Tài liệu Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nội soi tuyến yên qua xoang bướm: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 94
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI TUYẾN YÊN
QUA XOANG BƯỚM
Trần Hoàng Ngọc Anh**, Nguyễn Thị Kiều Thơ**, Trần Đình Khả*, Trần Minh Bảo Lộc*,
Lê Trọng Nghĩa*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nội soi U tuyến yên qua xoang bướm.
Phương pháp: Hồi cứu các trường hợp u Tuyến Yên đã được ứng dụng phẫu thuật nội soi qua xoang
bướm từ tháng 4/20011 - 7/2017. Bệnh nhân được ghi nhận các dấu hiệu lâm sàng, hình ảnh học, xét nghiệm nội
tiết và kết quả điều trị, phân loại u theo vị trí theo Hardy và chức năng nội tiết. Đánh giá kết quả điều trị bằng
thang điểm GOS tại thời điểm xuất viện và MRI kiểm tra sau 3 tháng.
Kết quả: Từ tháng 4/2011 - 7/2017, có 19 trường hợp được phẫu thuật nội soi tuyến yên qua xoang bướm
với độ tuổi từ 23- 74 tuổi, tỉ lệ nử/nam:10/9. Biểu hiện lâm sàng với giảm thị lực 15/19 (78%), bán manh thái
...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nội soi tuyến yên qua xoang bướm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 94
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI TUYẾN YÊN
QUA XOANG BƯỚM
Trần Hoàng Ngọc Anh**, Nguyễn Thị Kiều Thơ**, Trần Đình Khả*, Trần Minh Bảo Lộc*,
Lê Trọng Nghĩa*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nội soi U tuyến yên qua xoang bướm.
Phương pháp: Hồi cứu các trường hợp u Tuyến Yên đã được ứng dụng phẫu thuật nội soi qua xoang
bướm từ tháng 4/20011 - 7/2017. Bệnh nhân được ghi nhận các dấu hiệu lâm sàng, hình ảnh học, xét nghiệm nội
tiết và kết quả điều trị, phân loại u theo vị trí theo Hardy và chức năng nội tiết. Đánh giá kết quả điều trị bằng
thang điểm GOS tại thời điểm xuất viện và MRI kiểm tra sau 3 tháng.
Kết quả: Từ tháng 4/2011 - 7/2017, có 19 trường hợp được phẫu thuật nội soi tuyến yên qua xoang bướm
với độ tuổi từ 23- 74 tuổi, tỉ lệ nử/nam:10/9. Biểu hiện lâm sàng với giảm thị lực 15/19 (78%), bán manh thái
dương hai bên 11/19 (58%), 17/19 (89,5%) là U không chế tiết, 6/19 (31,5%) có suy tuyến yên trước phẫu thuật.
Kích thước U trung bình 21.6mm, 10/19 (52,5 %) phân độ B theo Hardy và 7/19 (37%) phân độ C, 10/19 (52%)
là U dạng hổn hợp, 3/19 (16%) là U dạng nang và 6/19 (32%) là U dạng đặc. Kết quả sau mổ lấy toàn bộ u trong
13/19 trường hợp (68,4%), 2trường hợp (10,5%) lấy gần hết u, 4/19 (21,1%) trường hợp lấy được bán phần u.
Theo thang điểm GOS tất cả bệnh nhân đều kết quả tốt, 1 trường hợp có xuất huyết mũi tái phát sau mổ. 12/15
(80%) thị lực có cải thiện sau mổ, tuy nhiên chỉ có 1/6 (12,5%) có cải thiện nội tiết sau mổ.
Kết luận: Với tổng kết hiệu quả của phẫu thuật nội soi tuyến yên qua xoang bướm tai bệnh viện Nhân Dân
Gia Định cho thấy một kết quả tương đối an toàn và hiệu quả. Góp phần vào sự phát triển chung của chuyên
nghành ngoại thần kinh Việt Nam.
Từ khóa: U tuyến yên, nội soi, qua xoang bướm, bán manh thái dương hai bên.
