Tài liệu Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ của gây tê thần kinh đùi liên tục trên bệnh nhân thay khớp háng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 136
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ
CỦA GÂY TÊ THẦN KINH ĐÙI LIÊN TỤC TRÊN BỆNH NHÂN
THAY KHỚP HÁNG
Nguyễn Thị Thanh*, Nguyễn Nhựt Nam*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Giảm đau có vai trò quan trọng trong điều trị bệnh nhân thay khớp háng. Tê thần kinh đùi là kỹ
thuật đơn giản, hiệu quả và an toàn có thể áp dụng trên bệnh nhân thay khớp háng.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ của gây tê thần kinh đùi liên tục trong phẫu
thuật thay khớp háng.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, 84 trường hợp bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp
háng tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 09/2015 đến tháng 05/2016, được chia làm hai nhóm: gây tê
thần kinh đùi (nhóm T) và nhóm morphin toàn thân (nhóm M). Ghi nhận điểm đau VAS, lượng morphine sử
dụng, sinh hiệu và mức độ buồn ngủ, phong bế vận động vào các thời điểm 1 giờ, 2 giờ, 6 giờ, 24 giờ và 48 giờ
sau mổ.
K...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ của gây tê thần kinh đùi liên tục trên bệnh nhân thay khớp háng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 136
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ
CỦA GÂY TÊ THẦN KINH ĐÙI LIÊN TỤC TRÊN BỆNH NHÂN
THAY KHỚP HÁNG
Nguyễn Thị Thanh*, Nguyễn Nhựt Nam*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Giảm đau có vai trò quan trọng trong điều trị bệnh nhân thay khớp háng. Tê thần kinh đùi là kỹ
thuật đơn giản, hiệu quả và an toàn có thể áp dụng trên bệnh nhân thay khớp háng.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ của gây tê thần kinh đùi liên tục trong phẫu
thuật thay khớp háng.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, 84 trường hợp bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp
háng tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 09/2015 đến tháng 05/2016, được chia làm hai nhóm: gây tê
thần kinh đùi (nhóm T) và nhóm morphin toàn thân (nhóm M). Ghi nhận điểm đau VAS, lượng morphine sử
dụng, sinh hiệu và mức độ buồn ngủ, phong bế vận động vào các thời điểm 1 giờ, 2 giờ, 6 giờ, 24 giờ và 48 giờ
sau mổ.
Kết quả: Điểm đau VAS trung bình khi vận động của nhóm tê ở các thời điểm 24 giờ, 48 giờ giảm có ý
nghĩa thống kê (p < 0,001) so với nhóm không tê. Liều morphin trung bình sau 24 giờ ở nhóm tê giảm 40% so với
nhóm chứng. Không ghi nhận bất cứ tai biến hoặc tác dụng phụ nào xảy ra liên quan đến kỹ thuật và ngộ độc
thuốc tê.
Kết luận: Tê thần kinh đùi liên tục là phương pháp an toàn, giúp giảm đau hiệu quả và giảm các tác dụng
phụ do sử dụng morphin.
Từ khóa: Tê thần kinh đùi, thay khớp háng, giảm đau.
ABSTRACT
EVALUATING THE EFFICACY OF POST-OPERATIVE ANALGESIA
OF CONTINUOUS FEMORAL BLOCK IN PATIENTS WITH HIP REPLACEMENT
Nguyen Thi Thanh, Nguyen Nhut Nam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 136 - 143
Background: Analgesia has an important role in outcome of patient with hip replacement. Femoral block is a
simple, effective and safe technique for analgesia in hip replacement.
Objectives: To evaluate the efficacy of post-operative analgesia of continuous femoral blocks in patients with
his replacement.
Methods: Clinical trial. From 09/2015 to 05/2016 at Nhan Dan Gia Dinh hospital, there were 84 patients
with hip replacement. Patients were divided into 2 groups: group T with femoral block and group M with IV
morphine. We recorded pain score (VAS), amount of morphine, vital signs and sedation level, motor block at 1, 2,
6, 24 and 28 hours post operation.
Results: The verbal analogue pain scores at movement in group T significantly improved at 24h, 48h (p<
0.001). The mean dose of morphine at 24h in group T were low 40% compared to group M. No complications or
side effects related to procedure and local anesthetic toxicity were detected.
* Bộ môn Gây mê Hồi sức, Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: ThS.BS Nguyễn Nhựt Nam ĐT: 0937688817 Email: nam_nguyen882006@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 137
Conclusion: Continuous femoral block is a simple, safe method, effective analgesia and reduces side effects of
IV morphine.
