Tài liệu Đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 44
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA BIS
TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT BỤNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Nguyễn Văn Chinh*, Chung Nguyễn Anh Hùng*
TÓM TẮT
Ổn định mạch, huyết áp trong lúc đặt nội khí quản, giảm tiêu thụ lượng thuốc mê khi theo dõi độ mê dưới
hướng dẫn của BIS đã được chứng minh trong nghiên cứu gây mê phẫu thuật bụng. Vì thế chúng tôi thiết kế
nghiên cứu này nhằm kiểm tra có hay không có theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS giúp giảm lượng thuốc mê
propofol, ổn định mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê cũng như giảm lượng sevoflurane duy trì mê ở phẫu
thuật bụng người cao tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
trên 66 bệnh nhân người cao tuổi từ 65-85 được phẫu thuật ở bụng, tất cả khởi mê bằng phương pháp gây mê
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Nhóm BI...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 44
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA BIS
TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT BỤNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Nguyễn Văn Chinh*, Chung Nguyễn Anh Hùng*
TÓM TẮT
Ổn định mạch, huyết áp trong lúc đặt nội khí quản, giảm tiêu thụ lượng thuốc mê khi theo dõi độ mê dưới
hướng dẫn của BIS đã được chứng minh trong nghiên cứu gây mê phẫu thuật bụng. Vì thế chúng tôi thiết kế
nghiên cứu này nhằm kiểm tra có hay không có theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS giúp giảm lượng thuốc mê
propofol, ổn định mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê cũng như giảm lượng sevoflurane duy trì mê ở phẫu
thuật bụng người cao tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
trên 66 bệnh nhân người cao tuổi từ 65-85 được phẫu thuật ở bụng, tất cả khởi mê bằng phương pháp gây mê
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Nhóm BIS gồm 33 trường hợp và điều
chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman. Nhóm không BIS gồm 33 trường hợp và điều chỉnh độ mê dựa trên các dấu hiệu
lâm sàng. Xử lý số liệu bằng phần mền thống kê STATA 13,0.
Kết quả: Lượng propofol trung bình trong giai đoạn khởi mê nhóm bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2)
mg, ít hơn nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS (67,2 ± 8,1) mg, với p = 0,001, sự thay đổi mạch và huyết áp
trong quá trình khởi mê cả hai nhóm hầu như ít thay đổi, có mối tương quan tuyến tính nghịch, vừa giữa BIS và
nồng độ propofol tại não trong quá trình khởi mê (r = -0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến tính BIS = 89
- 13×Ce-propofol, lượng sevoflurane trung bình tiêu thụ trong nhóm bệnh nhân sử dụng BIS giảm 20% so với
nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS, với p = 0,003.
Kết luận: Nhờ có BIS theo dõi độ sâu trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có hiệu quả và an
toàn trong quá trình khởi mê ở người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane trong duy trì mê.
Từ khóa: Chỉ số lưỡng phổ, phẫu thuật bụng, propofol, sevoflurane, kiểm soát nồng độ đích, nồng độ
propofol huyết tương, nồng độ propofol tại não.
ABSTRACT
THE EFFECT OF ANESTHETIC BISPECTRAL INDEX IN MONITORING ABDOMINAL SURGERY
FOR ELDERLY PATIENTS
Nguyen Van Chinh, Chung Nguyen Anh Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 44 - 49
Background: Stable pulse, blood pressure during intubation, reducing consumption when the monitor of
anesthesia under the guidance of BIS has been proven in anesthesia abdominal surgery. So we designed this study
to examine whether or not there is monitoring indicators of anesthesia with BIS reduces the anesthetic protocol,
stable pulse, blood pressure during induction and maintenance of anesthesia reduces sevofluane abdominal
surgery in elderly.
Methods: We performed clinical trial randomized 66 patients controlled on elderly people from 65-85
abdominal surgery, all of induction of anesthesia with intravenous protocol target concentration control and
maintaining anesthesia with sevoflurane. BIS group includes 33 cases and adjust the scheme German maze. Non-
BIS group includes 33 cases and adjust the maze based on clinical signs. The data analysis using STATA software
* Khoa phẫu thuật - Gây mê hồi sức Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: BS Chung Nguyễn Anh Hùng ĐT: 0936666720 Email: chungnguyenanhhung@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 45
13.0.
