Đánh giá hiệu quả của stent niệu quản kim loại: Kết quả bước đầu

Tài liệu Đánh giá hiệu quả của stent niệu quản kim loại: Kết quả bước đầu: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 132 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA STENT NIỆU QUẢN KIM LOẠI: KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU Nguyễn Minh Thiền*, Lê Tuấn Khuê*, Phạm Thế Anh*, Đỗ Ngọc Anh Khoa*, Nguyễn Tuấn Vinh**, Bùi Văn Kiệt**, Phan Thanh Hải* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Ống thông niệu quản thông thường được sử dụng để điều trị sự tắc nghẽn niệu quản do bệnh lý lành tính và ác tính, ống thông JJ thông thường liên quan với những vấn đề như là sự bám sỏi vào ống thông (do đó đòi hỏi phải thay ống thông trong 3-6 tháng), tạo sỏi, đau, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, trào ngược bàng quang niệu quản, giãm nhu động niệu quản và dịch chuyển vị trí ống thông niệu quản. Một ống thông JJ lý tưởng là không gây triệu chứng, sử dụng lâu dài, không gây bám sỏi và dẫn lưu tốt trong mọi trường hợp. Tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa có loại ống thông JJ thông thường nào thật sự lý tưởng. Do đó chúng tôi sử dụng ống thông niệu quản kim loại n...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của stent niệu quản kim loại: Kết quả bước đầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 132 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA STENT NIỆU QUẢN KIM LOẠI: KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU Nguyễn Minh Thiền*, Lê Tuấn Khuê*, Phạm Thế Anh*, Đỗ Ngọc Anh Khoa*, Nguyễn Tuấn Vinh**, Bùi Văn Kiệt**, Phan Thanh Hải* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Ống thông niệu quản thông thường được sử dụng để điều trị sự tắc nghẽn niệu quản do bệnh lý lành tính và ác tính, ống thông JJ thông thường liên quan với những vấn đề như là sự bám sỏi vào ống thông (do đó đòi hỏi phải thay ống thông trong 3-6 tháng), tạo sỏi, đau, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, trào ngược bàng quang niệu quản, giãm nhu động niệu quản và dịch chuyển vị trí ống thông niệu quản. Một ống thông JJ lý tưởng là không gây triệu chứng, sử dụng lâu dài, không gây bám sỏi và dẫn lưu tốt trong mọi trường hợp. Tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa có loại ống thông JJ thông thường nào thật sự lý tưởng. Do đó chúng tôi sử dụng ống thông niệu quản kim loại nhằm khắc phục những nhược điểm trên. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả bước đầu của ống thông niệu quản kim loại trong điều trị triệu chứng kích thích và hẹp niệu quản mà không hiệu quả với những ống thông JJ thông thường. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Có 10 trường hợp sử dụng ống thông niệu quản kim loại. Bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng hẹp niệu quản có đặt ống thông thông thường nhưng có kích thích quá mức (đau, tiểu nhiều lần, tiểu máu nhiều) hoặc ống thông không hiệu quả dẫn lưu (vẫn còn ứ nước). Chúng tôi xét hiệu quả của ống thông kim loại niệu quản qua tiêu chuẩn chọn bệnh bao gồm: độ ứ nước trước và sau khi đặt 3 tháng, tình trạng tiểu máu, đánh giá mức độ đau trước và sau khi đặt ống thông kim loại dựa theo thang điểm đau của Wong-Baker Faces Pain Scale. Kết quả: Từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 12 năm 2018, có 10 bệnh nhân tham gia đặt ống thông kim loại. chúng tôi có 8 bệnh nhân nam và 2 bệnh nhân nữ. Có 4 bệnh nhân hẹp khúc nối tái phát sau phẫu thuật, bốn bệnh nhân hẹp niệu quản sau phẫu thuật can thiệp vào niệu quản, một bệnh nhân hẹp niệu quản tại vị trí sỏi khảm, một bệnh nhân