prostheses, and outcome in aortic valve replacement. J Heart
Valve Dis, 21(6):732-9.
9. Shrestha M, Krueger H, Umminger J, Koigeldiyev N, Beckmann
E, Haverich A (2015). Minimally invasive valve sparing aortic
root replacement (David procedure) is safe. Ann Cardiothorac
Surg, 4(2):148-53.
10. Yan TD, Mini-Bentall procedure and hemi-arch replacement.
Ann Cardiothorac Surg, 2015. 4 (2): p. 208-9.
11. Yan TD (2015). Mini-Bentall procedure. Ann Cardiothorac Surg,
4(2):182-90.
Ngày nhận bài báo: 10/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_buoc_dau_cua_phau_thuat_goc_dong_mach_chu_i.pdf