Results: The average amount of protocol in the induction phase patients using BIS (55.2 ± 6.2) mg less than
the group of patients not using BIS (67.2 ± 8.1) mg with p = 0.001, changes in pulse and blood pressure during
induction of anesthesia both groups hardly changed, with a linear inverse correlation, just between BIS and
protocol concentrations in the brain in the process of induction (r = -0.53, p = 0.001), the linear regression
equation BIS = 89 -13 × Ce-propofol, sevoflurane average amount consumed in the group of patients using BIS
decreased 20%, with p = 0.003.
Conclusion: Thanks to BIS monitor depth of anesthesia, intravenously control target levels are very effective
and safe during induction of anesthesia in the elderly, 20% reduction in the amount maintained sevoflurane
anesthesia.
Keywords: bispectral index, abdominal surgery, protocol, sevoflurane, target controlled infusion, Cp-
protocol, Ce-propofol.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật người cao tuổi có nhiều nguy cơ
trong quá trình khởi mê, nếu liều thuốc mê quá
thấp sẽ làm huyết áp tăng vọt, nhịp tim nhanh,
cử động, nhớ, khó đặt nội khí quản, ngược lại
nếu liều quá cao sẽ ức chế hô hấp, tụt huyết áp
nghiêm trọng dẫn đến thiếu máu não, nguy cơ
tử vong cao. Vì vậy để hiệu quả chúng tôi dùng
máy bơm tiêm truyền tĩnh mạch propofol (TCI-
propofol) để khởi mê từ từ. Nhưng gây mê kiểm
soát nồng độ đích người cao tuổi chỉ ước lượng
khoảng nồng độ propofol trong giới hạn cho
phép nhưng không xác định nồng độ propofol
lên não chính xác là bao nhiêu (vì sai số giữa
nồng độ máy tính toán và nồng độ thật sự thuốc
mê có thể 20-3)(2) chính vì thế theo hướng dẫn
của BIS giúp kiểm soát nồng độ propofol hiệu
quả khi khởi mê, ổn định mạch, huyết áp, đảm
bảo độ mê đủ sâu để tiến hành đặt nội khí quản
an toàn và trong quá trình duy trì mê tránh nguy
cơ thức tỉnh, giảm lượng thuốc mê thể khí, thiết
lập nguyên tắc dùng thuốc vận mạch, xử trí thay
đổi huyết động một cách kịp thời(13,12,11).
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tổng lượng trung bình propofol
trong quá trình khởi mê cả hai nhóm.
Đánh giá sự thay đổi mạch, huyết áp trong
quá trình khởi mê cả hai nhóm.
Xác định mối tương quan giữa BIS với nồng
độ thuốc mê propofol tại não (Ce-propofol)
trong quá trình khởi mê.
Lượng sevoflurane tiêu thụ trung bình trong
quá trình duy trì mê cả hai nhóm.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối
chứng, không mù.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân từ 65-85 tuổi, được phẫu
thuật bụng từ tháng 11-2015 đến 6-2016, tại Bv
Nguyễn Tri Phương, có ASAII-III, thời gian
phẫu thuật < 4 giờ, không dị ứng với propofol,
không suy tim nặng (phân suất tống máu <
35%), BMI < 23, men gan (SGOT, SGPT) < 2 lần
bình thường, Creatinine máu < 200umol/l,
không rối loạn đông máu, nghe và trả lời bằng
tiếng Việt.
Phương pháp tiến hành
Tại phòng phẫu thuật bệnh nhân được gắn
các thiết bị theo dõi như ECG, Sp02, đặt đường
truyền tĩnh mạch kim 18G, huyết áp động mạch
không xâm lấn. Nhóm bệnh nhân theo dõi độ
mê bằng BIS chuẩn bị như sau: lau trán bênh
nhân bằng alcool, đợi khô để dán điện cực như
đề nghị của nhà sản xuất, trong gây mê nên duy
trì BIS 40-60.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 46
Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: 33
trường hợp được theo dõi bằng BIS (nhóm I), 33
trường hợp theo dõi độ mê dựa trên dấu hiệu
lâm sàng (nhóm II). Tất cả bệnh nhân hai nhóm
được khởi mê từ từ bằng TCI, cài đặt nống độ
propofol ban đầu Cp = 2mcg/ml, sau mỗi phút
tăng lên 0,5 mcg/ml. Đối với nhóm I, khi BIS = 50
chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg đợi 3 phút
đặt nội khí quản, còn nhóm II khi OAAS=1
(Observer’s Assessment of Alertness Sedation:
thang điểm đánh giá mức độ an thần dựa trên
quan sát, chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg
cũng đợi 3 phút đặt nội khí quản.
