Tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm Sumilarv 0,5G ở thực địa trong phòng chống véc tơ lây truyền sốt xuất huyết dengue, zika và chikungunya: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 51
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SUMILARV 0,5G
Ở THỰC ĐỊA TRONG PHÒNG CHỐNG VÉC TƠ LÂY TRUYỀN
SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE, ZIKA VÀ CHIKUNGUNYA
Bùi Thanh Phú*, Nguyễn Thành Đông*, Trịnh Công Thức*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh sốt xuất huyết hiện chưa có vắc xin và thuốc điều trị đặc hiệu, nên việc phòng chống chủ
yếu diệt véc tơ truyền bệnh là chính. Phương pháp sử dụng Sumilarv 0,5g, gây ức chế các giai đoạn phát triển
của bọ gậy/quăng Aedes trong các loại dụng cụ chứa nước nhằm làm giảm sự phát triển của quần thể muỗi
trưởng thành và hạn chế sự lây lan tại cộng đồng.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm Sumilarv 0,5g ở thực địa trong phòng chống véc tơ lây
truyền sốt xuất huyết dengue, Zika và Chikungunya.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp thực địa có đối chứng trước sau, đối tượng nghiên cứu là
(muỗi, bọ gậy Aedes, hộ gia đình và sản phẩm Sumilarv 0,5...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 387 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm Sumilarv 0,5G ở thực địa trong phòng chống véc tơ lây truyền sốt xuất huyết dengue, zika và chikungunya, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 51
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SUMILARV 0,5G
Ở THỰC ĐỊA TRONG PHÒNG CHỐNG VÉC TƠ LÂY TRUYỀN
SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE, ZIKA VÀ CHIKUNGUNYA
Bùi Thanh Phú*, Nguyễn Thành Đông*, Trịnh Công Thức*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh sốt xuất huyết hiện chưa có vắc xin và thuốc điều trị đặc hiệu, nên việc phòng chống chủ
yếu diệt véc tơ truyền bệnh là chính. Phương pháp sử dụng Sumilarv 0,5g, gây ức chế các giai đoạn phát triển
của bọ gậy/quăng Aedes trong các loại dụng cụ chứa nước nhằm làm giảm sự phát triển của quần thể muỗi
trưởng thành và hạn chế sự lây lan tại cộng đồng.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm Sumilarv 0,5g ở thực địa trong phòng chống véc tơ lây
truyền sốt xuất huyết dengue, Zika và Chikungunya.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp thực địa có đối chứng trước sau, đối tượng nghiên cứu là
(muỗi, bọ gậy Aedes, hộ gia đình và sản phẩm Sumilarv 0,5g). Cỡ mẫu thực hiện: 300 hộ gia đình/điểm.
Kết quả: Tỉ lệ bọ gậy và quăng chết 95% - 100% sau 15 ngày tiếp xúc với Sumilarv, hiệu quả này duy trì
được 4 đến 5 tháng ở những dụng cụ chứa nước có bọ gậy trong nhà (lọ hoa) và 2 đến 3 tháng ở những dụng cụ
chứa nước ngoài nhà (lốp xe, chậu cảnh, phế thải khó súc rửa). Các chỉ số sau can thiệp: DI = 0,11 so với trước
can thiệp 0,48; HI = 9% so với trước can thiệp32%; HIL = 5% so với trước can thiệp 45% và BI = 6 so với trước
can thiệp 110.
Kết luận: Với chế phẩm Sumilarv 0,5g, sử dụng nồng độ từ 0,01- 0,05mg/l cho thấy tỉ lệ tiêu diệt bọ gậy 95-
100% sau hai tuần tiếp xúc là rất hiệu quả. Kết quả này cần được áp dụng rộng rãi với những địa phương có sử
dụng các dụng cụ như: Lọ hoa, chậu cây cảnh, lốp xe, phế thải khó súc rửa.