ABSTRACT
ENDOSCOPIC ENDONASAL TRANSPHENOIDAL APPROACH FOR TREATMENT THE PITUITARY
ADENOMAS
Tran Hoang Ngoc Anh, Nguyen Thi Kieu Tho, Tran Đinh Kha, Tran Minh Bao Loc, Le Trong Nghia
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 94 – 99
Objectives: We evaluated the short-term results of endoscopic transphenoidal treatment of pituitary
adenomas.
Methods: We performed retrospective analyses of all pituitary adenomas operated by endoscopic
transphenoidal technique at Nhan Dan Gia Dinh hospital from the April 2011 to July 2017. These patients were
recorded the clinical, imaging features, bilan the endocrine test and surgical results. Classification of tumors based
on the Hardy, the results were evaluated by GOS when discharge and MRI check after 3 months.
Results: From the April 2011 to July 2017, 19 cases pituitary adenomas were operated by endoscpopic
transphenoidal, age 23 - 74 yrs, Female/male = 10/9. Clinical feature with reduce visual acuity in 15/19 (78%),
hemianopsia temporal bilateral in 11/19 (58%), 17/19 (89.5%) non-secrecting tumeur, 6/19 (31.5%) present with
* BM Ngoại Thần Kinh – ĐHYD.
** Khoa Ngoại Thần kinh, Khoa Tai Mũi Họng - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Tác giả liên lạc: TS BS Trần Hoàng Ngọc Anh ĐT: 0908152315 Email:drngocanh2002@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 95
pituitary insufficiency. Tumeur diameter averrage 21.6 mm, 10/19 (52%) in tumeur type mix, 3/19 (16%) in
tumeur type cyst and 6/19 (32%) in tumeur type compact.
Surgical results with total removal in 13/19 (71%), nearly total removal in 2/19 (10.5%) and 4/19 (21.1%)
removed sub-total. GOS =5 in all most the cases. 12/15 (80%) visual acuity improve post -op and only 1/6 case
endocrine improve post-op.
Conclusion: This initial resultconfirms the safety and relative effication of endoscopic transphenoidal
treatment for the patients with the pituitary adenomas at Nhan Dan Gia Dinh hospital.
Key words: Pituitary adenoma, endoscopy, transphenoidal, hemianopsia temporal bilaterale.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U tuyến yên là U lành tính phát triển từ tế
bào thùy trước tuyến yên. Đây là một trong
bốn loại u trong sọ hay gặp nhất, chiếm 8-15%
tổng số u trong hộp sọ. U tuyến yên cũng là U
hay gặp nhất ở vùng hố yên. U lần đầu tiên
được Pierre Marie mô tả năm 1866 với dấu
hiệu to các đầu chi và hố yên dãn rộng. Chẩn
đoán U tuyến yên không quá khó khăn khi
dựa vào lâm sàng với 3 hội chứng là hội chứng
rối loạn nội tiết, chèn ép giao thoa thị giác và
tăng áp lực nội sọ(2,3).
Phương pháp phẫu thuật U tuyến yên
bằng đường mổ qua xoang bướm là phương
pháp được chọn lựa đầu tiên khi quyết định
phẫu thuật. Đây là đường mổ đi qua nền sọ để
mở vào sàn hố yên và lấy u mà không phải mở
hộp sọ và không phải vén não. Kỹ thuật này
đã áp dụng thành công ở các nước phát triển
nhờ những tiến bộ về phương tiện chẩn đoán
hình ảnh, kính vi phẫu thuật và nội soi. Tuy
nhiên với sự tiến bộ của phẫu thuật nội soi
xoang và với sự phối hợp giữa Phẫu thuật viên
Tai Mũi Họng và ngoại Thần Kinh thì kỹ thuật
ứng dụng nội soi trong phẫu thuật U tuyến
yên qua xoang bướm bắt đầu được sử dụng
rộng rãi(4,5). Tại Việt Nam Phẫu thuật nội soi
tuyến yên qua xoang bướm cũng đã được thực
hiện tại các trung tâm phẫu thuật thần kinh
lớn trong nước. Tại Bệnh Viên Nhân dân Gia
Định với sự phát triển của khoa Tai Mũi Họng
và Khoa ngoại Thần Kinh trong lĩnh vực nội
soi sàn sọ với bước đầu là sự phối hợp hai
chuyên khoa trong phẫu thuật u tuyến yên, vì
vậy cần thực hiện đề tài đánh giá hiệu quả của
việc ứng dụng kỷ thuật này tại bệnh viện(1,7,9).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu mô
tả hàng loạt ca. Địa điểm thực hiện là Bệnh Viện
Nhân Dân Gia Định. Thời gian thu thập số liệu
là từ tháng 4 năm 2011 đến tháng 7 năm 2017.