Cả 2 nhóm bệnh nhân được duy trì thuốc mê
thể khí sevoflurane và oxy, với lưu lượng khí
mới 2 lít/phút và có theo dõi nồng độ khí mê,
EtCO2 bằng máy gây mê Dragger. Nhóm I điều
chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman, nhóm II chỉnh
độ mê dựa trên dấu hiệu lâm sàng và duy trì
mạch, huyết áp trong khoảng ± 20% so với giá trị
ban đầu. Dùng các thuốc vận mạch như
nicardipine, ephedrine khi cần,tắt sevoflurane
sau khi đóng da xong.
Ghi nhận các trị số nồng độ Cp-propofol,
Ce-propofol, mạch, huyết áp tại các thời điểm
khởi mê, % sevoflurane tại các thời điểm duy
trì mê và BIS tại các thời điểm suốt quá trình
phẫu thuật.
Phân tích và xử lý số liệu
Tất cả phương pháp thống kê và phân tích
được thực hiện bằng phần mềm STATA 13,0.
Biến số định lượng có phân phối chuẩn được
trình bày bằng giá trị trung bình, độ phân tán với
độ lệch chuẩn. Nếu không có phân phối chuẩn
được trình bày bằng giá trị trung vị, và mô tả độ
phân tán bằng giá trị lớn nhất và nhỏ nhất hoặc
bằng khoảng tứ phân vị.
Các biến số định tính được trình bằng bằng
tần số và tỉ lệ phần trăm.
So sánh sự khác biệt giữa các tỉ lệ (biến số
định tính) dùng phép kiểm chi bình phương
(2).
So sánh sự khác biệt giữa các trung bình
(biến số định lượng) của 2 mẫu độc lập dùng
phép kiểm t, nếu có giá trị phân phối chuẩn. Nếu
biến số không có phân phối chuẩn sử dụng kiểm
Mann- Whitney thay thế cho phép kiểm t với hai
mẫu độc lập.
Hệ số tương quan r (theo Pearson) để đánh
giá sự tương quan giữa 2 biến số định lượng liên
tục. P < 0,05 được coi là sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân trước phẫu
thuật.
Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p
Giới tính
Nam (TH, %) 16 (48,48) 19 (57,58)
0,459
Nữ (TH, %) 17 (51,52) 14 (42,42)
Tuổi (năm) TB ± ĐLC 71,6 ± 5,5 70,8 ± 6,8 0,6074
Cân nặng (kg) TB ± ĐLC 46,2 ± 5,1 44,6 ± 5,4 0,2489
BMI (kg/m
2
) TB ± ĐLC 18,7 ± 1,8 18,7 ± 1,7 0,6974
TB: trung bình ĐLC: độ lệch chuẩn TH : trường hợp
Bảng 2: Lượng propofol trung bình trong quá trình
khởi mê của hai nhóm.
Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p
Liều propofol (mg) TB ± ĐLC 55,2 ± 6,2 67,2 ± 8,1 0,001
Bảng 3: Sự thay đổi mạch tại các thời điểm của hai
nhóm trong quá trình khởi mê.
Thời điểm
Mạch
Nhóm BIS
(lần/phút)
Không BIS
(lần/phút)
p
T2 72 ± 0,9 69,3 ± 0,7 0,02
T3 71 ± 0,8 69,6 ± 0,9 0,34
T4 70 ± 0,6 68,7 ± 0,8 0,25
T5 69,6 ± 0,8 68,5 ± 0,7 0,29
T6 69,6 ± 0,8 67,2 ± 0,6 0,02
Bảng 4: Sự thay đổi huyết áp trung bình tại các thời
điểm của hai nhóm trong quá trình khởi mê.