Từ khóa: đánh giá hiệu quả Sumilarv 0,5g tại thực địa
ABSTRACT
APPRAISING THE EFFICIENCY OF USING CHEMICAL SUMILARV 0,5g IN THE FIELD FOR
PREVENTING VECTOR TRANSMISSION OF DENGUE FEVER, ZIKA AND CHIKUNGUNYA
Bui Thanh Phu, Nguyen Thanh Dong, Trinh Cong Thuc
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 51 – 57
Background: Dengue fever has not yet had specific vaccines and treatment drugs, so the prevention of
the disease mainly is to kill the vector of disease. Using Sumilarv 0,5g, which inhibits the development stages
of Aedes larvae/pupe in water containers, reduces the growth of adult mosquito population and limiting
community spread.
Objecctives: To appraise the effectiveness of using Sumilarv 0,5g in the field in the prevention of vectors of
dengue, Zika and Chikungunya.
Methods: Researching on previous controlled field intervention, research subjects included mosquitoes,
Aedes larvae, households and Sumilarv 0,5g. Sample size: 300 households/point.
Results: There were 95% - 100% mortality of larvae and tosses after 15 days of their contact with Sumilarv.
This effect was maintained for 4 to 5 months in indoor water beetles (flower vases) and 2 to 3 months in outdoor
*Viện Pasteur Nha Trang
Tác giả liên lạc: CN. Bùi Thanh Phú ĐT: 0989446255 Email: phu79pasteur@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 52
water containers (tires, ornamental pots, hard-to-wash wastes). After intervention: DI=0.11, HI=9%, HIL=5%
and BI=6 compared with before-intervention results (DI=0.48; HI = 32%; HIL=45%, and BI = 110, respectively).
Conclusion: Sumilarv 0,5g, using a concentration of 0.01-0.05 mg/l, showed that the 95-100% rate of
killing larvae after two weeks of exposure was very effective. This result should be widely applied to localities that
use tools such as flower vases, bonsai pots, tires and wastes.
Keywords: the effectiveness of Sumilarv 0,5g in the field
ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác phòng chống dịch sốt xuất huyết
hiện nay gặp nhiều khó khăn và thách thức, đã
triển khai nhiều biện pháp phòng chống véc tơ
nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm ở cộng đồng.
Một trong những biện pháp làm giảm véc tơ
thường sử dụng là hóa chất phun không gian
(ULV), nó mang lại hiệu quả tức thì trong trường
hợp dịch đang tăng cao và khả năng lan truyền
ra nhiều địa bàn, tuy nhiên biện pháp này cũng
tốn kém và ảnh hưởng tới một số sinh vật cảnh
tự nhiên trong môi trường. Để làm giảm vòng
đời phát triển của muỗi trưởng thành và cắt đứt
chu kỳ sinh sản của chúng bằng phương pháp
sử dụng chế phẩm Sumilarv 0,5g, được Tổ chức
Y tế Thế giới đánh giá và chứng nhận Sumilarv
0,5g chứa pyriproxyfen 0,5% có tác dụng diệt ấu
trùng muỗi và an toàn cho con người. Tại Việt
Nam, Bộ Y tế cấp phép lưu hành từ năm 2010,
với mục đích diệt lăng quăng/bọ gậy và không
được phép sử dụng trong nước sinh hoạt, nhưng
đến nay chưa vẫn có một nghiên cứu nào thực
hiện tại cộng đồng để đánh giá hiệu quả của chế
phẩm này. Năm 2016, Viện Sốt rét – Ký sinh
trùng – Côn trùng Quy Nhơn đã tiến hành thử
nghiệm ở một số điểm tại Bình Định cho thấy
kết quả có hiệu lực ức chế của pyriproxyfen trên
bọ gậy Aedes aegypti ở cả hai chủng labo và thực
địa. Tại nồng độ 0,01 mg/l và 0,02 mg/l thì hiệu
lực ức chế ban đầu xảy ra chậm và tỉ lệ >90% vào
ngày thứ 14 đến 16, với nồng độ 0,03 mg/l và
0,04mg/l, hiệu lực ức chế ban đầu đạt 100% vào
ngày tứ 8–10(1). Năm 2014 tại phòng thí nghiệm
Khoa Kiểm soát véc tơ truyền bệnh và Kiểm
dịch, Viện Pasteur Nha Trang đã tiến hành thí
nghiệm để đánh giá hiệu quả diệt ấu trùng muỗi
Aedes aegypti với sản phẩm Sumilarv 0,5g ở nồng
độ (0,01-0,05 ppm ai=2 g-10 g/m3 Sumilarv 0,5g).
