Tài liệu Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp: Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CỦA KHOA MARKETING,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÓM SINH VIÊN TỐT NGHIỆP
TRAINING QUALITY ASSESSMENT OF MARKETING IN MARKETING -
FINANCE UNIVERSITY: THE RESULTS FROM A SURVEY OF STUDENTS
GRADUATED FROM THE FACULTY OF MARKETING
Dư Thị Chung1
Ngày nhận: 29/3/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/4/2018 Ngày đăng: 5/8/2018
1 Trường Đại học Tài chính – Marketing
Tóm tắt
Đánh giá chất lượng đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng đối với một cơ sở đào tạo
đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Mục đích chính của nghiên cứu này nhằm
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài
chính – Marketing dựa trên kết quả khảo sát 320 sinh viên tốt nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng
phần mềm SPSS 22.0 để xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng có bảy nhân tố với 25 tiêu c...
15 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CỦA KHOA MARKETING,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÓM SINH VIÊN TỐT NGHIỆP
TRAINING QUALITY ASSESSMENT OF MARKETING IN MARKETING -
FINANCE UNIVERSITY: THE RESULTS FROM A SURVEY OF STUDENTS
GRADUATED FROM THE FACULTY OF MARKETING
Dư Thị Chung1
Ngày nhận: 29/3/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/4/2018 Ngày đăng: 5/8/2018
1 Trường Đại học Tài chính – Marketing
Tóm tắt
Đánh giá chất lượng đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng đối với một cơ sở đào tạo
đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Mục đích chính của nghiên cứu này nhằm
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài
chính – Marketing dựa trên kết quả khảo sát 320 sinh viên tốt nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng
phần mềm SPSS 22.0 để xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng có bảy nhân tố với 25 tiêu chí được xác định và có ý nghĩa tác động đến sự hài lòng về chất
lượng đào tạo ngành Marketing, trong đó nhân tố Chương trình đào tạo có tác động mạnh nhất.
Kết quả khảo sát sẽ là cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại Khoa
Marketing.
Từ khóa: Đánh giá chất lượng, chất lượng đào tạo, đào tạo đại học.
Abstract
Quality assessment of higher education has been playing an important role in the university for
the sake of improving training quality. The main purpose of this research is to identify the factors
affecting faculty of Marketing’s training quality assessment, university of Finance and Marketing
basing on a survey of 320 students graduated from the faculty of Marketing. SPSS version 22.0
has chosen for processing and analyzing the data. The empirical findings show that seven groups
of factors – representing for 25 items have expressed their significant effects to perceived
training quality for the discipline of Marketing, in which the most affected factor is the training
program. As the result from this work, some solutions proposed to upgrade faculty of
Marketing’s quality of training.
Keywords: Quality assessment, training quality, higher education.
37
1. Giới thiệu
Chất lượng đào tạo là một trong những
vấn đề đáng quan tâm nhất của các cơ sở
giáo dục và đào tạo, nhất là các cơ sở giáo
dục đại học. Nhiệm vụ quan trọng của các
trường đại học, cao đẳng là đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội và
người học. Việc đánh giá chất lượng đào
tạo là vô cùng cần thiết cho việc đổi mới
và nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt
trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập hiện
nay.
Trong dịch vụ giáo dục đào tạo thì các
trường đại học là nhà cung cấp còn người
học là khách hàng. Elliott & Shin (2002)
cho rằng các trường đại học cũng thuộc
ngành dịch vụ mà nhiệm vụ chính là đáp
ứng nhu cầu và mong đợi của sinh viên.
Đối với người học, chất lượng đào tạo
được xem như một trong yếu tố đầu tiên
tác động đến việc chọn trường đại học
cũng như sự hài lòng của sinh viên trong
quá trình học tập và sau khi hoàn thành
khóa học. Elliott & Shin (2002) cũng đã
chỉ ra rằng sự hài lòng của sinh viên có tác
động tích cực đến ý định học tiếp trong
tương lai của sinh viên và các nỗ lực tuyển
dụng của nhà trường vì thế các nghiên cứu
về phản hồi của người học là rất cần thiết.