Thời điểm
HATB
Nhóm BIS
(mmHg)
Không BIS
(mmHg)
p
T2 100 ± 8 97 ± 7 0,07
T3 95 ± 8 93 ± 6 0,65
T4 90 ± 7 88 ± 7 0,22
T5 88 ± 6 85 ± 7 0,09
T6 88 ± 6 76 ± 6 0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 47
Bảng 5: Nồng độ propofol tại não (Ce- propofol) và
BIS tại các thời điểm khởi mê.
Thời điểm Ce propofol (mcg/ml) BIS
T3
TB ± ĐLC 1,1 ± 0,1 87,4 ± 3,1
NN-LN 9 – 1,3 82 - 91
T4
TB ± ĐLC 1,4 ± 0,26 79,7 ± 5,0
NN-LN 1,1 - 1,7 74 - 86
T5
TB ± ĐLC 1,7 ± 0,3 68,5 ± 4,7
NN-LN 1,3 - 2,1 64 - 74
T6
TB ± ĐLC 2,0 ± 0,4
50
NN-LN 1,5 – 2,5
NN: nhỏ nhất LN: lớn nhất
Bảng 6: Lượng sevoflurane trung bình trong giai
đoạn duy trì mê cả hai nhóm.
Nhóm BIS Không BIS p
Lượng sevoflurane (ml/giờ) 23,9 ± 6,2 29,9 ± 9,2 0,003
BÀN LUẬN
Lượng thuốc propofol trong giai đoạn khởi
mê với TCI có sử dụng BIS và không sử dụng
BIS.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá
khởi mê bằng propofol dưới hướng dẫn của BIS,
tổng liều propofol trung bình (bảng 2) nhóm
bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2) mg, còn
nhóm bệnh nhân không có sử dụng BIS (67,2 ±
8,1) mg khi khởi mê.
Tác giả Ercan Gurses và cs(4), thấy rằng nhóm
dùng BIS giảm được 43% lượng propofol trong
giai đoạn khởi mê so với nhóm dùng dấu hiệu
lâm sàng để theo dõi độ mê lần lượt với lượng
propofol là 84,3 ± 11,4 mg so với 147 ± 12,1 mg
(nhóm không có sử dụng BIS).
Nghiên cứu của Liu SS và cs(10), khi phân tích
kết quả thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đánh
giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật về
trong ngày ở bệnh nhân cao tuổi: tác giả thấy sự
tiêu thụ propofol ít hơn có ý nghĩa trong nhóm
được gây mê bằng BIS so với nhóm chứng (1253
mg so với 946 mg ở nhóm BIS).
Theo Gan TJ, Glass PS và cs(5), trong một thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có nhóm chứng,
mù, đa trung tâm về BIS cho thấy giảm 23%
propofol sử dụng và giúp điều chỉnh propofol
trong phẫu thuật (nhóm BIS lượng propofol
truyền là 116 mcg/kg/phút so với nhóm không
BIS là 136 mcg/kg/phút).
Tác giả Villeret I và cs(15), với nồng độ Ce-
propofol 0,9 mcg/ml có thể sử dụng an toàn để
gây mê đặt nội khí quản với bệnh nhân người
cao tuổi. Tại Việt Nam, tác giả Châu Thị Mỹ An
và cs(3), cho thấy liều khởi mê 1,6 - 2,1 mg/kg, p =
0,001). Nguyễn Văn Chinh và cs (13), đánh giá sự
thay đổi BIS trong gây mê TCI trên phẫu thuật
tổng quát đã cho thấy liều khởi mê 1,47 ± 0,06
mg/kg. Nguyễn Thị Như Hà và cs(11), liều trung
bình trong lúc khởi mê (100 ± 1,2) mg ở nhóm sử
dụng BIS, so với (125 ± 2,1) mg nhóm không sử
dụng BIS.