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các bệnh nhân
U tuyến yên được phẫu thuật nội soi tuyến yên
qua xoang bướm. Mỗi bệnh nhân được khám
lâm sàng, khám mắt đánh giá thị lực thì trường,
bilan nội tiết trước mổ, chụp MRI não có thuốc
tương phản để chẩn đoán xác định U, phân loại
U trên MRI theo tác giả Hardy. Các bệnh nhân sẽ
được đánh giá lại lâm sàng lúc xuất viện và chụp
lại MRI não và Bilan nội tiết sau 3 tháng.
Phân loại dựa theo vị trí của khối u trên hình
ảnh của cộng hưởng từ (phân loại của Hardy):
Giai đoạn A: U chỉ nằm trong hố yên, phía
trên không vượt qua hoành yên không quá
10mm và nằm trong bể gaio thoa thị giác;
Giai đoạn B: U phát triển lên trên từ 10-20
mm, đè đẩy cuống tuyến yên và giao thoa thị giác;
Giai đoạn C: U phát triển lên phía trên yên
20 - 30 mm, đè đẩy phần trước não thất III, u
phát triển đến lỗ Monro;
Giai đoạn E: U xâm lấn sang bên như xoang
hang, hố thái dương hay nơi khác.
Kỹ thuật mổ nội soi UTY qua xoang bướm
Chuẩn bị tại phòng bệnh
Xem xét lại toàn bộ dấu hiệu lâm sàng, xét
nghiệm nội tiết, hình ảnh khôi U trên CTscan và
CHT.Vệ sinh vùng mũi, họng (bằng nước muối
sinh lý) trước khi mổ một ngày.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 96
Chuẩn bị tại phòng mổ
Gây mê nội khí quản, chuẩn bị hệ thống nội
soi, chuẩn bị C-arm trong mổ, định vị khối U,
vùng xoang bướm và sàn hố yên trên máy C-
arm, gây tê và vệ sinh niêm mạc mũi 2 bên.
Kỹ thuật mổ
Tư thế mổ
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu đặt trên vòng
đầu, cao 15 độ, lệc sang trái 15 độ. PTV đứng bên
phải và dụng cụ viênvà phụ mổ đứng bên trái
PTV. Màn hình camera đứng bên trái trên bệnh
nhân, máy gây mê và bác sỹ gây mê đứng bên
phải trên của bệnh nhân.
Các thì phẫu thuật
Phẫu thuật viên Tai Mũi Họng
Thì 1: Ép hoặc cắt cuốn mũi giữa, bộc lộ lỗ
bướm, tách niêm mạc vách mũi lên trên hoặc
xuống dưới bộc lộ thành trước xoang bướm.
Thì 2: Mở vào xoang bướm, mở thành trước
xoang bướm, có thể lấy bỏ vách ngăn xoang
bướm nếu cần và lấy niêm mạc xoang bướm.
Phẫu thuật viên ngoại Thần Kinh
Thì 3: Mở thành trên xoang bướm (hay sàn
hố yên).
Thì 4: Mở màng não và bao U đề lấy U bằng
Ring curret hoặc ống hút.
Thì 5: Kiểm tra, cầm máu, đặt Merocel cầm
máu hai bên hốc mũi.
KẾT QUẢ
Triệu chứng lâm sàng
Trong 19 trường hợp phẫu thuật, bệnh nhân
có độ tuổi nhỏ nhất 23 và lớn nhất là 74 tuổi với
độ tuổi trung bình 48. Có 10 trường hợp nữ
chiếm 52,6% và 9 trường hợp nam chiếm 47,4%.