ung thư cổ tử cung chèn ép hai niệu quản. Có 5 bệnh nhân không hiệu quả với ống thông thông thường. Có 2 bệnh nhân đau mức độ nặng do ống JJ thông thường muốn rút bỏ ống thông JJ. Tất cả các trường hợp còn lại hẹp niệu quản nặng không hiệu quả với ống thông JJ thông thường (và có triệu chứng đau trung bình do ống thông JJ thông thường). Tất cả các ống thông kim loại sau khi đặt đều đúng vị trí, nong rộng được chỗ hẹp. Hậu phẫu có đau vị trí đặt đặt ống thông kim loại. Tất cả bệnh nhân đều hết đau (100%). Trước khi đặt ống thông niệu quản kim loại, tất cả bệnh nhân đều ứ nước thận độ 2-3. Sau một tháng siêu âm lại thấy 9 trường hợp không ứ nước hoặc còn độ 1. Về biến chứng, có một trường hợp ống thông kim loại niệu quản di chuyển lên bể thận. Có 3 bệnh nhân nhiễm khuẩn đường tiết niệu, có 6 bệnh nhân tiểu máu vi thể. Kết luận: Ống thông niệu quản kim loại (Allium stent) bước đầu cho thấy cải thiện chất lượng cuộc sống và hiệu quả trong điều trị hẹp niệu quản không đáp ứng với các ống thông thông thường. Cung cấp thêm một công cụ mới trong dẫn lưu nước tiểu lâu dài. Tuy nhiên, chi phí cao hơn và độ phức tạp của việc đặt thông làm ảnh hưởng đến số lương bệnh nhân. Từ khóa: ống thông niệu quản kim loại, hẹp niệu quản *Trung Tâm Medic **Bệnh viện Bình Dân, TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Minh Thiền ĐT: 0903.744242 Email: thiennguyen200937@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 133 ABSTRACT EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF THE METALLIC URETERAL STENT: INITIAL RESULTS Nguyen Minh Thien, Le Tuan Khue, Pham The Anh, Do Ngoc Anh Khoa, Nguyen Tuan Vinh, Bui Van Kiet, Phan Thanh Hai * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 ‐ No 3 ‐ 2019: 132 ‐ 138 Background: Common ureteral stents are used to treat ureteral obstructions due to benign and malignant diseases. Conventional ureteral stents are often associated with problems such as encrustation (Thus replacement of stents is required every 3-6 months), stone formation, pain, infection, reflux, reduced ureteral motility and migration. An ideal stent should be asymptomatic and has long-term use, no encrustation and good drainage in all cases. However, there is no any ideal type of ureteral stent. We therefore highly recommend a new treatment for ureteral obstructions by using metallic urethral stents instead of traditional ureteral stents. Objectives: Evaluate the effectiveness of the metallic ureteral stents in treatment of irritative urinary tract and ureteral stricture which are ineffective with the intervention of common ureteral stents. Methods: We recruit a series cases of using Allium metallic stents. Patients were diagnosed with ureteral stenosis post receiving intervention of conventional ureteral stents. They experienced excessive stimulation (such as pain, frequency, excessive hematuria) or ineffective stent (like large hydronephrosis). We evaluate the effectiveness of the Allium metallic stent by considering criteria: hydronephrosis, hematuria, assessing painful emotions of urinary tract before and after the placement of Allium stents (We based on a Pain scale of WHO). Results: From June 2018 until December 2018. Ten patients (eight men and two women) were selected to participate in a trial of Allium metallic stenting. There were four cases of recurrent ureteropelvic junction (UPJ), four cases of ureteral stricture after having open surgeries, one case of ureteral stenosis following an endoscopic treatment of ureteral calculi, one case of an advanced cervical cancer. All patients sustained hydronephrosis with grade 