Hoạt động đánh giá chất lượng đào tạo là
một xu hướng tất yếu trên thế giới cũng
như ở Việt Nam, vì thế ngày 01/11/2007,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành
Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT liên
quan đến các tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục trường đại học và được bổ
sung theo thông tư số 37/2012/TT-
BGDĐT ngày 30/10/2012 và được hợp
nhất tại văn bản hợp nhất số 06/VBHN-
BGDĐT ngày 04/03/2014 của Bộ giáo dục
và Đào tạo. Trong những năm gần đây,
trường Đại học Tài chính – Marketing nói
chung và khoa Marketing nói riêng cũng
đã từng bước áp dụng các mô hình đánh
giá chất lượng đào tạo, điển hình như mô
hình đánh giá chất lượng AUN (ASEAN
University Network) và Kiểm định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Xuất phát từ thực
tiễn đào tạo và nhu cầu nâng cao chất
lượng đào tạo đối với khoa Marketing,
nghiên cứu này được tiến hành với mục
đích trọng tâm là đánh giá phản hồi của
sinh viên tốt nghiệp về chất lượng đào tạo
của Khoa. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu:
(i) Xác định các nhân tố đánh giá chất
lượng đào tạo của Khoa Marketing, (ii) Đo
lường mức độ tác động của các nhân tố
chất lượng đào tạo đến sự hài lòng của
sinh viên tốt nghiệp và (iii) Nghiên cứu đề
xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
của khoa Marketing.
2. Tổng quan nghiên cứu, khung lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1 Khái niệm về chất lượng đào tạo
Chất lượng luôn là vấn đề quan trong
nhất của tất cả các trường đại học, và việc
phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao
giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan
trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học
nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy
nhưng chất lượng đào tạo vẫn là một khái
niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo
lường, và có nhiều cách hiểu khác nhau
cũng như rất nhiều tranh luận xung quanh
vấn đề này đã diễn ra tại các diễn đàn về
chất lượng đào tạo.
38
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Chất lượng đào tạo trong giáo dục đại
học theo định nghĩa của Harvey & Green
(1993) được thể hiện ở năm khía cạnh: sự
xuất sắc, sự hoàn hảo, sự phù hợp với mục
tiêu, sự đáng giá với chi phí bỏ ra, và sự
chuyển đổi về chất. Trong khi đó, tổ chức
quốc tế về đảm bảo chất lượng giáo dục
đại học (INQAHE) đưa ra một định nghĩa
khác về chất lượng đào tạo, cụ thể: Chất
lượng đào tạo đại học (hay giáo dục đại
học) là tuân theo các chuẩn quy định, hoặc
nếu chưa có bộ tiêu chí chuẩn quy định về
chất lượng thì tổ chức giáo dục phải “đạt
được mục tiêu đề ra”. Những chuẩn quy
định hay mục tiêu đề ra được xây dựng bởi
cơ quan quản lý giáo dục dựa trên các điều
kiện kinh tế, xã hội đặc thù của địa
phương. Chất lượng đào tạo cũng có thể
hiểu là đạt được mục tiêu và đáp ứng
mong đợi của các bên liên quan (Lê Thị
Linh Giang, 2014). Bộ Giáo dục và Đào
tạo (2007) đã ban hành bộ tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng đào tạo ở trường đại học
với tên gọi “Quy định về tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng giáo dục trường đại học”.
Trong đó, chất lượng giáo dục đại học
được định nghĩa cụ thể như sau: “Chất
lượng giáo dục ở trường đại học là sự đáp
ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm
bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đại
học của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu
cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển kinh tế – xã hội của địa phương và cả
nước”.
Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng
giáo dục tại Việt Nam đã đúc kết sáu quan
điểm về chất lượng trong giáo dục đại học
như sau: Thứ nhất, chất lượng giáo dục
được đánh giá bằng đầu vào, đây chính là
trình độ của sinh viên được tuyển chọn
vào trường. Thứ hai, chất lượng giáo dục
được đánh giá bằng đầu ra hay chính là
sản phẩm của giáo dục đại học được thể
hiện bằng mức độ hoàn thành công việc
của sinh viên tốt nghiệp hay khả năng
cung cấp các hoạt động đào tạo của trường
đó. Thứ ba, chất lượng giáo dục được đánh
giá bằng giá trị gia tăng: “Giá trị gia tăng”
được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ
đi giá trị của “đầu vào”, kết quả thu được
là “giá trị gia tăng” mà trường đại học đã
đem lại cho sinh viên và được đánh giá là
chất lượng giáo dục đại học. Thứ tư, chất
lượng giáo dục được đánh giá bằng giá trị
học thuật: chủ yếu dựa vào sự đánh giá
của các chuyên gia về năng lực học thuật
của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng
trường trong quá trình thẩm định công
nhận chất lượng đào tạo đại học. Điều này
có nghĩa là trường đại học nào có đội ngũ
giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học
cao thì được xem là trường có chất lượng
cao. Thứ năm, chất lượng giáo dục được
đánh giá bằng văn hóa tổ chức riêng: “Văn
hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình
liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một
trường được đánh giá là có chất lượng khi
nó có được “Văn hoá tổ chức riêng” với
nét đặc trưng quan trọng là không ngừng
nâng cao chất lượng đào tạo. Cuối cùng,
chất lượng giáo dục được đánh giá bằng
kiểm định: Quan điểm này xem trọng quá
trình bên trong trường đại học và nguồn
thông tin cung cấp cho việc ra quyết định.