Keywords: Continuous femoral block, hip replacement, analgesia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay tuổi thọ con người ngày tăng cao
thì các bệnh lý chấn thương xương khớp
thường gặp rất nhiều. Trong đó, số bệnh nhân
phải mổ thay khớp háng ngày càng tăng. Phẫu
thuật thay khớp háng đau kéo dài trong 2 - 3
ngày đầu sau mổ(5). Giảm đau không tốt có thể
gây tác dụng có hại trên các cơ quan, ảnh
hưởng xấu tâm lý và dẫn đến đau mạn tính.
Khuynh hướng hiện nay là sử dụng giảm đau
đa phương thức để tránh sử dụng morphine
hoặc chỉ sử dụng morphine liều thấp nhất. Tê
trục thần kinh có hạn chế về tác dụng phụ như
tụt huyết áp, bí tiểu, tê cả hai chân. Vì những
hạn chế của tê trục thần kinh nên tê thần kinh
ngoại vi trong đó tê đám rối thắt lưng, tê thần
kinh đùi được đề nghị để giảm đau cho phẫu
thuật thay khớp háng. Đây là phương pháp
giảm đau sau mổ có hiệu quả gần tương
đương tê trục thần kinh, ít tác dụng phụ nên
được sử dụng trong thay khớp háng một bên.
Kỹ thuật gây tê thần kinh đùi đem lại tác dụng
giảm đau sau mổ tốt khi kết hợp với giảm đau
đa phương thức, giúp giảm được những tác
dụng phụ bất lợi của nhóm thuốc giảm đau
gây nghiện(11).
Ở Việt Nam, chỉ có một số ít nghiên cứu
được công bố về gây tê thần kinh đùi với máy
kích thích điện đơn thuần, nên chúng tôi đặt ra
việc gây tê thần kinh đùi liên tục dưới hướng
dẫn siêu âm có giúp giảm đau sau mổ thay khớp
háng so với việc chỉ dùng thuốc đường toàn
thân. Với giả thuyết cho thuốc tê liên tục qua
catheter thần kinh đùi sẽ làm giảm lượng thuốc
morphine sử dụng sau mổ. Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu tại khoa gây mê hồi sức bệnh viện
Nhân Dân Gia Định với các mục tiêu sau:
So sánh tổng lượng morphine trung bình sử
dụng trong 24 giờ ở 2 nhóm bệnh nhân có gây tê
thần kinh đùi và nhóm chỉ dùng thuốc đường
toàn thân.
So sánh mức độ đau của 2 nhóm khi nghỉ và
khi vận động dựa vào thang điểm đau VAS.
Xác định tỉ lệ tác dụng phụ và biến chứng
của 2 nhóm.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thay khớp
háng một bên tại Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định
Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Đồng ý tham gia nghiên cứu, không có
chống chỉ định gây tê vùng. ASA I, II, III.
Tiêu chuẩn loại trừ
Dị ứng hay có chống chỉ định thuốc dùng
trong nghiên cứu; bất thường về thần kinh cơ,
thần kinh đùi hoặc cơ tứ đầu đùi cùng bên. Sa
sút trí tuệ.
Cỡ mẫu
Chọn mẫu theo công thức tính cỡ mẫu:
n=
Trong đó:
n : là cỡ mẫu nghiên cứu.
α : mức ý nghĩa hay xác suất sai lầm loại 1, α được chọn là
5%
(1-β) : Độ mạnh của nghiên cứu, được chọn là 80%.
б2: Phương sai gộp.
μ : Trị số trung bình cần kiểm định.
Trong nghiên cứu trước đây của Marino(9) so
sánh tê TK đùi với giảm đau sau mổ bằng
morphine đường tĩnh mạch cho thấy lượng
morphine tiêu thụ trong 24 giờ của: Nhóm tê
TK đùi liên tục: 8,0 (6,5 – 9,5) mg.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 138
Nhóm chỉ sử dụng morphine: 11,9 (7,1 – 14,0)
mg.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đặt ra giả
thuyết sẽ giảm được 40% tổng liều morphine sử
dụng nhóm bệnh nhân có tê liên tục thần kinh
đùi, nghĩa là lượng morphine sử dụng ở nhóm tê
bằng 60% so với nhóm với nhóm morphine (μ2 =
60% μ1)
Do đó: б = 7,7
Z1 – α/2 = 1,96
Z1-β= 0,84
μ1- μ2 = μ1- 60% μ1 =40% μ1 = 40%x
11,9 = 4,76
n = 41,03
Cỡ mẫu tối thiểu tính được cho mỗi nhóm
nghiên cứu là 42 bệnh nhân.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị bệnh nhân
Khám tiền mê, cung cấp phiếu thông tin cho
bệnh nhân.
Chuẩn bị phương tiện
Bảng thu thập số liệu. Máy siêu âm Logi Q.