Đánh giá sự thay đổi mạch, huyết áp trung
bình quá trình khởi mê của hai nhóm
Sự thay đổi mạch
Trong quá trình khởi mê cả hai nhóm, một
nhóm có hướng dẫn sử dụng BIS để theo dõi và
một nhóm được đánh giá dựa vào mức độ an
thần theo thang điểm OAAS, vì có lẽ chúng tôi
khởi mê từ từ theo từng nấc nên từ giai đoạn T3
đến giai đoạn T5 (bảng3) mạch hầu như không
thay đổi, giai đoạn T2 mạch cao hơn nhẹ ở nhóm
bệnh nhân sử dụng BIS (nhóm bệnh nhân sử
dụng BIS: 72 ± 0,9; nhóm bệnh nhân không sử
dụng BIS: 69,3 ± 0,7, p = 0,02), nhưng đến giai
đoạn T6 (BIS: 69,6 ± 0,8; không BIS: 67,2 ± 0,6, p =
0,02) mạch ở nhóm BIS giảm nhẹ, còn nhóm
không sử dụng BIS thì BN ngủ sâu hơn nhiều vì
có thể do đánh giá chủ quan dựa vào mức độ an
thần (OAAS=1) của chúng tôi ở mỗi bệnh nhân
khác nhau.
Nghiên cứu của Ali Z, Parabhakar và cs
(2009)(1), thực hiện trên 90 bệnh nhân chia ngẫu
nhiên 3 nhóm, so sánh hiệu quả của 3 kỹ thuật
gây mê (sevoflurane (s), isoflurane (i), gây mê
kiểm soát nồng độ đích bằng propofol (p), đánh
giá dựa trên huyết động và tính hồi phục cho
những bệnh nhân u tuyến yên được phẫu thuật
nội soi qua đường mũi dưới sự hướng dẫn của
BIS. Tác giả đã kết luận bệnh nhân sử dụng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 48
nhóm propofol thì ổn định mạch, huyết áp khi
đặt nội khí quản.
Sự thay đổi về huyết áp trung bình
Trong nghiên cứu của chúng tôi sự thay đổi
huyết áp tương đối ổn định, huyết áp trung bình
từ thời điểm T3 đến T5 thay đổi nhưng không có
ý nghịa thống kê (bảng 4), nhưng đến thời điểm
T6 (BIS: 88 ± 6 mmHg; không BIS:76 ± 6 mmHg,
p = 0,001) thì huyết áp trung bình nhóm bệnh
nhân không sử dụng BIS giảm nhiều hơn có thể
là lúc này lượng propofol lên não nhiều hơn,
bệnh nhân ngủ sâu hơn.
Tác giả Liu SH và cs (10), nhận thấy huyết áp
trung bình khi khởi mê nhóm S1 (Ce-propofol:
2,7 mcg/ml) thấp hơn nhẹ so với nhóm S3 (Ce-
propofol: 2,8 mcg/ ml).
Tác giả Jung và cs(8), mô tả một trường hợp
79 tuổi tụt huyết áp nặng (60/30 mmHg) kèm
theo ngưng thở 6 phút và mạch còn 30 lần/phút,
cũng như tác giả XU Chuan-Ya và cs(16), cũng báo
cáo có 7 trường hợp tụt huyết áp sau khi tiêm
propofol. Điều này có thể lý giải do thiết kế
nghiên cứu khác nhau, chúng tôi dùng hệ thống
kiểm soát nồng độ đích TCI còn tác giả truyền
liên tục hay lập lại.
Xét về mối tương quan giữa BIS và nồng độ
propofol tại não trong giai đoạn khởi mê.
Nghiên cứu của chúng tôi thấy tương quan
giữa BIS và nồng độ propofol tại não (Ce -
propofol) (bảng 5) là mối tương quan nghịch, vừa
(r = -0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến
tính BIS= 89 -13× Ce-propofol.
Tác giả Irwin và cs(6), khi nghiên trên 60 bệnh
nhân phẫu thuật tổng quát, đã thấy được sự liên
quan giữa nồng độ hiệu quả của propofol 50
(CP50) là 2,66 mcg/ml, tương ứng với giá trị BIS là
68.
Nguyễn Thị Như Hà và cs(11), nghiên cứu
đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu
thuật tim trên người lớn đã thấy có mối tương
quan nghịch, yếu giữa BIS và nồng độ propofol
tại não Ce -propofol (r = -0,27, p = 0,027) trong
giai đoạn khởi mê.
Lượng thuốc sevoflurane sử dụng trong quá
trình duy trì mê của hai nhóm.
Lượng sevoflurane trong nghiên cứu của
chúng tôi giảm 20%.