Tỉ lệ trung bình ức chế của ấu trùng muỗi Aedes
aegypti là 100% sau tiếp xúc 4 tuần, tỉ lệ này kéo
dài liên tục trong 3-4 tháng được theo dõi tại
phòng thí nghiệm. Những con bọ gậy sau khi
tiếp xúc với Sumilarv 0,5g ở nồng độ 0,01 ppm
đều chỉ có thể phát triển đến giai đoạn bọ gậy và
quăng rồi chết luôn, không có khả năng phát
triển thành muỗi tiếp trưởng thành(4).
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm
Sumilarv 0,5g ở thực địa trong phòng chống véc
tơ lây truyền sốt xuất huyết Dengue, Zika và
Chikungunya.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu
Dụng cụ chứa nước có bọ gậy Aedes tại các
hộ gia đình và sản phẩm Sumilarv 0,5g.
Phương pháp nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu
Tháng 8/2017 đến 8/2018.
Địa điểm nghiên cứu
Điểm can thiệp (thả hóa chất Sumilavr 0,5g):
Thôn Phú Ân Nam 1, Phú Ân Nam 2 và thôn
Phú Ân Nam 3 thuộc xã Diên An huyện Diên
Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Điểm chứng (Không thả hóa chất Sumilavr
0,5g): Phú Ân Nam 4, Phú Ân Nam 5 và thôn Võ
kiện.
Tiêu chí chọn điểm can thiệp và điểm chứng
Có các đặc điểm tương đồng về điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Dụng cụ chứa nước tương đồng, phù hợp
theo yêu cầu để thả hóa chất Sumilarv 0,5g.
Có bệnh nhân mắc sốt xuất huyết cao so với
các xã khác trong huyện.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 53
Có sự lưu hành của muỗi Aedes tại địa bàn,
đội ngũ cán bộ y tế nhiệt tình, có đủ năng lực
đáp ứng các hoạt động của nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Đây là nghiên cứu thử nghiệm can thiệp
cộng đồng để kiểm định hiệu hai tỉ lệ của hai
mẫu nên ta dùng công thức:
n: cỡ mẫu cho mỗi nhóm can thiệp và nhóm
chứng
Zx: giá trị phân phối chuẩn tại phân vị x.
: ngưỡng xác suất sai lầm loại 1. cho = 0,05
nên Z(1-α/ 2) = 1,96.
: ngưỡng xác suất sai lầm loại 2. cho β= 0,10,
Z(1-β) = 1,28).
P1, P2: tỉ lệ tương ứng ở hai dân số.
P1: tỉ lệ hộ gia đình có bọ gậy trước can thiệp
tại điểm can thiệp (P1=0,45).
P2: tỉ lệ hộ gia đình có bọ gậy sau can thiệp
tại điểm can thiệp (P2 = P1/2=0,225).
Cỡ mẫu theo tính toán là 91 hộ gia đình được
điều tra cho mỗi nhóm, vì chọn mẫu cụm nên số
hộ gia đình điều tra véc tơ là: 91*3 (hệ số thiết kế)
= 273 hộ (với đơn vị cụm là thôn). Làm tròn sẽ
điều tra 300 hộ gia đình. Như vậy, mỗi thôn sẽ
tiến hành điều tra thu thu thập muỗi và bọ gậy
tại 100 hộ gia đình.
Kỹ thuật chọn mẫu
Bước 1
Chọn có chủ đích 3 thôn (Phú Ân Nam 1,
Phú Ân Nam 2 và Phú Ân Nam 3), tại điểm đối
chứng cũng chọn 3 thôn (Phú Ân Nam 4, Phú
Ân Nam 5 và thôn Võ Kiện) có điều kiện và các
dụng cụ chứa nước tương đồng như nhau, thuộc
xã Diên An huyện Diên Khánh tỉnh Khánh Hòa.
Bước 2
Lập danh sách toàn bộ hộ gia đình tại các
thôn được chọn.
