Đánh giá chức năng thị giác trên bệnh nhân đặt kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng khác nhau

Tài liệu Đánh giá chức năng thị giác trên bệnh nhân đặt kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng khác nhau: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 57 ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THỊ GIÁC TRÊN BỆNH NHÂN ĐẶT KÍNH NỘI NHÃN ĐA TIÊU CÓ ĐỘ CỘNG KHÁC NHAU Trần Vũ Ngọc Tuyên*, Trần Anh Tuấn** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá chức năng thị giác và mức độ hài lòng của bệnh nhân đặt kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng khác nhau. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích tiến cứu. Mẫu gồm 60 mắt được đặt kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng +2,5 hoặc độ cộng +3,0. Kết quả đánh giá sau 3 tháng bao gồm thị lực xa, trung gian, gần không kính, thị lực xa, gần có chỉnh kính, độ nhạy tương phản và bảng câu hỏi đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân. Kết quả: Thị lực nhìn xa ở khoảng cách 5m giữa nhóm +2,5 và nhóm +3,0 tương đương nhau. Thị lực trung gian ở khoảng cách 60cm của nhóm +2,5 tốt hơn nhóm +3,0. Thị lực gần ở khoảng cách 33cm của nhóm +3,0 tốt hơn nhóm +2,5. Độ nhạy tương phản (ĐNTP) của hai nhóm tương đương nhau và nằm t...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chức năng thị giác trên bệnh nhân đặt kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng khác nhau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 57 ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THỊ GIÁC TRÊN BỆNH NHÂN ĐẶT KÍNH NỘI NHÃN ĐA TIÊU CÓ ĐỘ CỘNG KHÁC NHAU Trần Vũ Ngọc Tuyên*, Trần Anh Tuấn** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá chức năng thị giác và mức độ hài lòng của bệnh nhân đặt kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng khác nhau. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích tiến cứu. Mẫu gồm 60 mắt được đặt kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng +2,5 hoặc độ cộng +3,0. Kết quả đánh giá sau 3 tháng bao gồm thị lực xa, trung gian, gần không kính, thị lực xa, gần có chỉnh kính, độ nhạy tương phản và bảng câu hỏi đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân. Kết quả: Thị lực nhìn xa ở khoảng cách 5m giữa nhóm +2,5 và nhóm +3,0 tương đương nhau. Thị lực trung gian ở khoảng cách 60cm của nhóm +2,5 tốt hơn nhóm +3,0. Thị lực gần ở khoảng cách 33cm của nhóm +3,0 tốt hơn nhóm +2,5. Độ nhạy tương phản (ĐNTP) của hai nhóm tương đương nhau và nằm trong giới hạn bình thường. Các rối loạn thị giác của hai nhóm như hiện tượng chói sáng, khó nhìn khi ánh sáng kém, hiện tượng quầng sáng chỉ ở mức độ nhẹ đến trung bình và khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Bệnh nhân đặt kính nội nhãn đa tiêu ở cả hai nhóm có sự hài lòng tương đương nhau, đều ở mức cao. Kết luận: So với kính nội nhãn đa tiêu độ cộng +2,5 thì kính độ cộng +3,0 có thị lực nhìn gần không kính và có kính tốt hơn, thị lực trung gian không kính kém hơn còn thị lực nhìn xa không kính thì tương đương nhau. Độ nhạy tương phản của hai nhóm nằm trong giới hạn bình thường. Một số rối loạn thị giác ở hai nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê và không ảnh hưởng đến sinh hoạt của bệnh nhân. Từ khóa: kính nội nhãn đa tiêu, đục thủy tinh thể, thị lực, độ nhạy tương phản. ABSTRACT ASSESSMENT OF VISUAL FUNCTION AFTER IMPLANTATION OF MULTIFOCAL INTRAOCULAR LENSES WITH TWO DIFFERENT NEAR ADDITIONS Tran Vu Ngoc Tuyen, Tran Anh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 57 - 63 Objectives: To evaluate visual outcome and patient’s satisfaction after implatation of multifocal intraocular lenses with different near additions. Method: This prospective study comprised 60 eyes having implantation of aspheric diffractive multifocal intraocular lenses with +3.0D addition power (D1 group) or +2.5D (T0 group). Uncorrected and best-corrected visual acuity at distance, intermediate and near, constrast sensitivity, and patient questionaires were evaluated 3 months postoperatively. Results: Uncorrected distance at 5m visual acuities were not different between two groups. Uncorrected intermediate at 60cm visual acuities were significantly better in the T0 group than in the D1 group. Uncorrected and best-corrected near at 33cm visual acuities were significantly better in the D1 group than in the T0 group. The contrast sensitivity of two groups were in normal range. The mild to moderate visual disturbances were not * Trung tâm Phẫu thuật thực nghiệm, Đại học Y Dược TP. HCM ** Bệnh viện Mắt TP. HCM Tác giả liên lạc: ThS.BS.Trần Vũ Ngọc Tuyên ĐT: 0905180287 Email: tvntuyen@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 58 different between two groups including glare, night vision and halos. All patients in two groups had good satisfaction with multifocal intraocular lenses. Conclusion: Uncorrected distance at 5m visual acuities were not different between two groups. Uncorrected intermediate visual acuities were better in the +2.5 group than in the +3.0 group. Uncorrected and best-corrected near visual acuities were better in the +3.0 group than in the +2.5 group. The contrast sensitivity of two groups were in normal range. The visual disturbances were not different between two groups and not affect patient’s visual performance. Key words: multifocal intraocular lenses, cataract, visual acuity, contrast sensitivity. MỞ ĐẦU Phẫu thuật đục T3 và đặt thể thủy tinh nhân tạo (kính nội nhãn) đã có những bước tiến vượt bậc trong ba thập niên qua. Kính nội nhãn trước đây được thiết kế với mục đích chỉ đem lại thị lực nhìn xa tốt cho bệnh nhân, được gọi là kính nội nhãn đơn tiêu. Loại kính này không giúp mắt bệnh nhân điều tiết như mắt bình thường được nên bệnh nhân có thể nhìn xa rõ nhưng khi nhìn ở khoảng cách trung gian và gần lại mờ, bệnh nhân cần phải có kính đọc sách khi nhìn ở khoảng cách gần. Năm 1949, Harold Ridley đặt kính nội nhãn vào mắt người, đánh dấu sự thay đổi khởi đầu to lớn trong thực hành nhãn khoa(4). Từ đó đến nay, công nghệ sản xuất kính nội nhãn đã không ngừng phát triển. Xuất hiện từ những năm cuối thập niên 1980, kính nội nhãn đa tiêu liên tục cải tiến nhằm cải thiện phần nào đó hiện tượng lão thị khi thay thế thủy tinh thể tự nhiên sau phẫu thuật với mục đích giảm tỷ lệ phụ thuộc kính cho người bệnh(4). Hiện nay kính nội nhãn đa tiêu nhiễu xạ +3,0 AcrySof ReStor SN6AD1 đang được dùng rộng rãi cho những bệnh nhân có nhu cầu không muốn đeo kính sau phẫu thuật đục thủy tinh thể, còn kính nội nhãn đa tiêu nhiễu xạ +2,5 AcrySof ReStor SV25T0 được coi là cải tiến về cấu trúc để bổ sung thêm khả năng giảm hiện tượng quầng sáng, chói sáng, cải thiện thị lực trung gian cho thế hệ +3,0 cũng bắt đầu được sử dụng, nhưng số lượng còn khá hạn chế. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đánh giá, so sánh kết quả chất lượng thị giác của hai loại kính với nhau để xem mỗi loại kính mang lại hiệu quảkhác nhau thế nào với thị giác của bệnh nhân. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá chức năng thị giác của bệnh nhân sau phẫu thuật đục thủy tinh thể đặt 2 loại kính đa tiêu trên. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là một nghiên cứu phân tích tiến cứu. Mẫu gồm 60 mắt của 53 bệnh nhân được phân thành 2 nhóm, nghiên cứu từ tháng 1/2015 đến tháng 7/2016 tại khoa Kỹ thuật cao Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn chọn mẫu: bệnh nhân đục thủy tinh thể theo phân độ Lucio Buratto(14), tuổi > 18, được tư vấn, giải thích ưu khuyết điểm của 2 loại kính nội nhãn đa tiêu có độ cộng khác nhau, nếu bệnh nhân chọn kính SN6AD1 +3,0 thì xếp vào nhóm D1 (nhóm nghiên cứu), nếu bệnh nhân chọn kính SV25T0 +2,5 thì xếp vào nhóm T0 (nhóm chứng). Tiêu chuẩn loại trừ là: loạn thị giác mạc > 1D, có tiền căn chấn thương, phẫu thuật nội nhãn, tăng nhãn áp, viêm màng bồ đào, có bất thường mống mắt, bất thường giác mạc, bất thường hình dạng đồng tử, có bệnh lý võng mạc như bệnh võng mạc đái tháo đường, thoái hóa hoàng điểm tuổi già đứt dây chằng Zinn, có biến chứng trong phẫu thuật. Ngoài ra chúng tôi cũng loại trừ khỏi mẫu những bệnh nhân không thích hợp đặt kính đa tiêu như: bệnh nhân khó tính, quá kỳ vọng vào kết quả phẫu thuật, muốn có sự đảm bảo chắc chắn, bệnh nhân thường hay phàn nàn, tài xế lái xe vào ban đêm, đã phẫu thuật đục thủy tinh thể đặt kính đơn tiêu ở một mắt. Trước phẫu thuật bệnh nhân được đo công suất giác mạc, đo trục nhãn cầu; công suất kính nội nhãn được tính bằng công thức SRK/T nếu trục nhãn cầu 22mm, bằng công thức Hoffer Q Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 59 nếu trục nhãn cầu < 22mm(3,13). Phẫu thuật gồm: tê hậu cầu, rạch đường hầm bằng đường rạch trực tiếp giác mạc vuông góc với kinh tuyến giác mạc có độ hội tụ cao hơn với dao 2,2mm, xé bao trước liên tục hình tròn đường kính từ 5mm đến 5,5mm. Phaco nhân thủy tinh thể và đặt kính nội nhãn trong bao. Bệnh nhân được tái khám sau 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng. Các biến số nghiên cứu sau phẫu thuật được thu thập ở thời điểm tái khám sau 3 tháng. Các số liệu thu nhập sẽ được tổng hợp và phân tích bằng phần mềm xử lý số liệu thống kê SPSS 20.0. KẾT QUẢ Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi theo dõi 53 bệnh nhân (60 mắt) phẫu thuật đục thủy tinh thể đặt kính nội nhãn đa tiêu được phân thành 2 nhóm, nhóm kính +3,0 và nhóm kính +2,5, mỗi nhóm có 30 mắt. Đặc điểm mẫu nghiên cứu được mô tả ở bảng 1, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi và các đặc điểm lâm sàng trước phẫu thuật giữa 2 nhóm. Nhóm +3,0 có tỉ lệ nữ cao hơn nam, nhóm +2,5 lại có tỉ lệ nam cao hơn nữ. Tuổi trung bình giữa của nhóm +3,0 là 55,97 2,5 và nhóm +2,5 là 50,73 2,26, nhóm bệnh nhân từ 50 đến 60 tuổi chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Đây là độ tuổi mà bệnh nhân bắt đầu hoặc đã gặp phải tình trạng lão thị, vì vậy bệnh nhân đồng ý đặt kính đa tiêu trong phẫu thuật đục thủy tinh thể khi được tư vấn thông tin rõ ràng. Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng mẫu nghiên cứu Nhóm +3,0 Nhóm +2,5 p Tuổi trung bình 55,97 2,51 50,73 2,26 0,127* Tỉ lệ nam/nữ 17/13 22/8 0,018*** Thị lực trước phẫu thuật 0,23 0,03 0,23 0,03 0,786** Công suất giác mạc trung bình 44,02 0,27 44,26 0,32 0,115** Loạn thị giác mạc trước mổ -0,43 0,06 -0,58 0,05 0,076* Chiều dài trục nhãn cầu 23,39 0,16 23,62 0,22 0,734** Công suất kính nội nhãn 20,33 0,47 20,65 0,56 0,553** *: Phép kiểm Student’s T test **: Phép kiểm phi tham số Mann-Whitney U test ***: Phép kiểm Chi bình phương Thị lực ở các khoảng cách: trong nghiên cứu của chúng tôi, sau phẫu thuật đặt kính đa tiêu +2,5, thị lực nhìn xa (TL logMAR) không kính trung bình của bệnh nhân là 0,10 0,01 (tương đương thị lực Snellen 20/25), và thị lực nhìn gần (TL logMAR) không kính trung bình của bệnh nhân là 0,14 0,07 (tương đương thị lực Snellen 20/30). Sau phẫu thuật đặt kính đa tiêu +3,0, thị lực nhìn xa (TL logMAR) không kính trung bình của bệnh nhân là 0,12 0,02 (tương đương thị lực Snellen 20/30), và thị lực nhìn gần (TL logMAR) không kính trung bình của bệnh nhân là 0,09 0,07 (tương đương thị lực Snellen 20/25). Thị lực nhìn xa không kính giữa hai nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê, trong khi đó thị lực nhìn gần không kính của nhóm kính +3,0 lại cao hơn nhóm kính +2,5 có ý nghĩa thống kê. Kết luận này tương đương với các nghiên cứu của Mastropasqua (2015), Nuijts (2016) và Vingolo (2016)(9,11,16). Trong các y văn trên thế giới, người ta vẫn chưa thống nhất rõ ràng về khoảng cách của thị lực trung gian. Các tác giả thường khảo sát TL trung gian ở các khoảng cách 60cm, 63cm, 70cm, 80cm và 100cm. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ thực hiện đo thị lực trung gian ở khoảng cách 60cm vì coi đây là khoảng cách đáp ứng các sinh hoạt khá phổ biến hàng ngày của bệnh nhân như: sử dụng máy tính để bàn, xem vật dụng trên kệ bếp, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 60 bảng giá trên quầy hàng siêu thị, một số công việc thủ công Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau phẫu thuật, nhóm +3,0 có thị lực trung gian (TL logMAR) không kính trung bình của bệnh nhân là 0,217 0,016 (tương đương thị lực Snellen 20/30), và nhóm +2,5 có thị lực trung gian (TL logMAR) không kính trung bình của bệnh nhân là 0,106 0,018 (tương đương thị lực Snellen 20/25). Sự khác nhau giữa thị lực trung gian hai nhóm kính trong nghiên cứu của chúng tôi là có ý nghĩa thống kê. Nhóm kính +2,5 có thị lực trung gian cao hơn nhóm kính +3,0. Kết luận này tương đương với nghiên cứu của Mastropasqua (2015)(9). Chúng tôi ghi nhận được ĐNTP giữa 2 nhóm khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê. ĐNTP giữa 2 nhóm là khá tương đồng với nhau ở tất cả các tần số không gian. ĐNTP của 2 nhóm vẫn trong giới hạn bình thường, giống với nghiên cứu của Vingolo (2016)(16). Bảng 2. Độ nhạy tương phản từng tần số không gian của 2 nhóm TSKG (cpd) 1,5 3 6 12 18 Nhóm D1 1,72 0,03 1,86 0,02 1,89 0,02 1,6 0,03 1,21 0,05 Nhóm T0 1,76 0,02 1,85 0,02 1,86 0,01 1,55 0,02 1,1 0,03 p 0,209* 0,722* 