Jeliish WS và cs(7), sevoflurane thích hợp hơn
propofol trong quá trình duy trì mê phẫu thuật
nội soi ở bệnh nhân cao tuổi.
Tác giả Nabaweya và cs(9), 60 bệnh nhân cao
tuổi phẫu thuật tổng quát, đã giảm 32% lượng
sevoflurane với BIS: 50-60 ở giai đoạn duy trì và
BIS: 55-70 gần kết thúc cuộc phẫu thuật.
Tác giả Sebel PS và cs(14), bệnh nhân phẫu
thuật tổng quát đã giảm 20-30% lượng
sevoflurane.
Tác giả Nguyễn Thị Như Hà và cs(11), nghiên
cứu hiệu quả của theo dõi BIS trên sự tiêu thụ
sevoflurane trong phẫu thuật tim người lớn đã
tiết kiệm 17% lượng thuốc mê sevoflurane.
KẾT LUẬN
Trong phẫu thuật bụng ở người cao tuổi, khi
theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS với phương pháp
gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có
hiệu quả và an toàn trong quá trình khởi mê ở
người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane
trong duy trì mê.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali Z, Prabhakar H, Bithal PK, Dash HH (2009), “Bispectral
index-guided administration of anesthesia for transsphenoidal
resection of pituitary tumors: a comparison of 3 anesthetic
techniques”, J Neurosurg Anesthesiol, 21, pp.10-15.
2. Cazalà JB. et al (2009), “Anesthetic agents used in TCI”,
Fresenius Vial, 2, pp. 33.
3. Châu Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh (2011), “Gây mê tĩnh mạch
toàn diện bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trong phẫu
thuật bụng ”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 15 (3), tr.179-181.
4. Ercan Gurses, et al (2004) “Assessing Propofol Induction of
Anesthesia Dose Using Bispectral Index Analysis”, Anesth
Analg, 98, pp. 128-31.
5. Gan TJ, Glass PS, Windsor A, et al (1997) “Bispectral index
monitoring allows faster emergence and improved recov-ery
from propofol, alfentanil, and nitrous oxide anesthesia”,
Anesthesiology, 84, pp. 808-815.
6. Irwin MG, Hui TW, Milne SE & Kenny GN (2002) “Propofol
effective
concentration 50 and its relationship to bispectral index”.
Anaesthesia, 57, pp. 242–248.
7. Jellish WS, Lien CA, Fontenot HJ, Hall R (1996) “The
comparative effects of sevoflurane versus propofol in the
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 49
induction and maintenance of anesthesia in adult patients.”,
Anesth Analg, 82, pp.479-485.
8. Jung M, Hofmann C, Kiesslich R, Brackertz A (2000).
“Improved sedation in diagnostic and therapeutic ERCP:
propofol is an alternative to midazolam.” Endoscopy, 32, pp.
233-238.
9. Kamal NM, Omar SH et al (2009) “Bispectral index
monitoring tailors clinical anesthetic delivery and reduces
anesthetic drug consumption”. J.Med. Sci, 9, pp.10-16.
10. Liu SH, Wei W, Ding GN (2009) “Relationship between depth
of anesthesia and effect-site concentration of propofol during
induction with the target-controlled infusion technique in
elderly patients”, Chinese Medical Journal, 122, pp.935-940.
11. Nguyễn Thị Như Hà, Nguyễn Thị Qúy (2013), “Đánh giá lợi
ích của BIS trong việc theo dõi độ sâu gây mê trong quá trình
phẫu thuật tim hở”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 885 (21),
tr.97.
12. Nguyễn Thị Quý (2012) “Gây mê tĩnh mạch với kiểm soát
nồng độ đích” Tạp chí Y Học thành phố Hố Chí Minh, 16 (2),
tr.15-27.
13. Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn Văn Chừng (2013), “Theo dõi
BIS trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích”, Tạp chí
Y Học, Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 17 (1), tr.169-
173.
14. Sebel PS, (2001) “Can you monitor depth of anesthesia”.
International
Anesthesia Reserch Society Review Course Lectures, pp. 95-97.
15. Villeret I, Laffon M, Ferrandière M, et al “Which propofol
target concentration for ASA III elderly patients for conscious
sedation combined with regional anaesthesia?” Ann Fr Anesth
Reanim. 22 (3), pp.196-201.