Phương tiện theo dõi và thuốc dùng gây mê hồi
sức. Bộ dụng cụ gây tê, kim gây tê vùng
Contiplex 17G 50mm B.Braun. Thuốc tê
bupivacaine 0,5% 20 ml, intralipid 20%.
Các bước thực hiện
Đối với bệnh nhân ở nhóm tê thần kinh đùi:
tiến hành đặt catheter thần kinh đùi dưới hướng
dẫn siêu âm phối hợp với máy kích thích thần
kinh cơ. Tiếp cận thần kinh đùi in-plane bằng
kim Tuohy 17G (Contiplex D -B Braun). Xác định
đầu kim tiếp cận thần kinh đùi : hình ảnh trên
siêu âm và có kích thích điện gây giật cơ tứ đầu
đùi của máy dò thần kinh ở tần số 2 Hz và 100 -
300 μs có cường độ là 0,5mA. Ở vị trí kim Tuohy
tối ưu, bơm 5ml - 10ml thuốc tê bupivacain
0,25% qua kim, sau đó của luồn catheter sâu 4
cm qua khỏi đầu kim. Để xác định vị trí đầu
catheter, khí được lưu trong 3cm đầu xa của
catheter sẽ cho hình ảnh catheter dưới siêu âm là
tăng âm (màu trắng). Sau khi đầu catheter đạt
được vị trí tối ưu dưới siêu âm, rút kim Tuohy ra
và bơm 10 ml bupivacain 0,25%. Dán băng vô
trùng catheter với băng keo opsite.
15 phút sau khi bơm đủ 15ml thuốc tê, nếu
bệnh nhân giảm cảm giác ở mặt trước đùi so với
chân bên kia khi kiểm tra với gòn cồn thì bệnh
nhân được giữ lại trong nhóm nghiên cứu;
ngược lại, nếu bệnh nhân không tê thì xem như
đặt catheter thất bại và loại bệnh nhân ra khỏi
nghiên cứu.
Trong phòng mổ, tất cả bệnh nhân được tê
tủy sống để mổ thay khớp háng với liều fentanyl
là 20mcg và 10 - 12mg bupivacaine 0,5%.
Cuối cuộc mổ ghi lại thời gian kết thúc (to),
sinh hiệu bệnh nhân.
Ở phòng hậu phẫu, bệnh nhân được ghi
nhận tri giác, đo mạch, huyết áp không xâm lấn,
SpO2 mỗi giờ và hướng dẫn sử dụng morphine
đường tĩnh mạch do bệnh nhân tự kiểm soát ở cả
hai nhóm (cài đặt bolus 1 mg, vận tốc cơ bản 0
mg, khóa mỗi 10 phút, giới hạn 0,2 mg/kg mỗi 4
giờ). Bệnh nhân thuộc nhóm có catheter: duy trì
thuốc tê 0,15ml/kg/giờ bupivacaine 0,1%.
Tất cả các bệnh nhân sau mổ đều được sử
dụng paracetamol 1g/100ml truyền tĩnh mạch
mỗi 8 giờ, ketorolac 30 mg tiêm tĩnh mạch mỗi 8
giờ, bảo vệ dạ dày với omeprazol 40 mg tiêm
tĩnh mạch. Nếu bệnh nhân buồn nôn thì tiêm
tĩnh mạch ondasetron 4 mg, mỗi 12 giờ.
Sử dụng phiếu thu thập số liệu cho từng
bệnh nhân, BN được hỏi, quan sát, đánh giá theo
các thang điểm đau VAS, lượng morphine sử
dụng, sinh hiệu và mức độ buồn ngủ, phong bế
vận động vào các thời điểm 1 giờ, 2 giờ, 6 giờ, 24
giờ và 48 giờ sau mổ.
KẾT QUẢ
Từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 05 năm 2016,
chúng tôi thực hiện được tổng cộng 84 trường
hợp, trong đó nhóm T (tê thần kinh đùi) 42
trường hợp và nhóm M (morphine tĩnh mạch) 42
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 139
trường hợp. Sau đây là kết quả chúng tôi ghi
nhận được:
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới, ASA
Yếu tố
Nhóm T
TB ± ĐLC
Nhóm M
TB ± ĐLC
p
Tuổi (năm) 75,2±11,6 73,6 ± 12,1 0,5*
Chiều cao (cm) 159,0± 7,2 161,5 ± 8,2 0,1*
Cân nặng (kg) 54,1±13,2 50,7 ± 10,3 0,1*
BMI (kg/m
2
) 21,3 ± 2,7 20,5 ± 2,1 0,1*
Giới
†
Nam 8 (9,5) 9 (10,7) 0,8‡
Nữ 34 (40,5) 33 (39,3)
ASA (%)
I 7 (8,4) 8 (9,5)
0,9‡ II 27 (32,1) 25 (29,8)
III 8 (9,5) 9 (10,7)
* T-test; TB: trung bình; ĐLC: độ lệch chuẩn † Tỉ lệ phần
trăm ‡: Chi-Square test
Nhận xét: Không có sự khác biệt về tuổi, giới,
chiều cao, cân nặng, BMI, ASA của bệnh nhân ở
hai nhóm nghiên cứu.