0,499** 0,216* 0,079* Biểu đồ 1. Độ nhạy tương phản của 2 nhóm trong nghiên cứu so với giá trị bình thường Bệnh nhân ở cả hai nhóm chỉ gặp các vấn đề sau: chói sáng, khó nhìn khi ánh sáng kém, hiện tượng quầng sáng, nhìn gần mờ và nhìn xa mờ. Các hiện tượng trên chủ yếu ở mức từ 1 – 3 điểm, nghĩa là khó chịu chỉ ở mức nhẹ đến trung bình. Không bệnh nhân nào trong mẫu nghiên cứu gặp các vấn đề về thị giác ở mức từ 4 – 5 điểm, khó chịu ở mức nặng. Do các rối loạn thị giác của bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu không nghiêm trọng nên ảnh hưởng của các vấn đề này đối với các hoạt động trong sống hàng ngày cũng không đáng kể. Đánh giá mức độ khó khăn cũng chủ yếu ở các mức 1 – 2 điểm, mức khó khăn ít và trung bình. Bệnh nhân trong hai nhóm gặp khó khăn trong một số hoạt động: đọc chữ nhỏ, đọc sách báo, đọc bảng hiệu bảng chỉ đường, ghi đơn từ biểu mẫu, xem tivi, lái xe ban ngày, lái xe ban đêm. Chỉ có đọc chữ nhỏ và đọc sách là khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm, các hoạt động còn lại thì sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu của chúng tôi, điểm số hài lòng trung bình của nhóm +3,0 là 7,93 0,279, và của nhóm +2,5 là 7,87 0,252. Điểm số này tương đương mức độ hài lòng, mức cao nhất trong thang đánh giá. Các nghiên cứu khác trên thế giới cũng có Tần số không gian Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 61 kết luận tương tự: nghiên cứu của Kohnen (2009) là 8,3 1,6(8); nghiên cứu của Alfonso (2009) là 8,52 1,23(1). BÀN LUẬN Đặc điểm dịch tễ mẫu nghiên cứu Nhóm +3,0 có tỉ lệ nữ cao hơn nam, nhóm +2,5 lại có tỉ lệ nam cao hơn nữ. Điều này được lý giải là do phụ nữ thường quan tâm đến vấn đề thẩm mỹ khi phụ thuộc kính lão hơn so với đàn ông, phù hợp giải thích cho tỉ lệ nữ cao hơn nam ở nhóm +3,0. Trong khi đó, nhóm +2,5 lại có tỉ lệ nam cao hơn nữ, khác biệt này có lẽ do các phẫu thuật viên vẫn cho rằng kính +2,5 ít mang lại các rối loạn thị giác trong môi trường ánh sáng yếu hơn so với kính +3,0, nên thường tư vấn đặt kính này cho những bệnh nhân có nhu cầu lái xe ban đêm và các đối tượng này thường là nam giới. Tuổi trung bình giữa của nhóm +3,0 là 55,97 2,5 và nhóm +2,5 là 50,73 2,26, nhóm bệnh nhân từ 50 đến 60 tuổi chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Đây là độ tuổi mà bệnh nhân bắt đầu hoặc đã gặp phải tình trạng lão thị, vì vậy bệnh nhân đồng ý đặt kính đa tiêu trong phẫu thuật đục thủy tinh thể khi được tư vấn thông tin rõ ràng. Tuổi trung bình của nghiên cứu này tương đương với các nghiên cứu về kính đa tiêu thực hiện tại TP.HCM như của tác giả T.T.P.Thu (2007) là 51,27 13,76(15) và N.N.Quân (2009) là 54,5 4,3(10). Tuy nhiên so với các nghiên cứu trên thế giới như của tác Enzo (2016) là 73,17 7,98(15), của Rudy (2016) là 65,9 10,1(11), hay của Rodolfo (2015) là 60,2 3,8(9) thì tuổi của bệnh nhân trong nghiên cứu này ít hơn. Điều này có thể là do tại Việt Nam, đôi khi phẫu thuật viên hạn chế tư vấn đặt kính đa tiêu cho bệnh nhân lớn tuổi vì chi phí khá cao của loại kính này. Bên cạnh đó, bản thân các bệnh nhân lớn tuối ở Việt Nam cũng không có những yêu cầu khắt khe về chất lượng thị giác sau phẫu thuật. Trong khi đó ở các nước phát triển, bệnh nhân thường được hưởng bảo hiểm phúc lợi xã hội cao hơn trong y tế và