Thời gian khởi phát bệnh dài nhất là 12 tháng
ngắn nhất là 10 ngày trung bình là 6,5 tháng. Lý
do nhập viện chủ yếu của bệnh nhân là đau đầu
và giảm thị lực với đau đầu 18/19 trường hợp
chiếm 94%, mờ mắt trong 15/19 bệnh nhân
chiếm 78%, 3 trường hợp rối loạn kinh nguyệt
sau đó tắt kinh sớm, 1 trường hợp rối loạn điện
giải do suy yên vào viện với tình trạng rối loạn
tri giác do hạ Natri máu, 1 trường hợp khác do
to đầu chi, và 1 trường hợp khác do bị cường
giáp. Biểu hiện lâm sàng với các triệu chứng của
khiếm khuyết thị trường với bán manh thái
dương hai bên 11/19 trường hợp chiếm 58%, góc
manh thái dương 4/19 chiếm 21%, 2 trường hợp
có liệt vẫn nhãn 1 bên mắt trước mổ. Bilan nội
tiết trước mổ cho thấy chỉ có 2 trường hợp là U
chế tiết bao gồm 1 trường hợp gây bệnh cảnh
cường giáp do tăng tiết TSH, trường hợp còn lại
là bệnh to đầu chi do tăng tiết GH, 17/19 trường
hợp còn lại là U không chế tiết.
Bảng 1: Triệu chứng lâm sàng
Đặc điểm Tần số (n)
Tỉ lệ %, độ lệch
chuẩn
Tuổi 48,68 15,25
Giới
Nam 9 47,4
Nữ 10 52,6
Thời gian khởi phát 6,5 tháng 15,2
Lý do nhập viện
Đau đầu
Mờ mắt
Rối loạn kinh nguyệt
Khác
18
15
3
5
94
78
16
14
Lâm sàng
Bán manh thái dương 2 bên 11 58
Góc manh thái dương 4 21
Liệt vận nhãn 2 10,5
Hội chứng nội tiết
U không chế tiét
U chế tiết
17
2
895
105
Xét nghiêm nội tiết và hình ảnh học
Xét nghiệm nôi tiết trước mổ cho thấy có
6/19 trường hợp bị suy tuyến yên trước mổ
chiếm 31,5%, chủ yếu là giảm Cortisol và chức
năng tuyến giáp.
Tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán xác
định bằng MRI có bơm thuốc cản từ. Phát hiện U
với kích thước lớn nhất là 33 mm, nhỏ nhất là
14mm trung bình 21,6 mm với phân loại nhóm B
theo Hardy 10/19 trường hợp chiếm 52,5% và
7/19 trường hợp có phân loại C, 2 trường hợp U
có kích thước nhỏ nhưng đã xâm lấn vào xoang
hang gây liệt các dây vận nhãn nên được phân
loại E. Phân loại tính chất U dựa trên hình ảnh
hợc MRI cho thấy 3/19 trường hợp U dạng nang,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 97
6/19 trường hợp U dạng hổn hợp và 10/17
trường hợp chiếm 52% là U dạng hổn hợp vừa
có phần đặc và phần nang bên trong.
Bảng 2: Cận lâm sàng
Đặc điểm
Tần số (n) hay
trung bình
Tỉ lệ % hay độ
lệch chuẩn
Rối loạn Nội Tiết
Suy Yên
Cường Giáp
To cực
6
1
1
31,5
5,25
5,25
Kích thước U 21,6 mm 4,8
Phân loại Hardy:
B
C
E
10
7
2
52,5
37
105
Tính chất U:
Dạng nang
Dạng đặt
Hổn hợp
3
6
10
16
32
52
Kết quả phẫu thuật và biến chứng
Kết quả lấy U được đánh giá bởi phẩu thuật
viên trong mổ và được kiểm tra lại bởi hình ảnh
học sau mổ 3 tháng cho thấy kết quả lấy toàn bộ
U trong 13/19 trường hợp chiếm 68,4%. 2 trường
hợp chiếm 10,5% lấy gần hết U nhóm này chủ
yếu là do U xâm lấn 1 phần vào xoang hang. Có
4 trường hợp lấn được bán phần U do mật độ U
chắc gặp trong 1 trường hợp, còn 3 tường hợp
còn lại do U lớn, khi lấy trong lòng U, màng
nhện hoành yên xuống nhanh nên màng nhện
che khuất phần U còn lại. Trong 6 trường hợp U
còn lại này, 1 bệnh nhân được phẫu thuật lại để
lấy toàn bộ U, 5 trường hợp còn lại được chuyển
xạ trị Gamma Knife.