Các đặc điểm can thiệp: Thời gian trung bình
thực hiện kỹ thuật tê thần kinh đùi liên tục trên
42 bệnh nhân là 12 ± 5,4 phút. Thời gian xác định
dây thần kinh đùi 3 ± 1,6 phút.
Hiệu quả giảm đau sau mổ
Bảng 2: Lượng morphine tiêu thụ trong 24 giờ
Morphine
tiêu thụ (mg)
Nhóm T
TB ± ĐLC
Nhóm M
TB ± ĐLC
p
Giờ thứ 1 1,5 ± 1,0 2,1 ± 1,1 0,008*
Giờ thứ 2 2,2 ± 1,4 4,4 ± 2,1 0,002*
Giờ thứ 6 2,4 ± 1,3 6,5 ± 3,0 0,001*
Giờ thứ 24 4,5 ± 2,2 8,4 ± 3,6 0,001*
* T-test; TB: trung bình; ĐLC: độ lệch chuẩn
Nhận xét: Lượng morphine tiêu thụ trong 24
giờ của nhóm T là 4,5 mg so với nhóm M là 8,4
mg. Lượng morphine tiêu thụ nhóm T giảm 45%
so với nhóm M ở thời điểm 24 giờ và có ý nghĩa
thống kê p < 0,05.
Điểm VAS theo từng thời điểm sau mổ lúc
nghỉ ngơi ở cả hai nhóm T và M đều < 5, điểm
VAS ở nhóm T luôn nhỏ hơn nhóm M và có ý
nghĩa với p < 0,05 ở thời điểm sau 2 giờ
(Biểu đồ 1).
Điểm VAS khi vận động ở các thời điểm sau
mổ của nhóm T luôn thấp hơn nhóm M và có ý
nghĩa với p < 0,05 (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 1: VAS khi nghỉ ngơi
Biểu đồ 2: VAS khi vận động
Biểu đồ 3: Sự thay đổi mạch trong 48 giờ sau mổ.
Cả 2 nhóm đều có tần số mạch dao động
trong giời hạn bình thường, thay đổi mạch trong
48 giờ đầu sau mổ của 2 nhóm không có ý nghĩa
thống kê với p > 0,05 (Biểu đồ 3).
Biểu đồ 4 : Huyết áp tâm thu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 140
Nhận xét: HATT của hai nhóm tại các thời
điểm sau mổ thay đổi không đáng kể. Sự khác
biệt về HATT giữa hai nhóm tại các thời điểm
không có ý nghĩa về mặt thống kê (p > 0,05).
Biểu đồ 5 : Huyết áp tâm trương
Nhận xét: HATTr của hai nhóm tại các thời
điểm sau mổ thay đổi không đáng kể. Sự khác
biệt về HATTr giữa hai nhóm tại các thời điểm
không có ý nghĩa về mặt thống kê (p > 0,05).
Tác dụng phụ và biến chứng
Bảng 3: Tác dụng phụ liên quan đến morphine
Tác dụng phụ Nhóm T (n=42) Nhóm M (n=42) p
Buồn ngủ (%) 6 (14,3) 14 (33,3) 0,04‡
Buồn nôn (%) 4 (9,5) 8 (19,0) 0,2‡
Ngứa (%) 4 (9,5) 7 (16,7) 0,3‡
Suy hô hấp (%) 0 0
‡: Chi-Square test
Nhận xét: Biến chứng phổ biến là do tác dụng
phụ của thuốc phiện, biến chứng do gây tê thần
kinh đùi ít gặp. Tỉ lệ nôn, ngứa sau mổ ở nhóm T
thấp hơn so với nhóm M trên lâm sàng. Tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt
thống kê (p > 0,05).
Các tai biến liên quan kỹ thuật kỹ thuật tê
thần kinh đùi: chúng tôi không ghi nhận bất kì
tai biến chạm mạch máu, ngộ độc thuốc tê, dị
cảm sau rút catheter, nhiễm trùng tại chỗ
catheter trong và sau khi thực hiện kỹ thuật tê
thần kinh đùi.