yêu cầu cao về chất lượng thị giác, nên họ chọn lựa kính đa tiêu khi có nhu cầu không phụ thuộc vào kính sau phẫu thuật mà không cần quan tâm đến chi phí. Thị lực trước và sau phẫu thuật Độ khúc xạ tồn dư đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu này. Nhóm 3.0 có 10 mắt còn độ cầu cận: 5 mắt -0,25D; 5 mắt -0,5D. Nhóm +2,5 có 8 mắt còn độ cầu cận: 5 mắt -0,25D; 3 mắt - 0,5D. Mục tiêu sau phẫu thuật đục thủy tinh thể, được xem là mắt chính thị khi độ cầu tồn dư từ - 0,5D đến +0,5D(12). Tuy nhiên việc tồn tại độ cầu cận tồn dư sẽ làm giảm thị lực nhìn xa sau phẫu thuật. Có nhiều nguyên nhân gây ra độ cầu tồn dư: sai số do đo sai chiều dài trục nhãn cầu, sai số độ kính do công thức tính công suất kính nội nhãn không ước lượng chính xác vị trí kính sau phẫu thuật, đường kính xé bao ảnh hưởng đến vị trí cuối cùng của kính sau phẫu thuật. Chúng tôi đã khắc phục bằng một số biện pháp sau: đo chiều dài trục nhãn cầu bằng siêu âm nhúng, dùng công thức tính công suất kính nội nhãn phù hợp, trục nhãn cầu < 22mm dùng công thức Hoffer Q, trục nhãn cầu 22mm dùng công thức SRK-T. Trong phẫu thuật, phẫu thuật viên xé bao đường kình khoảng từ 5 – 5,5mm để kính đặt trong bao chính tâm. Nhưng sai số vẫn xảy ra ở mức hạn chế chứ không loại trừ hoàn toàn. Độ loạn thị giác mạc tồn dư ở cả hai nhóm nằm trong giới hạn mục tiêu khúc xạ sau phẫu thuật là độ loạn sau phẫu thuật < 1D. Độ loạn thị giác mạc tồn dư sau phẫu thuật do nhiều nguyên nhân: độ loạn và trục loạn của giác mạc trước phẫu thuật, loạn thị gây ra do phẫu thuật (SIA: Surgically Induced Astigmatism).Để hạn chế việc loạn thị giác mạc sau phẫu thuật ảnh hưởng đến thị lực của bệnh nhân, chúng tôi có một số biện pháp để khắc phục sau: tiêu chuẩn chọn bệnh phẫu thuật phải có độ loạn thị < 1D, kích thước đường hầm chính trong phẫu thuật ở nghiên cứu này là 2,2mm, đường hầm chính vuông góc với kinh tuyến giác mạc có công suất cao hơn kinh tuyến giác mạc còn lại. Trong Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 62 nghiên cứu này khúc xạ tồn dư được tính theo độ cầu tương đương sau phẫu thuật. Nhóm +3,0 có khúc xạ tồn dư là 0,18 0,04. Nhóm +2,5 có khúc xạ tồn dư là 0,14 0,03. Sự khác biệt khúc xạ tồn dư giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê. Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều có khúc xạ tồn dư < 0,8D ; nằm trong giới hạn mục tiêu khúc xạ sau phẫu thuật(12). Nghiên cứu của tác giá Behndig A. (2012) nhận thấy chỉ có 55% mắt đạt được mục tiêu khúc xạ là chính thị sau phẫu thuật phaco(2). Tuy độ khúc xạ tồn dư không lớn, nhưng cũng có ảnh hưởng đến thị lực nhìn xa không kính sau phẫu thuật của bệnh nhân, đây là vấn đề than phiền chính của bệnh nhân sau phẫu thuật. Nhóm +3,0 có mối tương quan rất chặt chẽ giữa khúc xạ tồn dư và thị lực nhìn xa không kính sau phẫu thuật. Nhóm +2,5 có mối tương quan khá chặt giữa khúc xạ tồn dư và thị lực nhìn xa không kính sau phẫu thuật. Độ nhạy tương phản sau phẫu thuật Độ nhạy tương phản (ĐNTP) của mắt người cao nhất ở thị tần 3 – 6 cpd(6,17), tương đương với thị lực 2/10, có nghĩa là mắt người nhạy với những vật và chi tiết của vật trong khoảng tần sô không gian này. Để nhìn những vật lớn hơn hay nhỏ hơn trong khoảng tần số không gian này đòi hỏi độ tương phản cao hơn. Hầu hết