2-3. After procedure, kidney ultrasound showed an improvement of hydronephrosis level (grade 0-1) in nine patients. Five out of five patients, who had experienced severe pain prior attending the Allium metallic stenting procedure, all were pain free (100% success). In terms of complications: one case experienced a stent migrating to the renal pelvis (10%), three cases experienced urinary tract infection (UTI), six cases sustained microscopic hematuria. Conclusions: The metallic ureteral stent initially showed an improvement in quality of life and the effectiveness of treatment of ureteral stenosis which was not responding well to the conventional ureteral stents. This new intervention also provides a new tool in long-term urine drainage. However, a high cost of this procedure would limit the number of patients contemplating. Keywords: metallic ureteral stent, ureteral obstruction ĐẶT VẤN ĐỀ Ống thông JJ thông thường sử dụng để điều trị sự tắc nghẽn niệu quản do bệnh lý lành tính và ác tính, ống thông JJ thông thường liên quan với những vấn đề như là sự bám sỏi vào ống thông (do đó đòi hỏi phải thay ống thông trong 3‐6 tháng), gây đau bàng quang, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, trào ngược bàng quang niệu quản, giảm nhu động niệu quản và di chuyển vị trí ống thông niệu quản(4,8). Một ống thông lý tưởng là không gây triệu chứng, sử dụng lâu dài, không gây bám sỏi và dẫn lưu tốt trong mọi trường hợp. Tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa có loại thông JJ thông thường nào thật sự lý tưởng, bệnh nhân được đặt thông JJ có nhiều tác dụng ngoại ý như nhiễm khuẩn ngược dòng, đau bàng quang, tiểu máu chiếm tỉ lệ khoảng 80%(10), nhiều nhất là đau bàng quang với tỉ lệ hơn 30%(6). Một số Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 134 trường hợp bệnh nhân rất đau đớn kèm rối loạn đi tiểu gây rối loạn cuộc sống(18). Để giải quyết các vấn đề này, đã từ lâu các nhà Niệu khoa Âu – Mỹ (đặc biệt ở Ý) đã ứng dụng ống thông niệu quản kim loại vào trong thực hành lâm sàng. Đây là kỹ thuật điều trị ít xâm hại, đã mang lại hiệu quả cao trong các trường hợp có chỉ định cần thiết. Ở Việt Nam, một số báo cáo ban đầu ở miền Bắc (bệnh viện Quân Đội 108, trong đó có báo cáo tại Hội nghị khoa học Bệnh viện Bình Dân 2017) đã cho thấy hiệu quả cao của phương pháp điều trị này. Cho đến nay, các bệnh viện chuyên khoa cũng như các Trung tâm Tiết niệu ở trong nước đang tiến hành ứng dụng phương pháp điều trị này, nhưng vẫn còn rất ít các báo cáo về hiệu quả điều trị. Do đó, đây là đề tài có tính bức thiết, góp phần giới thiệu thêm một phương pháp lựa chọn trong điều trị hẹp tắc nghẽn niệu quản tái phát nhưng không dung nạp ống thông JJ thông thường. Về lịch sử, các ống thông kim loại niệu quản được phát triển từ điều trị bệnh hẹp mạch máu và đường mật. Ống thông mạch vành kim loại đầu tiên được đặt ở bệnh nhân của Jacques Puel ở Toulouse, Pháp vào ngày 28 tháng 3 năm 1986. Sự phát triển tự nhiên của ống thông này đã được áp dụng trong tiết niệu cho nong niệu đạo, tuyến tiền liệt và cuối cùng là niệu quản. Ứng dụng ban đầu của ống thông niệu kim loại là trong điều trị hẹp niệu đạo(16). Các ống thông kim loại niệu quản này đã được mở rộng cho ống thông tuyến tiền liệt và sau đó là ống thông niệu quản. Ống thông niệu quản kim loại đầu tiên được mô tả bởi Gort và cs năm 1990. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá hiệu quả bước đầu của ống thông niệu quản kim loại trong điều trị triệu chứng kích thích và hẹp niệu quản mà không hiệu quả với những ống thông JJ thông thường. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng hẹp niệu quản có đặt ống thông thông thường nhưng có kích thích quá mức (đau, tiểu nhiều lần, tiểu máu nhiều) hoặc ống thông không hiệu quả dẫn lưu (vẫn còn ứ nước). Chúng tôi xét hiệu quả của ống thông qua tiêu chuẩn chọn bệnh bao gồm: độ ứ nước trước và sau khi đặt 3 tháng, tình trạng tiểu máu, đánh giá mức độ đau trước và sau khi đặt ống thông kim loại dựa theo thang điểm đau của Wong‐ Baker Faces Pain Scale. Phương pháp nghiên cứu Hàng loạt trường hợp tại phòng khám đa khoa y tế Hoà Hảo (Trung Tâm Y Khoa Medic) từ tháng 06 đến tháng 11 năm 2018, có 10 trường hợp sử dụng ống thông niệu quản kim loại. Chỉ định đặt ống thông kim loại Hiện nay, sử dụng ống thông niệu quản kim loại được chỉ định chủ yếu cho việc điều trị tắc nghẽn niệu quản trong bệnh lý ác tính. Hẹp niệu quản nặng không hiệu quả với ống thông thông thường. Những bệnh nhân không thể chịu được triệu chứng kích thích của ống thông thông thường(12). Ống thông niệu quản này (Allium Medical, Israel) được làm từ sợi NiTinol, kẹp giữa các dải polyme. Dải này là vật liệu kết hợp được đúc thành một ống thông hình trụ (Hình 1). Có hai đường kính 24 và 26 Fr và chiều dài 100 và 120 mm. Đoạn cuối của nó được thiết kế để duy trì trong bàng quang đường tiết niệu. Ống thông kim loại niệu quản được đặt vào niệu quản thông qua kênh của máy soi bàng quang, có đường kính 8Fr hoặc 10Fr. Khi ở đúng vị trí, sheath được rút ra để giải phóng và mở rộng ống thông. Các kết nối giữa các dải composite giống như gỡ tem bưu chính và có thể tách ra khi đầu xa của ống thông được kéo. Do đó, các ống thông khi gỡ bỏ đi ra trong hình dạng của một dãy băng. Ống thông này cũng có thể được đưa vào ngược từ bàng quang cũng như xuôi từ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 135 bể thận xuống, thời gian lưu thông # 36 tháng(14,17). Hình 1: Allium stent KẾT QUẢ Trong số 10 bệnh nhân tham gia đặt ống thông kim loại. Chúng tôi có 8 bệnh nhân nam và 2 bệnh nhân nữ. Có 4 bệnh nhân hẹp khúc nối tái phát sau phẫu thuật, bốn bệnh nhân hẹp niệu quản sau phẫu thuật can thiệp vào niệu quản, một bệnh nhân hẹp niệu quản tại vị trí sỏi khảm, một bệnh nhân ung thư cổ tử cung chèn ép hai niệu quản (Biểu đồ 1). Về nguyên nhân thì có 5 bệnh nhân không hiệu quả với ống thông thông thường. Có 2 bệnh nhân đau mức độ nặng do ống thông JJ thông thường muốn rút bỏ thông. Tất cả các trường hợp còn lại hẹp niệu quản nặng không hiệu quả với ống thông JJ thông thường (và có triệu chứng đau trung bình do ống thông JJ thông thường) (Biểu đồ 2). Tất cả các ống thông kim loại sau khi đặt đều đúng vị trí, nong rộng được chỗ hẹp. Hậu phẫu có đau vị trí đặt đặt ống thông kim loại (Hình 1, 2, 3). Tất cả bệnh nhân đều hết đau (100%). Trước khi đặt ống thông kim loại, tất cả bệnh nhân đều ứ nước thận độ 2‐3. Sau một tháng siêu âm lại thấy tất cả đều không ứ nước hoặc còn nhẹ (hoặc độ 1) (Bảng 1). Bảng 1 Hiệu quả sau khi đặt ống thông kim loại Trước khi đặt ống thông Sau khi đặt 01 tháng Độ ứ nước thận 2-3 10 01 Độ ứ nước thận nhẹ 0 09 4 4 1 1 Phân loại bệnh UPJ tái phát hẹp niệu quản sau mổ hẹp niệu quản sau sỏi K cổ tử cung tiến xa Biểu đồ 1 Phân loại bệnh 5 2 3 Nguyên nhân đặt stent kim loại stent không hiệu quả đau muốn bỏ thông kết hợp cả hai Biểu đồ 2 Nguyên nhân đặt ống thông kim loại Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 136 Hình 2: Trước khi đặt Hình 3: Trong thủ thuật Hình 4: Sau một tháng: siêu âm thận và KUB Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 137 Về biến chứng Có một trường hợp ống thông di chuyển lên bể thận, có 3 trường hợp nhiễm khuẩn đường tiết niệu và có 6 trường