Bước 3
Chọn ngẫu nhiên 100 hộ gia đình/thôn,
tương đương (300 hộ/điểm) để thu thập toàn bộ
muỗi và bọ gậy (số hộ được chọn dùng để điều
tra đánh giá định kỳ về hiệu quả can thiệp).
Phân tích số liệu và viết báo cáo
Số liệu được làm sạch, nhập liệu bằng phần
mềm Epidta.
Kết quả được trình bày dưới dạng các bảng,
biểu đồ thích hợp và phân tích bằng phần mềm
thống kê R, sử dụng các kiểm định Chi bình
phương Pearson, T-test và Kiểm định phi tham
số Mann-Whytney để đánh giá hiệu quả trước
sau can thiệp.
KẾT QUẢ
Đánh giá hiệu quả Sumilarv 0,5g trong quá
trình can thiệp
Tại điểm can thiệp
Tại điểm can thiệp, các chỉ số trước khi thả
hóa chất nhìn chung cao hơn so với các chỉ số
sau khi được thả hóa chất vào các CCCN. Đợt
điều tra thứ 4, đầu tháng 11/2017 do thời tiết
(bảo số 12-Damrey) đã làm thay đổi hoàn toàn
những DCCN tự nhiên và nhân tạo. Các dụng
cụ khác như mái tôn lợp nhà, máng nước bị hư,
bạt phủ các vật dụng, tỉ lệ nhiễm bọ gậy lên tới
(66,7%) và ảnh hưởng theo đó là các DCCN
được can thiệp ở ngoài nhà đã tăng trở lại như
chậu cây bon sai tăng hơn ban đầu (50%), phế
thải xuất hiện rải rác khắp nơi cũng chiếp tỉ lệ
(33%) và lốp xe (12,5%). Đối với lọ hoa tăng (7%)
thường gặp phải những nhà bị ảnh hưởng nặng
của bão, lý do thay nước hoặc thay lọ hoa mới và
bọ gậy xuất hiện trở lại. Đợt kiểm tra này bắt
buộc phải can thiệp Sumilarv 0,5g lại từ đầu và
bổ sung Sumilarv vào những DCCN có bọ gậy
khác, nhằm khống chế các chỉ số mật độ muỗi
(DI) và chỉ số (BI) xuống mức thấp nhất (Bảng 1).
So sánh với điểm thử nghiệm, tại điểm
chứng các chỉ số điều tra lúc ban đầu nhìn chung
cao hơn và các chỉ số này được duy trì tương đối
cao qua các đợt điều tra từ đợt 1 cho đến đợt 9
(tháng 8/2018). Riêng tháng 11/2017, cũng do ảnh
hưởng về thời tiết đã làm gia tăng các DCCN có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 54
bọ gậy dẫn đến các chỉ số muỗi và bọ gậy tăng
cao đến mức báo động.
Tỉ lệ nhà có muỗi ở đợt điều tra sau khi đã
thả Sumilarv là 9,3% thấp hơn so với thời điểm
chưa thả hóa chất 33,0%, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p <0,001). Tỉ lệ hộ gia đình có
muỗi sau khi được thả hóa chất vào các dụng cụ
chứa nước (không phải nước sinh hoạt) đã giảm
được 26%. Như vậy cứ 4 nhà được thả chế phẩm
Sumilarv thì sẽ có 1 nhà không có muỗi. Tỉ lệ
nhà có bọ gậy ở đợt điều tra trước khi thả
Sumilarv (50,7%), cao hơn so với đợt điều tra sau
khi thả hóa chất (3%), sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với (p <0,001). Tỉ lệ hộ gia đình có
bọ gậy sau khi được thả Sumilrv vào các dụng
cụ chứa nước đã giảm được 49%. Cứ 2 nhà thả
Sumilarv sẽ có 1 nhà không có bọ gậy (Bảng 2).