các các hoạt động hằng ngày đều thực hiện trong khoảng tần số không gian trung bình này. Nhiều nghiên cứu đo ĐNTP ở bệnh nhân đặt kính nội nhãn đa tiêu, hầu hết các nghiên cứu đều đưa ra kết luận ĐNTP của bệnh nhân đặt kính đa tiêu có giảm hơn so với kính đơn tiêu nhưng vẫn nằm trong giới hạn ĐNTP của người bình thường(5, 7). Trong nghiên cứu, chúng tôi không so sánh kính đa tiêu với kính đơn tiêu, mà so sánh giữa 2 kính đa tiêu với nhau. Nhiều nghiên cứu trên thế đều đưa ra kết luận có sự giảm ĐNTP ở kính đa tiêu so với kính đơn tiêu, đặc biệt ở những tần số không gian cao và trong điều kiện ánh sáng yếu. Bệnh nhân giảm ĐNTP ở các tần số không gian thấp và trung bình sẽ mất chức năng thị giác nhiều hơn bệnh nhân bị giảm ĐNTP ở tần số không gian cao. Giảm ĐNTP ở tần số không gian thấp và trung bình làm giảm khả năng nhận biết những vật có kích thước to và trung bình trong điều kiệu độ tương phản thấp (môi trường ánh sáng yếu, trong trời mưa ) ảnh hưởng đến khả năng định hướng và di chuyển của bệnh nhân. Tần số không gian thấp là quan trọng nhất đối với thị giác vì nó liên quan đến các hoạt động sống hàng ngày Trong nghiên cứu, chúng tôi không so sánh ĐNTP của kính đa tiêu với kính đơn tiêu, chúng tôi chỉ ghi nhận không có sự giảm ĐNTP ở các tần số không gian thấp và trung bình so với giới hạn dưới ở người bình thường, vì vậy không ảnh hưởng nhiều đến các sinh hoạt cơ bản hàng ngày của bệnh nhân sau phẫu thuật. Chất lượng thị giác sau phẫu thuật Bệnh nhân ở cả hai nhóm chỉ gặp các vấn đề rối loạn thị giác ở mức độ nhẹ và trung bình, điểm số hài lòng của hai nhóm cũng nằm trong mức cao nhất của thang điểm đánh giá, có được kết quả này là do cấu trúc nhiễu xạ của kính, kính nội nhãn đa tiêu nhiễu xạ toàn phần có lượng ánh sáng phân bổ cho tiêu điểm nhìn gần và xa là cố định, trong khi đó kính nội nhãn đa tiêu trong nghiên cứu này có thiết kế phân bố ánh sáng vào tiêu điểm nhìn gần và xa tùy thuộc vào điều kiện ánh sáng và đường kính đồng tử. KẾT LUẬN Từ các kết quả chúng tôi thu được trong nghiên cứu cho thấy kính đa tiêu đem lại sự hài lòng cao cho bệnh nhân sau phẫu thuật. Kính đa tiêu có độ cộng +2,5 đem lại thị lực trung gian tốt hơn kính có độ cộng +3,0, thị lực gần của kính +2,5 thì thấp hơn kính +3,0 còn thị lực xa thì tương đương nhau. Vì vậy kính +2,5 thích hợp cho bệnh nhân trẻ tuổi, còn kính +3,0 thích hơn cho bệnh nhân lớn tuổi hơn. Độ nhạy tương phản của bệnh nhân sau phẫu thuật ở cả hai nhóm nằm trong giới hạn bình thường. Cả 2 loại kính đa tiêu trên chỉ gây ra các rối loạn thị giác mức độ nhẹ đến trung bình, hầu như không ảnh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 63 hưởng đến sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân sau phẫu thuật. Để đạt được mức độ hài lòng của bệnh nhân cao hơn nữa cần phải tư vấn cẩn thận trước phẫu thuật và khống chế khúc xạ tồn dư xuống mức thấp nhất. Tương lai có thể chúng ta sẽ tận dụng ưu thế của cả hai loại kính bằng cách đặt 1 mắt với kính +3,0 và 1 mắt còn lại với kính +2,5 để giúp bệnh nhân có thị lực ở khoảng cách xa, trung gian hay gần đều tốt, cần tiến hành thêm nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của phương pháp này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alfonso JF, et al (2009). Visual function after implantation of an aspheric bifocal intraocular lens. J Cataract Refract Surg. 35(5), p. 885-92. 