Biến chứng sau mổ có 1 trường hợp xuất
huyết trong U sau mổ bệnh nhân xấu hơn
nhưng điều trị nội, theo dõi các ngày sau bệnh
ổn định lại, 1 trường hợp sau mổ 2 tuần nhập
viện vì bị chảy máu mũi tái phát phải cần nội soi
kiểm tra cầm máu. Tất cả 19 trường hợp đều có
GOS = 5 khi xuất viện, 12/15 trường hợp có cải
thiện thị lực sau mổ chiếm 80%, tuy nhiên 3/15
trường hợp thị lực không thay đổi nằm trong
nhóm chỉ lấy được bán phần U.
Trong nhóm 8 bệnh nhân có rối loạn nội tiết
sau mổ, chỉ có 2 trường hợp có cải thiện nội tiết
sau mổ, trường hợp cường giáp mặt dù trên MRI
U đã lấy hết tuy nhiên triệu chứng lâm sàng và
cận laam sàng chưa cải thiện cần phải điều trị
nội khoa thêm. 6 trường hợp suy tuyến yên
trước mổ, chỉ có 1 trường hợp nhẹ có cải thiện, 5
trường hợp còn lại có suy toàn bộ tuyên yên
trước mổ thì không cải thiện sau mổ phải cần
điều trị hóc môn thay thế.
Bảng 3: Kết quả và biến chứng phẫu thuật
Đặc điểm
Tần số
(n)
Tỉ lệ % hay độ
lệch chuẩn
Mức độ lấy U:
Toàn bộ
Gần hết
Bán phần
13
2
4
68,4
10,5
21,1
GOS 519 100
Biến chứng sau mổ:
Xuất huyết trong U
Chảy máu mũi tái phát
1
1
5.2
5,2
Rối loạn nội tiết sau mổ:
Cải thiện
Không cải thiện
2
6
25
75
BÀN LUẬN
Tuyến yên là một tuyến nội tiết và do đặc
điểm giải phẫu đặt biệt của tuyến yên được bao
quanh bởi các cấu trúc quanh trọng bao gồm
động mạch cảnh hai bên, dây thị và giao thoa thị
giác phía trên nên biểu hiện lâm sàng của U
tuyến yên bao gồm hội chứng do chèn ép của u
và hội chứng nội tiết. Trong nghiên cứu của
chứng tôi 78% trường hợp có giảm thị lực khi
nhập viên trong đó 58% có bán manh thái dương
hai bên và 21% có góc manh thái dương, đặt biệt
có 2 trường hợp có liệt vận nhãn khi nhập viện
do u xâm lấn thành xoang hang và xuất huyết.
Ngoài ra chúng tôi có 6 trường hợp bệnh nhân
có suy tuyến yên khi nhập viện do khối U chèn
ép trong đó 5 trường hợp bị suy tuyến yên toàn
bộ và 1 trường hợp suy tuyến yên 1 phần, tất cả
các trường hợp này chứng tôi cần phải hội chẩn
vơi nội tiết và sử dụng hóc môn thay thế bù ổn
định trước phẫu thuật. Suy tuyến yên trước mổ
là tiên lượng xấu cho sự hồi phục, 5 trường hợp
suy tuyến yên toàn bộ của chúng tôi không hồi
phục sau phẫu thuật và cần phải sử dụng hốc
môn thay thế đặt biêt là hóc môn tuyến giáp và
Cortisol, riêng chỉ có trường hợp suy 1 phần
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 98
tuyến yên thì có hồi phục sau mổ.