Bảng 1: So sánh các chỉ số điều tra tại điểm chứng và điểm can thiệp Sumilarv 0,5g
Chỉ số
Trước can
thiệp
Quá trình can thiệp chế phẩm Sumilarv 0,5g tại điểm can thiệp
T.8/2017 T.9/2017 T.10/2017 T.11/2017 T.1/2018 T.3/2018 T.5/2018 T.7/2018 T.8/2018
DI 0,48 0,21 0,08 0,40 0,14 0,12 0,10 0,11 0,11
HI% 32 13 8,7 27 10 10 9,7 10 9
HIL% 45 12 7 39 11 6 7 4 5
BI 110 12 7 81 12 6 7 6 6
Chỉ số Quá trình điều tra các chỉ số tại điểm chứng
DI 0,53 0,54 0,60 0,76 0,57 0,54 0,56 0,57 0,58
HI% 45 43 45 49 46 42 45 44 43
HIL% 62 57 54 56 48 43 46 46 55
BI 103 96 90 115 94 90 90 96 91
Bảng 2: Nhà có muỗi và bọ gậy trước và sau khi thả chế phẩm Sumilarv (tháng 8/2017 so với tháng 8/2018)
Nội dung
Sau khi thả
Sumilarv (n=300)
Trước khi thả Sumilarv
(n=300) P
RR
(KTC95%)
AR%
(KTC95%)
NNT
Tần số % Tần số %
Nhà có muỗi
<0,001
4,2 Có 28 9,3 99 33,0 0,28 0,26
Không 272 90,7 201 67,0 (0,19-0,42) (0,25-0,28)
Nhà có bọ gậy
<0,001
2,1 Có 9 3,0 152 50,7 0,06 0,49
Không 291 97,0 148 49,3 (0,03-0,11) (0,47-0,51)
Tỉ lệ dụng cụ chứa nước có bọ gậy ở đợt điều
tra trước khi thả Sumilarv là (31,2%) trong đó
(n=970 và n=970 là tổng số DCCN điều tra tai hai
điểm), cao hơn so với đợt điều tra sau khi kết
thúc thả Sumilarv (1%), sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với (p <0,001). Tỉ lệ DCCN có bọ
gậy sau khi được thả Sumilarv giảm 31%. Cứ 3
DCCN được thả sẽ có 1 dụng cụ không có bọ
gậy (Bảng 3).
Số lượng muỗi ở đợt điều tra sau khi kết
thúc thả hóa chất (0,11 con/nhà) ít hơn so với đợt
điều tra chưa được thả hóa chất (0,48 con/nhà).
Số lượng dụng cụ chứa nước có bọ gậy cũng
giảm đáng kể sau khi thả Sumilarv và sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 4).
Bảng 3: Dụng cụ chứa nước có bọ gậy ở điểm can thiệp (trước và sau khi thả Sumilarv)
Nội dung
Sau khi thả
Sumilarv (n=907)
Trước khi thả Sumilarv
(n=970) P
RR
(KTC95%)
AR%
(KTC95%)
NNT
Tần số % Tần số %
Dụng cụ chứa nước có bọ gậy
Có 9 1,0 303 31,2
<0,001
0,03 0,31
3,3
Không 898 99,0 667 68,8 (0,02–0,06) (0,29-0,32)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 55
Bảng 4: Mối liên quan giữa số lượng muỗi và số lượng dụng cụ chứa nước có bọ gậy trước và sau khi thả hóa chất
Nội dung
Sau khi thả Sumilarv Trước khi thả Sumilarv
P Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
N Trung bình
Độ lệch
chuẩn
N
Số lượng muỗi 0,11 0,38 300 0,48 0,86 300 0,00*
Số lượng dụng cụ chứa nước có bọ gậy 0,03 0,17 300 1,01 1,75 300 0,00*
(*Kiểm định Mann-Whitney)
Bảng 5: So sánh nhà có muỗi, nhà có bọ gậy và dụng cụ chứa nước có bọ gậy tại điểm chứng trước và sau khi
triển khai
Nội dung Sau khi kết thúc
(tháng 8/2018)
Trước triển khai
(tháng 8/2017)
P PR (KTC 95%)
Tần số % Tần số %
Nhà có muỗi
Có 112 80,0 108 77,1 0,56 1,03 (0,92 – 1,17)
Không 8 5,7 10 7,1
Nhà có bọ gậy
Có 61 43,6 62 44,3 0,90 0,98 (0,8 – 1,3)
Không 17 12,1 27 19,3
Dụng cụ chứa nước có bọ gậy
Có 73 52,1 70 50,0 0,72 1,04 (0,8 – 1,3)
Không 56 40,0 51 36,4
Tỉ lệ nhà có muỗi trước triển khai (77,1%) so
với sau khi kết thúc (80%), nhà có bọ gậy trước
triển khai (44,3%) so với sau triển khai (43,6%) và
dụng cụ chứa nước có bọ gậy trước triển khai
(50%) so với sau khi kết thúc triển khai (52,1%).