16. XU Chuan-ya, WU Xin-min, LU Wei, (2010), “Effect of
remifentanyl on propofol pharmacokinetics with target
controlled infusion in elderly patients” Beijing Da Xue Xue Bao,
42(6) pp.734-738.
Ngày nhận bài báo: 20/10/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2016
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2017
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 50
KHẢO SÁT TỶ LỆ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TUYẾN GIÁP
TRÊN THAI PHỤ TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Trần Quang Khánh*,Thái Văn Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp trên thai phụ tại Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương và một số yếu tố khác có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Đoàn hệ.Chúng tôi thử nghiệm TSH, FT4 và TPOab ở 281 thai phụ đến khám
thai lần đầu tiên. Chúng tôi phân nhóm thai phụ có nguy cơ cao có rối loạn chức năng tuyến giáp và nhóm nguy
cơ thấp dựa theo khuyến cáo của Hiệp hội Nội tiết Hoa Kỳ năm 2012. Tất cả các thai phụ được theo dõi đến lúc
sanh và ghi nhận các kết cuộc trên mẹ và con. Thực hiện phân tích dữ liệu theo phần mềm SPSS 16.0.
Kết quả: Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp thai kỳ là 20,6% trong đó tỉ lệ Basedow 2,8%, cường giáp khác
9,3%, suy giáp rõ 0,7% suy giáp dưới lâm sàng 1,1%,TPOab(+) là 9,3%.Thai phụ có tiền sử bản thân mắc bệnh
lý tuyến giáp làm tăng nguy cơ cường giáp(33.3 v10,6%.p=0,012), suy giáp(11,1 vs 1,1%. p=0,000) và
TPOab(+)(3,9 vs 7,2%. P=0,000). Thai phụ có bệnh lý bướu giáp lan tỏa hoặc bướu giáp nhân trên lâm sàng làm
tăng nguy cơ cường giáp(40,9 vs 9,7 %.p=0,000),suy giáp (4,5 vs 1,6%.p=0,037) và TPOab(+)(31,8 vs 7,4%.
P=0,001).Tỷ lệ sẩy thai là 3,4% và tăng nguy cơ sanh non, sơ sinh nhẹ cân ở thai phụ có RLCNTGTK.
Kết luận: Chúng tôi đề nghị tầm soát bằng xét nghiệm TSH cho tất cả sản phụ đến khám thai lần đầu trong
3 tháng đầu thai kỳ.
Từ khóa: Rối loạn chức năng tuyến giáp thai kỳ.
ABSTRACT
PREVALENCE OF THYROID DYSFUNCTION DURING PREGNANCY
IN NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL
Tran Quang Khanh,Thai Van Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 50 - 55
Objectives: Determine the prevalence of thyroid dysfunction during early pregnancy and some other factors
related.
Method: Cohort. We tested TSH, FT4 and Topaz in 281 pregnant women attending antenatal clinic for the
first time. We subgroup of high-risk pregnant women with thyroid dysfunction and low-risk groups based on the
recommendations of the Endocrine society in 2012. All women were monitored and recorded the outcome on the
mother and child at birth. Perform data analysis by software SPSS 16.0.
Results: The prevalence of thyroid dysfunction was 16.4% overall, in which the ratio Topaz (+) was 9.3%,
2.8% of Based and other hyperthyroidism 9.3%. Pregnant women with a history of thyroid nodular itself
increases the risk of hyperthyroidism (33.3 vs. 10.6%.p=0.012), hypothyroidism (11.1 vs. 1.1%.p=0.000) and
Topaz (+) (38.9 vs. 7.2%. P=0.000). Pregnant women with thyroid disease or diffuse goiter increases the risk of
hyperthyroidism (40.9 vs. 9.7%.p=0.000), hypothyroidism (4.5 vs. 1.6%.p=0.037) and Topaz (+) (31.8 vs. 7.4%.
P=0.001).The rate of miscarriage in women with thyroid dysfunction was 3.4% and increase the risk of preterm
birth, low birth weight in newborn.
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: BS CKII Thái Văn Hùng ĐT: 0903787470 Email: thaihungntp@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_cua_bis_trong_gay_me_phau_thuat_bung_o_ngu.pdf