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhân – can thiệp
Trong 84 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nữ gặp
nhiều hơn nam ở cả 2 nhóm, nhóm T có 8 nam
và 34 nữ, nhóm M có 9 nam và 33 nữ. Tuổi trung
bình của nhóm T là 75,2 ± 11,6; của nhóm M là
73,6 ±12,1. Không có sự khác biệt về tuổi của hai
nhóm. Cân nặng trung bình của bệnh nhân
nhóm T là 54,3 ± 13,7 và nhóm M là 50,7 ± 10,6.
Bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi có ASA
từ I đến III, trong đó ASA III có 8 bệnh nhân
thuộc nhóm T, 9 bệnh nhân thuộc nhóm M. Các
bệnh nhân còn lại chủ yếu có ASA II với 27 bệnh
nhân thuộc nhóm T, 25 bệnh nhân thuộc nhóm
M và 7 bệnh nhân thuộc nhóm T, 8 bệnh nhân
nhóm M có ASA I.
Thời gian trung bình để dò tìm dây thần
kinh đùi trong nghiên cứu của chúng tôi là 3 ±
1,6 phút, vì dây thần kinh đùi nằm nông ở vùng
bẹn nên mốc gây tê dễ xác định. Tuy vậy do thần
kinh đùi nằm sát động mạch đùi nên vẫn phải
thận trọng để tránh chọc vào động mạch đùi gây
tụ máu làm cho quá trình dò dây thần kinh đùi
sẽ khó khăn hơn. Thời gian thực hiện kỹ thuật
trung bình bao gồm thời gian dò tìm thần kinh,
đặt catheter, cố định catheter là 12 ± 5 phút. Ở
trong nước chỉ có một vài nghiên cứu về gây tê
thần kinh đùi liên tục của Lê Đức Thắng(8),
Huỳnh Đặng Ý Nhi(6) cho thấy thời gian thực
hiện kỹ thuật tương đương với chúng tôi. Cho
đến nay, với nhiều tác giả trên thế giới thì việc
đặt catheter TK đùi là một thủ thuật đơn giản, dễ
thực hiện, ít biến chứng(7).
Hiệu quả giảm đau sau mổ
Lượng morphine tiêu thụ
Chúng tôi đánh giá theo từng thời điểm 1
giờ, 2 giờ, 6 giờ, 24 giờ ,48 giờ sau mổ tính từ thời
điểm bệnh nhân kết thúc cuộc mổ. Liều
morphine sử dụng thêm của nhóm T luôn thấp
hơn nhóm M ở các thời điểm trên, tỉ lệ liều
morphine giữa nhóm T và nhóm M giảm dần từ
67% xuống 45% vào giờ thứ 24. Cả hai nhóm đều
sử dụng thêm morphine vì mổ thay khớp háng
là khớp lớn nên bệnh nhân thường đau, tăng
nhu cầu thêm thuốc giảm đau. Trong khi đó, tê
thần kinh đùi liên tục không đảm bảo phong bế
thần kinh bì đùi ngoài, là thần kinh chi phối cảm
giác vùng rạch da trong thay khớp háng. Vì thế,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 141
chúng tôi thực hiện giảm đau đa phương thức
với sử dụng giảm đau nền cho cả hai nhóm và tê
hỗ trợ thêm thần kinh bì đùi ngoài. Liều
morphine khác biệt là do giảm đau thêm của gây
tê thần kinh đùi. Tê thần kinh đùi làm giảm tổng
liều morphine sử dụng trong 24 giờ đầu sau mổ
ở nhóm tê so với nhóm chứng là 4,5 mg và 8,4
mg với mức ý nghĩa p <0,05. Khi gây tê thần kinh
đùi liên tục giảm liều morphine tiêu thụ 45%,
điều này giúp cho bệnh nhân tránh được những
tác dụng phụ không mong muốn của morphine
như : buồn nôn, nôn, ngứa, buồn ngủ. Chứng tỏ
việc gây tê thần kinh đùi có hiệu quả giảm lượng
morphine toàn thân. So sánh với kết quả của
Marino(9), lượng morphine tiêu thụ giảm 38% lúc
2 giờ, 36% lúc 12 giờ, 36% lúc 24 giờ, 33% lúc 48
giờ. Trong nghiên cứu chúng tôi lượng
morphine tiêu thụ giảm 45% nhiều hơn so với
33% của Marino. Trong nghiên cứu của Marino,
catheter thần kinh đùi được luồn một đoạn từ 10
đến 15 cm. Điều nay không làm tăng cơ hội
catheter chạm tới đám rối thắt lưng để gây tê
được cả 3 dây thần kinh (TK đùi, TK bịt, TK bì
đùi ngoài). Ngược lại, việc này có thể làm tăng
khả năng catheter di lệch ra xa thần kinh đùi,
làm giảm tác dụng giảm đau của thuốc tê.
Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kỹ thuật
tê liên tục thần kinh đùi sau mổ thay khớp háng
giúp bệnh nhân giảm đáng kể mức độ đau, nhất
là khi vận động. Điểm đau theo thang điểm VAS
giảm dần theo thời gian, điểm đau trung bình
sau 24 giờ của nhóm T và nhóm M lúc nghỉ ngơi
lần lượt là 1,9 ± 1,3 và 4,2 ± 1,2; lúc vận động là
3,2 ± 1,7 và 6,5 ± 2,0. Sau 48 giờ là 1,8 ± 1,3 và 3,8 ±
0,9 lúc nghỉ ngơi; 2,9 ± 1,7 và 5,9 ± 1,9 lúc vận
động. Điểm VAS ở nhóm có gây tê luôn nhỏ hơn
nhóm chứng và nhỏ hơn 3. Kết quả này là do
hiệu quả của phương thức giảm đau có gây tê,
ngoài tác dụng giảm đau còn giảm co thắt cơ tứ
đầu đùi. Khi so sánh kết quả của Nohel trên 452
bệnh nhân được tê thần kinh đùi liên tục trong
mổ thay khớp háng(10), điểm VAS lúc vận động
trong nghiên cứu chúng tôi có kết quả tương
đồng. Điều này khẳng định hiệu quả của tê thần
kinh đùi trên vận động sau mổ. Tuy nhiên, các
phương thức tập vật lý trị liệu sau mổ trong các
nghiên cứu khác nhau nên khó có thể khẳng
định tác giả nào giảm đau tốt hơn.
So sánh với kết quả của Marino(9), điểm đau
VAS khi vận động trong nghiên cứu chúng tôi có
kết quả thấp hơn, chứng tỏ gây tê thần kinh đùi
có hiệu quả giảm đau hơn. Sự khác biệt này có
thể do hiệu quả giảm đau trong nghiên cứu của
chúng tôi tốt hơn so với Marino. Điều này là do
sự khác nhau ở kỹ thuật đặt catheter giữa hai
nghiên cứu như đã nêu. Trong tổng kết của José
Aguirre(1) cũng cho thấy rằng việc luồn catheter >
5cm liên quan với việc gia tăng nguy cơ catheter
bị cuộn tròn mà không đi dọc theo sợi thần kinh,
tác giả khuyến cáo chỉ nên luồn tối đa 5cm.
Đánh giá hiệu quả giảm đau qua mạch, huyết
áp
Mạch: Trong nghiên cứu này, sự thay đổi
mạch không có khác biệt nhiều giữa hai nhóm
nghiên cứu ở các thời điểm sau mổ. Điều này
cho thấy hiệu quả giảm đau ở cả hai nhóm
nghiên cứu ổn định theo thời gian.
Huyết áp tâm thu và tâm trương không có
khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu ở các thời
điểm sau mổ. Thực tế, bệnh nhân trong nghiên
cứu chúng tôi nằm ở phòng săn sóc đặc biệt
được điều dưỡng theo dõi gần như liên tục nên
khi huyết áp dao động nhiều đều được xử trí kịp
thời, bệnh nhân được sử dụng thuốc hạ áp hoặc
truyền máu nếu cần.
Tác dụng phụ và biến chứng liên quan gây tê
Không có trường hợp nào trong nghiên cứu
của chúng tôi được ghi nhận có dấu hiệu ngộ
độc thuốc tê. Theo ghi nhận của nhiều tác giả, kỹ
thuật gây tê thần kinh đùi liên tục là một kỹ
thuật an toàn và ít biến chứng. Tuy nhiên, vẫn có
thể xảy ra một số biến chứng như: chạm mạch,
tụ máu, ngộ độc thuốc tê, dị ứng. Trong quá
trình thực hiện, chúng tôi không gặp chạm
mạch, tụ máu do mốc giải phẫu là động mạch
đùi và nếp bẹn là tương đối rõ ở hầu hết bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 142
nhân bình thường, không béo phì, đặc biệt sự hỗ
trợ siêu âm giúp chúng tôi thực hiện thủ thuật an
toàn hơn, bên cạnh lý do cỡ mẫu nghiên cứu của
chúng tôi không lớn.
Tác dụng phụ liên quan đến sử dụng morphine
Tác dụng phụ của thuốc phiện đường toàn
thân có thể gây biến chứng nặng ở bệnh nhân
với phẫu thuật chỉnh hình lớn(4) như nguy cơ té
ngã khi chóng mặt, suy hô hấp do thở kém khi
buồn ngủ nhiều. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi giữa nhóm gây tê thần kinh đùi liên tục và
nhóm morphin: buồn ngủ là 14,3% so với 33,3% ;
buồn nôn là 9,5% so với 19% ; ngứa 9,5% và
16,7%. Sự chênh lệch này là do lượng morphine
sử dụng thêm ở nhóm có gây tê thấp hơn, sự
chênh lệch giữa 2 nhóm không đáng kể. Tỉ lệ tác
dụng phụ thấp có lẽ do lượng morphine sử dụng
trong nghiên cứu chúng tôi không quá nhiều.