Như vậy, tỉ lệ cho thấy các điểm điều tra ở hộ gia
đình của điểm chứng hầu như không thay đổi
(Bảng 5).
BÀN LUẬN
Thực địa nghiên cứu đã chứng minh
Sumilarv 0,5g có hiệu quả cao trong phòng
chống bọ gậy/quăng ở các DCCN không phải là
nước sinh hoạt, thời gian tồn tại chế phẩm lâu
trong mỗi dụng cụ nên rất dễ dàng kiểm soát
được quần thể muỗi hoạt động. Biện pháp can
thiệp sau 9 đợt đã làm giảm quần thể véc tơ tại
điểm nghiên cứu rất rõ ràng, mật độ muỗi đã hạ
thấp với DI (0,08–0,21) so với trước can thiệp là
0,48 con/nhà và tỉ lệ nhà có muỗi cũng giảm và
đạt 88%. Tỉ lệ nhà có bọ gậy trước can thiệp 45%
nhưng sau can thiệp thì tỉ lệ cũng giảm xuống
5% đến 6% trong các đợt điều tra. Chỉ số BI tại
các thời điểm điều tra cho thấy các DCCN có bọ
gậy đã giảm đáng kể, trung bình BI <10 đã duy
trì liên tục trong quá trình can thiệp, tuy nhiên
trong tháng 11/2017 đã có sự cố về thời tiết làm
gia tăng các dụng cụ can thiệp Sumilarv và
nhiều dụng cụ khác nên BI rất cao >80.
Như vậy qua 9 đợt điều tra và can thiệp các
chỉ số dùng để đánh giá ngưỡng gây dịch sốt
xuất huyết đã giảm, thực tế trong tháng 8/2018 là
đợt điều tra cuối cùng để đánh giá hiệu quả can
thiệp của Sumilarv và các chỉ số lần lượt là
DI=0,11; HI=9%; HIL=5% và BI=6 điều này chứng
tỏ rằng Sumilarv đáp ứng tốt trong môi trương
tự nhiên và nhân tạo đối với các loại dụng cụ có
bọ gậy. Hiệu quả làm ức chế sự phát triển và tiêu
diệt bọ gậy/quăng đối với Sumilarv 0,5g trong
các DCCN có bọ gậy là cao đối với hàm lượng
pyriproyfen 0,5%, với nồng độ từ 0,01-0,05 mg/l
ppm. Kết quả cho thấy 5 loại DC được chọn để
thả chế phẩm Sumilarv 0,5g (lọ hoa, lốp xe, chậu
bon sai, phế thải và dụng cụ khác) sau một tháng
tiếp xúc, số lượng bọ gậy đã bị tiêu diệt hoàn
toàn đối với những dụng cụ đã thả. Đối với
những DC trong nhà như lọ hoa qua theo dõi
từng đợt điều tra cho thấy sự tồn tại của
Sumilarv rất cao, thời gian xuất hiện bọ gậy trở
lại từ 3-4 tháng, nhưng cũng có những lọ hoa có
bọ gậy chỉ sau 2 tháng hoặc sớm hơn. Nguyên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 56
nhân là do người dân thay nước để thờ cúng làm
cho chế phẩm Sumilarv loãng dần nên việc xuất
hiện bọ gậy sớm hơn là hoàn toàn hợp lý. Cũng
một lý do khác là trong quá trình thả thì số
lượng Sumilarv vô tình dính vào cây hoa nên
hàm lượng hoạt chất giảm, từ đó có thể dẫn tới
việc muỗi thích nghi với nồng độ nước và đẻ
trứng để tiếp tục một chu kỳ mới. Các dụng cụ
có bọ gậy ngoài nhà như lốp xe, chậu bon sai, các
dụng cụ khác và những phế thải khó súc rửa thì
việc áp dụng thả Sumilarv được xem là rất hiệu
quả, kết quả theo dõi sau thời gian 1 tháng 2
tháng thậm chí có những dụng cụ còn kéo dài
trên 3 tháng vẫn đáp ứng tốt khả năng không
thấy bọ gậy phát triển. Kết quả nghiên cứu của
đề tài đã xác định được hiệu lực ức chế và tồn
lưu của pyriproxyfen diệt bọ gậy/quăng của
muỗi Aedes khi tiếp xúc với nồng độ từ 0,01-0,05
ppm = 2g-10g/m3. Kết quả nghiên cứu này cũng
tương tự với một số kết quả trong nước và ngoài
nước khi thử nghiệm Sumilarv trong phòng thí
nghiệm và ngoài thực địa nghiên cứu, cho thấy
hiệu quả ức chế và tiêu diệt hoàn toàn các giai
đoạn phát triển của muỗi.