hợp tiểu máu vi thể sau một tháng. BÀN LUẬN Các đoạn ống thông kim loại được cho là có một số ưu điểm so với các ống thông JJ thông thường và cũng có chi phí cao(5,7). Các ưu điểm chính bao gồm thời gian lưu thông lâu hơn và ít thay ống thông thường xuyên hơn, dẫn đến tiết kiệm chi phí và ít gián đoạn trong các phương pháp điều trị khác như xạ trị hoặc hóa trị, v.v Phần lớn các ống thông trong thể loại này là phân đoạn, tính năng này có một số ưu điểm như ống thông này không đi qua miệng niệu quản, do đó bệnh nhân không bị kích thích bàng quang (một hậu quả không thể tránh khỏi của ống thông JJ thông thường). Điều này cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân có ống thông kim loại niệu quản(1,9,13). Trong bài báo có đề cập một trường hợp hẹp niệu quản sau tán sỏi nội soi, bệnh nhân từ đầu không đồng ý phẫu thuật tạo hình niệu quản, muốn đặt ống thông JJ niệu quản nhưng không hiệu quả với ống thông JJ thông thường. Sức mạnh vốn có của kim loại chống chèn ép do bướu cá tính nên ống thông kim loại dường như không bị tổn hại. Vì chúng làm từ loại thông cao cấp nên sự mở rộng của ống thông sớm là thuận lợi(11). Tỷ lệ lưu thông dài hơn có thể làm giảm nhu cầu thay đổi ống thông thường xuyên, tiết kiệm chi phí cũng như giảm sự bất tiện của bệnh nhân(3,5,15). Bàn về độ ứ nước sau khi đặt ống thông kim loại, chúng tôi có một trường hợp ung thư cổ tử cung chèn ép hai niệu quản, hẹp nhiều đoạn, do ống thông niệu quản kim loại có 3 kích thước (10, 12 và 20 cm) nên khi khảo sát vị trí hẹp nặng để đặt ống thông thì vị trí còn lại hẹp nhẹ nên vẫn gây ứ nước độ 2 sau khi đặt. Xử lí vấn đề này, chúng tôi phải đặt thông một ống thông (thông JJ 8Fr) lồng vào ống thông kim loại thì giải quyết được vấn đề ứ nước cho bệnh nhân. Về biến chứng, có một trường hợp ống thông di chuyển lên bể thận nhưng còn tác dụng nong đoạn hẹp khúc nối, thận ứ nước độ 1 nhưng bệnh nhân không muốn rút bỏ thống nên chúng tôi chưa rút ống thông bỏ. Ống thông bằng kim loại vẫn di chuyển, hoàn toàn hoặc không hoàn toàn, di chuyển dẫn đến tái phát của tắc nghẽn. Khi các ống thông phân đoạn chiếm một phần của niệu quản, sự di chuyển có thể xảy ra theo một trong hai hướng(13). Ngay cả một mức độ nhỏ của chuyển động của ống thông có thể dẫn đến tái phát tắc nghẽn của niệu quản. Thường ống thông ít có triệu chứng báo hiệu của sự di chuyển. Điều này có thể dẫn đến chậm phát hiện và mất chức năng thận. Bàn về 3 trường hợp nhiễm khuẩn đường tiết niệu sau một tháng: Do tất cả bệnh nhân trước khi đặt ống thông kim loại đều phải sạch khuẩn trong nước tiểu, nên sau một tháng kiểm tra nước tiểu thấy có nhiễm khuẩn nhưng không triệu chứng lâm sàng, chúng tôi cấy nước tiểu và điều trị khỏi. Các ống thông niệu quản kim loại cung cấp nhiều ưu điểm so với các ống JJ thông thường: loại cấp cao hơn, thời gian lưu thông lâu hơn (36 tháng), giảm sự liên quan đến bệnh tật và cải thiện chất lượng cuộc sống đã được báo cáo. Việc đặt ống thông kim loại cần phải có trung tâm chuyên khoa tiết niệu, cần máy C‐arm, máy soi bàng quang, máy soi niệu quản và cả về những chuyên gia hàng đầu có kinh nghiệm trong việc đặt ống thông niệu quản. Việc rút thông cũng rất phức tạp, cần phải soi niệu quản, cần phải gây mê hoặc tê tủy sống, phải kiểm soát nhiễm khuẩn đường tiết niệu thận tốt. KẾT LUẬN Ứng dụng lâm sàng hiện tại của ống thông kim loại trong điều trị tắc nghẽn niệu quản lành tính và ác tính cho thấy kết quả khá hứa hẹn. Ống thông niệu quản kim loại (Allium stent) bước đầu cho thấy cải thiện chất lượng cuộc Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 138 sống và hiệu quả trong điều trị hẹp niệu quản không đáp ứng với các ống thông thông thường. Tuy nhiên, chi phí cao hơn và độ phức tạp của việc đặt thông làm ảnh hưởng đến số lượng bệnh nhân. Cung cấp thêm một công cụ mới để dẫn lưu nước tiểu lâu dài. Sự an toàn của lựa chọn điều trị mới này đã được ghi nhận rất rõ và hiệu quả trong việc sử dụng ống thông kim loại ở một số chỉ định là tối ưu(2). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agrawal S, Brown CT, Bellamy EA, Kulkarni R (2009). The thermo‐expandable metallic ureteric stent: an 11‐year follow‐up. BJU Int; 103(3):372–376. 2. Al Aown A (2010). Clinical experience with ureteral metal stents. Indian J Urol; 26(4): 474–479. 3. Baumgarten AS, Hakky TS, Carrion RE, Lockhart JL, Spiess PE (2014). A single‐institution experience with metallic ureteral stents: a cost‐effective method of managing deficiencies in ureteral drainage. Int Braz J Urol; 40(2):225–231. 4. Duvdevani M, Chew BH, Denstedt JD (2006). Minimizing symptoms in patients with ureteric stents. Curr Opin Urol; 16:77‐82. 5. Fiuk J, Bao Y, Calleary JG, Schwartz BF, Denstedt JD (2015). The use of internal stents in chronic ureteral obstruction. J Urol; 193(4):1092–1100. 6. Haleblian G, Kijvikain K, de la Rosette J, Preminger G (2008). Ureteral stenting and urinary stone management: a systematic review. J Urol.; 179:424–30. 7. Hendlin K, Korman E, Monga M (2012). New metallic ureteral stents: improved tensile strength and resistance to extrinsic compression. J Endourol; 26(3):271–274. 8. Joshi HB, Newns N, Stainthorpe A, MacDonagh RP, Keeley FX Jr, Timoney AG (2003). Ureteral stent symptom questionnaire: development and validation of a multidimensional quality of life measure. J Urol; 169:1060‐4. 9. Joshi HB, Newns N, Stainthorpe A, MacDonagh RP, Keeley FX Jr, Timoney AG (2003). Ureteral stent symptom questionnaire: development and validation of a multidimensional quality of life measure. J Urol; 169(3):1060–1064. 10. Joshi HB, Okeke A, Newns N, Keeley FX, Jr, Timoney AG (2002). Characterization of urinary symptoms in patients with ureteral stents. Urology; 59:511–9 11. Kim KH, Cho KS, Ham WS, Hong SJ, Han KS (2015). Early application of permanent metallic mesh stent in substitution for temporary polymeric ureteral stent reduces unnecessary ureteral procedures in patients with malignant ureteral obstruction. Urology; 86(3):459–464. 12. Kulkarni R. (2014). Metallic stents in the management of ureteric strictures. Indian J Urol; 30(1): 65–72. 13. Kulkarni RP, Bellamy EA (1999). A new thermo‐expandable shape‐memory nickeltitanium alloy stent for the management of ureteric strictures. BJU Int; 83(7):755–759. 14. Leonardo C, Salvitti M, Franco G, De Nunzio C, Tuderti G, Misuraca L, Sabatini I, De Dominicis C (2013). Allium stent for treatment of ureteral stenosis. Minerva Urol Nefrol; 65(4):277–283. 15. Liatsikos EN, Siablis D, Kalogeropoulou C, Karnabatidis D, Triadopoulos A, Varaki L, Zabakis P, Perimenis P, Barbalias GA (2001). Coated v noncoated ureteral metal stents: an experimental model. J Endourol; 15(7):747–751. 16. Mattelaer JJ (2004). History of ureteral and urethral stenting. In: Stenting the Urinary System, 2 ed, pp 17–24. 17. Moskovitz B, Halachmi S, Nativ O (2012). A new self‐expanding, large‐caliber ureteral stent: results of a multicenter experience. J Endourol; 26(11):1523–1527. 18. Saltzman B (1988). Ureteral stents: indications, variations and complications. Urol Clin N Am.; 15:481–91. Ngày nhận bài báo: 01/04/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_cua_stent_nieu_quan_kim_loai_ket_qua_buoc.pdf
Tài liệu liên quan