Theo Wheeler và cộng sự(12), bệnh nhân sử
dụng giảm đau bằng PCA thuốc phiện có tác
dụng phụ trên dạ dày ruột (buồn nôn, nôn, liệt
ruột) 37%, ảnh hưởng tri giác (buồn ngủ, chóng
mặt) 34%, ngứa 15%, bí tiểu 16%, và suy hô hấp
2%. Bệnh nhân thuộc nhóm chỉ sử dụng thêm
morphine đường tĩnh mạch qua bơm tiêm tự
động có tỷ lệ tác dụng phụ buồn ngủ 33,3%,
buồn nôn 19% ; ngứa 16,7% tương đương với
nghiên cứu này.
So sánh với nghiên cứu của Marino và cộng
sự(9), tác dụng phụ buồn ngủ của chúng tôi cao
hơn 14,3% so 10,3%; buồn nôn thấp hơn 9,5% so
với 45,9%. Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi,
bệnh nhân được lưu lại nằm ở phòng hồi tỉnh và
được săn sóc đặc biệt, cách ly với thân nhân nên
bệnh nhân có xu hướng buồn ngủ nhiều hơn ở
phòng bệnh thường. Nghiên cứu của chúng tôi
có tỉ lệ bệnh nhân buồn nôn thấp hơn nghiên
cứu của Marino là 9,5% so với 45,9%. Điều này
có liên quan đến tổng lượng morphine bệnh
nhân sử dụng như đã bàn ở trên. Ngoài ra,
chúng tôi thực hiện dự phòng nôn thường quy
nên giúp giảm tỉ lệ nôn buồn nôn sau mổ.
Tỉ lệ suy hô hấp : chúng tôi không ghi nhận
sự khác biệt về nhịp thở ở hai nhóm nghiên cứu.
Sự khác biệt về SpO2 giữa hai nhóm không có ý
nghĩa với p>0,05.
Biến chứng liên quan đặt catheter
Tuột catheter: chúng tôi phát hiện có 1
catheter bị tuột ra khỏi vị trí cố định ban đầu lúc
giờ thứ 32 khi phụ giúp bệnh nhân thay tấm trải
giường. Sau trường hợp tuột catheter này, chúng
tôi nhận thấy nếu dán cố định bộ lọc cùng với
catheter lên thành bụng bệnh nhân thì catheter ít
bị kéo căng trực tiếp hơn, hạn chế việc tuột
catheter.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi
nhận trường hợp nào bị nhiễm trùng tại chỗ
catheter. Điều này có thể là do việc sử dụng
kháng sinh dự phòng thường qui ở bệnh nhân
phẫu thuật chỉnh hình. Việc vô trùng trong thực
hiện thủ thuật chặt chẽ sẽ làm cho tỉ lệ nhiễm
trùng do catheter giảm thấp. Chúng tôi cũng
không ghi nhận trường hợp nào bị tổn thương
thần kinh đùi. Tổn thương thần kinh là do chấn
thương trực tiếp bởi kim hoặc catheter hoặc độc
tính của thuốc tê khi truyền liên tục. Tỉ lệ tổn
thương thần kinh do gây tê thần kinh đùi liên
tục theo y văn cho đến nay vẫn chưa rõ.
Trong thực hành hàng ngày chúng tôi hay
gặp biến chứng rò dịch nhất là sau khi đặt
catheter xong mà tiến hành truyền thuốc tê liên
tục ngay sau đó, đặc biệt là khi liều thuốc tê đầu
tiên có thể tích lớn. Để khắc phục hiện tượng
này, trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng thường
quy keo dán mô Histoacryl (2-octyl cyano-
acrylate) để dán bít vị trí catheter tiếp xúc với da.
Chúng tôi không gặp yếu cơ tứ đầu đùi (có
thể làm bệnh nhân té khi tập đi) vì nồng độ
thuốc tê bupivacaine 0,1% được sử dụng là
tương đối thấp so với các nghiên cứu trước đó.
Năm 2010, Chelly đã tổng kết từ 33 328 bệnh
nhân và cho thấy rằng tê liên tục thần kinh đùi
không làm bệnh nhân té ngã nhiều hơn các bệnh
nhân không gây tê hay hậu phẫu các cuộc mổ
khác(3). Tác giả cũng nhấn mạnh rằng, bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 143
thay khớp gối có nguy cơ té ngã cao hơn bệnh
nhân thay khớp háng 3 lần, và hơn 20% bệnh
nhân té ngã trước khi thay khớp gối(2).