Tại Viện Pasteur Nha Trang, sau khi thử
nghiệm chế phẩm pyriproxifen 0,5g với 4 chum
đất có thể tích 80–100 lít đặt ở ngoài nhà và theo
dõi trong 4 tuần, sau 1 tháng thì số lượng bọ gậy
đã chết hoàn toàn và kết quả này kéo dài được 4-
5 tháng(3). So sánh với kết quả của Viện Sốt rét -
Ký sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn khi thực
hiện nghiên cứu lần lượt pyriproxyfen từ 0,01
mg/l, đến 0,05 mg/l cho thấy ở nồng độ từ 0,01
mg/l–0,02 mg/l kết quả ức chế chậm, tỉ lệ bọ gậy
chết ở mức 88% sau 11-13 ngày. Nhưng ở nồng
độ 0,04–0,05 mg/l thì kết quả đã cho thấy tỉ lệ bọ
gậy chết 100% ở ngày thứ 8 và ngày thứ 10(1). Tại
Mỹ, năm 2005 tác giả Okazawa T thuộc Hiệp hội
Kiểm soát côn trùng Mỹ đã có một nghiên cứu
đánh giá hiệu quả của Sumilarv 0,5g tại một
thực địa ở Sri LanKa nhằm làm giảm quần thể
véc tơ muỗi Anophen truyền bệnh sốt rét, thực
địa ở đây chính là những hồ bơi trên lòng sông
và mương tưới nước. Kết quả cho thấy ở điểm
can thiệp bằng pyriproxyfen với nồng độ 0,01
ppm trong suốt 190 ngày đã giảm 70% bệnh
nhân mắc bệnh sốt rét so với điểm thử nghiệm(2).
Một nghiên cứu mới nhất của Indonesia vừa
đăng trên tạp chí y học tháng 4 năm 2018, cũng
chứng minh pyriproxifen 0,5g đã làm ức chế sự
sinh trưởng và phát triển của bọ gậy Aedes
aegypti và Aedes albopictus, với nồng độ
pyriproxyfen 0,05-0,4 ppm kết quả cho thấy
8-84% ức chế sự phát triển của ấu trùng Aedes
aegypti và 16-92% ức chế sự phát triển của ấu
trùng của Aedes albopictus. Nghiên cứu cũng đưa
ra với liều khuyến cáo được sử dụng trong thử
nghiệm thực tế ở nồng độ 0,03 ppm; 0,05 ppm;
0,08 ppm; 0,14 ppm; 0,23 ppm; 0,39 ppm; và 0,67
ppm và thời gian thử nghiệm 9 ngày ở nhiệt độ
từ 20-28˚C và độ ẩm từ 51-60%, kết quả cho thấy
ngày đầu tiên Aedes aegypti đã có dấu hiệu giảm
hoạt động, ngày thứ 2 ấu trùng không hoạt động
đã giảm 20-29% và không phát triển thành
nhộng, vào ngày thứ 3 quan sát số lượng đã thay
đổi 48-64%, vào ngày thứ 9 số lượng đã giảm
đến 100% không còn cơ hội để phát triển các giai
đoạn tiếp theo của bọ gậy(4).