Măc dù kỹ thuật vi phẫu thuật U tuyến yên
qua xoang bướm được ứng dụng rộng rãi trong
các trung tâm phẫu thuật thần kinh với số lương
bệnh nhân lớn như E. Laws mổ 3580 bệnh nhân
năm 1999, C. Wilson báo cáo 3182 bệnh nhân
năm 2001. Tuy nhiên với sự tiến bộ của phẫu
thuật nội soi xoang và với sự phối hợp giữa
phẫu thuật viên Tai Mũi Họng và phẫu thuật
viên ngoại thần kinh chuyên về sàn sọ thì kỹ
thuật ứng dụng nội soi trong phẫu thuật U
tuyến yên qua xoang bướm được sử dụng rộng
rãi đặt biệt là H. D Iho, C Teo đã sử dụng kỹ
thuật này với tỉ lệ thành công trên 90%, biến
chứng dưới 5%, và tử vong dưới 1%(6,8). Tại bệnh
viện Nhân Dân Gia Định ngay từ lúc ban đầu
chúng tôi cũng thực hiện một đội gồm hai
chuyên khoa ngoại Thần Kinh và Tai mũi họng
phối hợp nhịp nhàng trong khi tiến hành phẫu
thuật U vị trí này, phẫu thuật viên ngoại thần
kinh và Tai mũi họng đều hội chẩn và lên kế
hoạch tỉ mỹ trước mổ cho từng trường hợp, mặc
khác chuyên khoa nội tiết xem xét và cho những
hướng dẫn nội tiết trước và sau mổ là rất cần
thiết để mang lại các kết quả tốt cho bệnh nhân.
Mức độ lấy U là một trong những yếu tố
quan trọng cho sự thành công của phẫu thuật,
đễ đạt được kết quả lấy u tốt phụ thuộc vào hai
yếu tố, yếu tố đầu tiên là phụ thuộc vào tính
chất, đường kính và mức độ xâm lấn U. Trong
nghiên cứu của chúng tôi 18/19 trường hợp u có
mật độ mềm nên việc lấy u thuận lợi, chỉ duy
nhất 1 trường hợp U dai chắc nên chỉ lấy được 1
phần u, 2 trường hợp U xâm lấn vào xoang hang
chúng tôi khi lấy u cũng để lại phần u này và 3
trường hợp còn lại u khá lớn, khi vừa lấy được 1
phần u, màng nhện hoành yên di chuyển đi
xuống cản trở thao tác lấy u nên sau khi chụp
liểm tra thấy còn lại một phần u. Yếu tố quan
trọng thứ hai là kinh nghiệm của phẫu thuật
viên khi lấy u, yếu tố này ngày càng được cải
thiện khi có ứng dụng nôi soi, sau khi lấy trong
lòng U, chúng tôi tiến hành đưa nội soi vào
trong lòng U, quan sát xung quanh để xác định
có còn u hay không, giúp lấy đươc U nhiều nhất
có thể. Do đặc điểm số lượng bênh mổ chưa
nhiều nên chưa thể có kết luận chính xác, qua 19
trường hợp phẫu thuật trong 6 năm chúng tôi
cũng chỉ đạt được 68,4% trưởng hợp lấy toàn bộ
U được kiểm tra lại bằng cộng hưởng từ sau mổ,
6 trường hợp lấy gần hết và bán phần U, 1
trường hợp chúng tôi phải phẫu thuật lại do U
phát triển chèn ép vào giao thoa thị giác 1 năm
sau đó, còn 5 trường hợp còn lại chứng tôi phối
hợp điều trị Gamma knife bổ sung, tất cả bệnh
nhân đều có kết quả tốt.