2. Behndig A, et al (2012). Aiming for emmetropia after cataract surgery: Swedish National Cataract Register study. J Cataract Refract Surg. 38(7), p. 1181-6. 3. Braga-Mele R, et al (2014). Multifocal intraocular lenses: relative indications and contraindications for implantation. J Cataract Refract Surg. 40(2), p. 313-22. 4. Charman WN (2014). Developments in the correction of presbyopia II: surgical approaches. Ophthalmic Physiol Opt. 34(4), p. 397-426. 5. Cumming JS, et al (2006). Clinical evaluation of the Crystalens AT-45 accommodating intraocular lens: results of the U.S. Food and Drug Administration clinical trial. J Cataract Refract Surg. 32(5), p. 812-25. 6. Ginsburg AP (2012). Contrast sensitivity and Functional vision. The Cochrane Library. (9), pp. 6-12. 7. Juan TJ (2014). Multifocal IOLs with apodized diffractive central zone and refractive periphery: optical performance and clinical outcomes. J Emmetropia. 5, p. 155-166. 8. Kohnen T, et al (2009). Visual function after bilateral implantation of apodized diffractive aspheric multifocal intraocular lenses with a +3.0 D addition. J Cataract Refract Surg. 35(12), p. 2062-9. 9. Mastropasqua R, et al (2015). Long-term visual function and patient satisfaction after bilateral implantation and combination of two similar multifocal IOLs. J Refract Surg. 31(5), p. 308-14. 10. Nguyễn Như Quân, Trần Thị Phương Thu và Nguyễn Đỗ Nguyên (2009). So sánh kết quả thị lực và độ nhạy tương phản giữa AcrySOF ReSTOR và AcrySof đơn tiêu tại bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Y Học TP Hồ Chí Minh. 13(1), tr. 65-69. 11. Nuijts RM, et al (2016). Bilateral implantation of +2.5 D multifocal intraocular lens and contralateral implantation of +2.5 D and +3.0 D multifocal intraocular lenses: Clinical outcomes. J Cataract Refract Surg. 42(2), p. 194-202. 12. Sales CS và Manche EE (2015). Managing residual refractive error after cataract surgery. J Cataract Refract Surg. 41(6), p. 1289-99. 13. Sheard R (2014). Optimising biometry for best outcomes in cataract surgery. Eye (Lond). 28(2), p. 118-25. 14. Trần Thị Phương Thu (2010). Đục thể thủy tinh. In Lê Minh Thông, chủ biên, Nhãn khoa lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, TP Hồ Chí Minh, tr. 93-120. 15. Trần Thị Phương Thu, Phạm Nguyên Huân, Nguyễn Như Quân (2007). Đánh giá kết quả thị lực và độ nhạy tương phản trên bệnh nhân đặt kính AcrySof ReSTOR tại bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Y Học TP Hồ Chí Minh. 11(3), tr. 35- 41. 16. Vingolo EM, Carnevale C, Fragiotta S, Rigoni E, et al (2016). Visual Outcomes and Contrast Sensitivity after Bilateral Implantation of Multifocal Intraocular Lenses with +2.5 or +3.0 Diopter Addition: 12-Month Follow-Up. Seminars in Ophthalmology. 32(5), pp. 1-5. 17. Watson AB (2000). Visual detection of spatial contrast patterns_evaluation of five simple models. Optic Express. 6(1), p. 12-33. Ngày nhận bài báo: 15/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23/11/2017 Ngày bài báo được đăng 28/02/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_chuc_nang_thi_giac_tren_benh_nhan_dat_kinh_noi_nhan.pdf
Tài liệu liên quan