Sumilarv 0,5g đã chứng minh được hiệu quả
của hàm lượng hoạt chất pyriproyfen 0,5%,
không những làm ức chế quá trình phát triển
của bọ gậy/lăng quăng trong điều kiện ở phòng
thí nghiệm mà ngay cả áp dụng phương pháp
này trên thực địa, khi đưa ra lựa chọn phù hợp
và duy trì được hàm lượng hoạt chất của chế
phẩm trong các DCCN không phải là nước ăn và
nước sinh hoạt. Như vậy, qua kết quả nghiên
cứu cũng như một số kết quả trong và ngoài
nước phản ánh hàm lượng sử dụng
pyriproxyfen từ 0,01–0,05 mg/l hoàn toàn đáp
ứng tốt với tất cả các loại ấu trùng nói chung và
trong đó có cả bọ gậy Aedes.
Một trong những hạn chế lớn của đề tài này
là chưa xác định được mối tương quan giữa tình
hình ca bệnh và véc tơ tại hai điểm nghiên cứu
(điểm can thiệp và điểm đối chứng). Một số hộ
gia đình bận việc kinh doanh buôn bán nên chưa
cộng tác tốt hay quan tâm đến công tác phòng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 57
chống diệt bọ gậy tại gia đình mình, bên cạnh đó
có những hộ gia đình đi làm đóng cửa suốt ngày
nên việc bỏ sót các dụng cụ có bọ gậy vẫn chưa
can thiệp. Thời gian thực hiện nghiên cứu chỉ
kéo dài 1 năm và mục tiêu của đề tài là can thiệp
các DCCN có bọ gậy để đánh giá hiệu quả của
hóa chất Sumilarv 0,5g tồn lưu trên thực địa.
KẾT LUẬN
Những DCCN có tỉ lệ dương tính với bọ
gậy chiếm đa số hầu hết các hộ gia đình cả hai
điểm can thiệp và điểm đối chứng, cao nhất là
lọ hoa (63%), lốp xe (11%), phế thải (10%),
chậu cây cảnh (5%) còn lại những dụng cụ
khác không thả Sumilarv chỉ chiếm 1% đến
<2%. Quá trình thả Sumilarv 0,5g ở điểm thử
nghiệm với nồng độ từ 0,01-0,05 mg/l cho thấy
tỉ lệ bọ gậy và quăng chết 98-100% sau hai
tuần tiếp xúc, khả năng duy trì hiệu quả này ở
các dụng cụ chứa nước trong nhà trên 4 tháng
và dụng cụ ngoài nhà 2-3 tháng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Ly Na, Nguyễn Xuân Quang, Hồ Văn Hoàng, Nguyễn
Hoàng Sang và cs (2017). Hiệu lực của chế phẩm diệt bọ gậy
Pyriproxyfen (Sumilarv 0,5G) trong phòng chống bọ gậy Aedes
aegypti tại tỉnh Bình Định năm 2016. Tạp chí phòng chống bệnh sốt
rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt Rét - Ký Sinh Trùng - Côn
Trùng - Trung Ương, (96): Tr. 288 - 293.
2. Okazawa T, Bakote'e B, Suzuki H, Kawada H, Kere N (2005).
Field evaluation of an insect growth regulator, pyriproxyfen,
against Anopheles punctulatus on north Guadalcanal, Solomon
Islands. J Am Mosq Control Assoc, volume 7 (4): pp. 604 - 607.
3. Phạm Quốc Hải (2014). Kết quả khảo nghiệm đánh giá hiệu lực
ức chế nở của ấu trùng muỗi và độ an toàn của chế phẩm
Sumilarv 0,5G. Khoa Kiểm soát véc tơ truyền bệnh và Kiểm
dịch, Phiếu trả lời kết quả khảo nghiệm, Viện Pasteur Nha
Trang.
4. Sucipto CD, Wahyudin D, et al (2018). The Effectiveness of
Insect Growth Regulator (IGR) on the Growth and the
Development of Aedes aegypti and Aedes albopictus in
Tangerang City, Indonesia. JMSCR, 06(4):892 - 895.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_su_dung_che_pham_sumilarv_05g_o_thuc_dia_t.pdf