Với sự kết hợp giữa phẫu thuật viên Tai Mũi
Họng thao tác thuần thục nội soi xoang nên việc
đi vào, xác định lỗ bướm cũng như bộc lộ thành
trước xoang bướm khá thuận lợi. Tiếp theo phẫu
thuật viên ngoại thần kinh với các tiếp cận hai
bên mũi với một bên phẫu thuật viên phụ giữ
Scope, phẫu thuật viên chính thao tác hai tay hai
bên giống như thao tác dưới vi phẫu đã tạo cho
phẫu thuật viên cảm giác thoải mái và an toàn
khi tiếp cận và xử lý thương tổn. Nhược điểm
của sự phối hợp này là thời gian phẫu thuật kéo
dài hơn so với bình thường, tuy nhiên cách phối
hợp đã mang lại hiệu quả an toàn trong phẫu
thuật trên bệnh nhân như trong nghiên cứu của
chúng tôi không có các biến chứng như chảy
dịch não tuỷ sau mổ, cũng như đi lạc đường tổn
thương các cấu trúc lân cận, chúng tôi chỉ có một
trường hợp chảy máu mũi tái phát 10 ngày sau
phẫu thuật do chảy máu từ động mạch bướm
khẩu cái tái phát. Trường hợp này chúng tôi
phải tiến hành nội soi cầm máu lại và sau đó ổn
định. Vì vậy sự phối hợp giữa phẫu thuật viên
Tai Mũi Họng chuyên về nội soi xoang với phẫu
thuật viên ngoại thần kinh chuyên về phẫu thuật
sàn sọ để xử lý các thương tổn dưới nội soi là xu
thế của thời đại mang lại sự an toàn khi phẫu
thuật cho bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Với kết quả bước đầu ứng dụng nội soi qua
xoang bướm trên 19 bệnh nhân U tuyến yên với
79% bệnh nhân được phẫu thuật lấy hết và gần
hết u. Kết quả theo thang điểm GOS =5 đạt được
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 99
cho tất cả các trường hợp cho thấy một bước tiến
bộ mới trong khoa phẫu thuật ngoại thần kinh
bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Tuy nhiên cần
phải cải thiện về kỹ thuật mổ, phương tiện phẫu
thuật cũng như phác đồ theo dõi bệnh nhân để
hạn chế tối đa các biến chứng khi điều trị bệnh lý
khó khăn này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Atkingson JL et al (2008), Sublabial transseptal vs transnasal
combine endoscopic microsurgery in patients with Cushing
disease and MRI- depicted microadenoam. Mayo clin Proc. 83(5):
550-553.
2. Charalampaki P et al (2006), Image –guided endonasal
transphenoidal microsurgical treatment of recurrent
microadenomas of the pituitary gland, Minim Invasive
Neurosurg: 4992): 93-97.
3. Hong J et al (2008), clinical analysis of 103 elderly patients with
pituitary adenomas: Transsphenoidal surgery and follow-up. J
Clin Neurosci. 15(10): 1091-1095
4. Jho HD and Alfieri A (2001), Endoscopic endonasal pituitary
surgery: evolation of surgical technique and equipment in 150
operations, Minim Invasive Neurosurg, 44, 1-12.
5. Kitano IL et al (2008), Extended transsphenoidal approach,
Journal of Neurosurgery, 95, 917-918.
6. Lubbe D and Semple P (2008), Pre-operative assessement of
patients undergoing endoscopic, transnasal, transsphenoidal
pituitary surgery. J Laryngol Otol. 122 (6): 644-646.
7. Lý ngọc Liên, Lê Hồng Nhân và Đồng Văn Hệ (2002), Đánh giá
kết quả mổ U tuyến bằng đường mổ qua xoang bướm (nhân 42
ca), Tạp chí Ngoại Khoa.
8. Neal JG et al (2007), Comparision of techniques for
transsphenoidal pituitary surgery. Am J Rhinol, 21 (2): 203-206.
9. Nguyễn Phong và Võ Văn Nho (2003), Adenoma tuyến yên: đặc
điểm lâm sàng và kết quả phẫu thuật bằng đường mổ qua
xoang bướm, Y học Tp Hồ Chí Minh, 7, 1-4.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/09/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_cua_phau_thuat_noi_soi_tuyen_yen_qua_xoang.pdf