Trong bệnh viện chúng tôi, tất cả bệnh nhân
đều được mang nẹp gối ngay sau mổ và chỉ tháo
ra khi bệnh nhân tập co gối trên giường, bệnh
nhân đều được trợ giúp khi đi lại trong những
ngày đầu nên không ghi nhận bệnh nhân nào té
trong bệnh viện. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tất cả bệnh nhân đều được khuyến cáo về
khả năng yếu cơ tứ đầu đùi và hướng dẫn phòng
tránh té ngã khi đặt và sau khi rút catheter thần
kinh đùi. Chúng tôi không ghi nhận bệnh nào bị
té ngã khi xuất viện.
KẾT LUẬN
Phương pháp gây tê liên tục thần kinh đùi
dưới hướng dẫn siêu âm có hiệu quả giảm đau
tốt cho bệnh nhân thay khớp háng:
Gây tê thần kinh đùi làm giảm liều morphine
trung bình sau 24 giờ, nhóm gây tê giảm 45% so
với nhóm chứng. Gây tê thần kinh đùi liên tục
làm giảm mức độ đau sau mổ so với nhóm
không gây tê với điểm VAS trung bình lúc vận
động sau 24 giờ, sau 48 giờ (p<0,001). Gây tê thần
kinh đùi liên tục là kỹ thuật an toàn làm giảm tỉ
lệ tác dụng phụ so với nhóm sử dụng morphine
đường toàn thân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aguirre J, Del Moral A, Cobo I et al (2012), "The role of
continuous peripheral nerve blocks". Anesthesiol Res Pract 2012,
pp.560- 5.
2. Chelly JE, Clark LD, Gebhard RE et al (2014), "Consensus of
the Orthopedic Anesthesia, Pain, and Rehabilitation Society
on the use of peripheral nerve blocks in patients receiving
thromboprophylaxis". J Clin Anesth, 26, pp.69–74.
3. Chelly JE, Ghisi D, Fanelli A (2010), "Continuous peripheral
nerve blocks in acute pain management". Br J Anaesth, 105, pp.
86–96.
4. Horlocker TT, Sandra LK, Mark WP, et al (2006). "Analgesia
for Total Hip and Knee Arthroplasty: A Multimodal Pathway
Featuring Peripheral Nerve Block". J Am Acad Orthrop Surg, 14,
pp. 126-135.
5. Horlocker TT (2010), "Pain Management in Total Joint
Arthroplasty: A Historical Review". Orthopedics 33, pp.14–19.
6. Huỳnh Đặng Ý Nhi (2015), “Kết quả giảm đau sau mổ thay khớp
háng toàn phần tê liên tục thần kinh đùi”, Luận văn tốt nghiệp
bác sĩ chuyên khoa II chuyên ngành Gây mê hồi sức, Đại học
Y dược Tp. Hồ Chí Minh.
7. Ilfeld BM, Loland VJ, Sandhu NS et al (2012), "Continuous
femoral nerve blocks: the impact of catheter tip location
relative to the femoral nerve (anterior versus posterior) on
quadriceps weakness and cutaneous sensory block". Anesth
Analg 115, pp.721–727.
8. Lê Đức Thắng (2013), "Đánh giá hiệu quả của gây tê thần kinh đùi
liên tục để giảm đau sau mổ thay khớp háng", Luận văn tốt
nghiệp bác sĩ chuyên khoa II, chuyên ngành Gây mê hồi sức,
Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh
9. Marino J, Russo J, Kenny M et al (2009), "Continuous lumbar
plexus block for postoperative pain control after total hip
arthroplasty. A randomized controlled trial". J Bone Joint Surg
Am 91, pp.29–37.
10. Nohel P., Aguilar J.L, Camboni M et al (2011), "Postoperative
analgesia in patients undergoing total hip arthroplasty: A
comparison of intravenous patient-controlled analgesia and
patient-controlled femoral nerve analgesia". Eur J Anaesthesiol,
28, pp.200-5.
11. Terese T, Horlocker TT, Sandra L, et al (2006). "Analgesia for
Total Hip and Knee Arthroplasty: A Multimodal Pathway
Featuring Peripheral Nerve Block". J Am Acad Orthrop Surg, 14,
pp. 126 – 135.
12. Wheeler M, Oderda GM, Ashburn MA (2002). "Adverse event
associated with postoperative opioid analgesia: A systematic
review". J Pain, 3, pp.159–180.
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_giam_dau_sau_mo_cua_gay_te_than_kinh_dui_l.pdf