Nếu kiểm toán tài chính xem xét các tổ
chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính
hợp lý không, thì kiểm định chất lượng
39
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
quan tâm xem các trường đại học có thu
thập đủ thông tin phù hợp và những người
ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay
không, quá trình thực hiện các quyết định
về chất lượng có hợp lý và hiệu quả
không.
Dựa trên những khái niệm khác nhau
về chất lượng đào tạo ở Việt Nam cũng
như trên thế giới, có thể nhận thấy rằng
đánh giá chất lượng đào tạo là hoạt động
nhằm xác định lại việc thực hiện đào tạo
có đáp ứng được mục tiêu đào tạo do cơ sở
đào tạo đề ra hay không. Một trong các
mục tiêu quan trọng của cơ sở giáo dục đại
học là đáp ứng được nhu cầu và mọng đợi
của người học về chất lượng đào tạo, vì
thế nghiên cứu về phản hồi, đánh giá của
người học là một hoạt động cần thiết của
cơ sở đào tạo đại học. Khoa Marketing,
trường Đại học Tài chính – Marketing là
một trong những khoa đang tham gia vào
đánh giá chương trình đào tạo theo tiêu
chuẩn mạng lưới các trường đại học Đông
Nam Á (AUN-QA), vì thế nghiên cứu về
phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về chất
lượng đào tạo là một vấn đề cần thiết. Kết
quả nghiên cứu vừa là minh chứng cho
công tác kiểm định và là cơ sở để khoa
Marketing có thể nâng cao chất lượng đào
tạo trong thời gian tới.
2.2 Một số nghiên cứu về chất lượng
đào tạo
Các nghiên cứu liên quan đến chất
lượng đào tạo tập trung vào các nhóm, thứ
nhất là các nghiên cứu nhằm khái niệm
hóa và xây dựng các tiêu chí đánh giá chất
lượng đào tạo (Lê Thị Linh Giang, 2014;
Phạm Lê Hồng Nhung và cộng sự, 2012).
Hướng thứ hai, các nhà nghiên cứu đánh
giá mối quan hệ giữa chất lượng đào tạo
với các yếu tố khác ví dụ chất lượng đào
tạo và sự hài lòng của học viên (Diamantis
và Benos, 2007; Bùi Ngọc Ánh và Đào
Thị Hồng Vân, 2013; Nguyễn Thị Bảo
Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013; Phan
Thị Thanh Hằng, 2014; Trần Xuân Kiên,
2006) hay chất lương đào tạo và cảm nhận
về chất lượng đào tạo (Clemenz, 2001;
Huỳnh Trường Huy và Nguyễn Nhật
Khiêm, 2012). Diamantis và Benos (2007)
đã nghiên cứu về sự hài lòng của sinh viên
Khoa Quốc tế và Châu Âu. Kết quả nghiên
cứu cho thấy sự hài lòng của sinh viên bị
ảnh hưởng bởi cả 4 yếu tố: chương trình
đào tạo, yếu tố hữu hình, hỗ trợ hành
chính và hình ảnh của Khoa. Clemenz
(2001) với đề tài “Đo lường cảm nhận về
chất lượng dịch vụ trong đào tạo các
nghiệp vụ khách sạn”, sử dụng mô hình
SERQUAL. Kết quả nghiên cứu cho thấy
được 9 nhóm nhân tố ảnh hưởng đế chất
lượng đào tạo ngành du lịch, bao gồm:
môi trường đào tạo, tổ chức đào tạo, sự
đồng cảm, tính thực tế, sự tương tác, tính
hữu hình, trách nhiệm, sự tin cậy và sự
thoải mái. Nghiên cứu của Bùi Ngọc Ánh
và Đào Thị Hồng Vân (2013) cho thấy
thành phần chất lượng đào tạo tác động
đến sự hài lòng của sinh viên, theo thứ tự
từ cao xuống thấp, đó là: Chương trình
đào tạo, cơ sở vật chất, năng lực phục vụ
và nhân tố giảng viên.
Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị
Bích Châu (2013) thực hiện đề tài “Đánh
giá mức độ hài lòng của sinh viên khối
ngành Kinh tế đối với chất lượng đào tạo
40
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
của Khoa Kinh tế & Quản trị Kinh doanh,
Trường Đại học Cần Thơ”. Kết quả nghiên
cứu đã chỉ ra 2 nhóm có ảnh hưởng đến sự
hài lòng của sinh viên, đó là: tác phong,
năng lực của giảng viên và cơ sở vật chất
trong đó, sự ảnh hưởng của nhóm tác
phong, năng lực của giảng viên có ảnh
hưởng mạnh hơn.
Phan Thị Thanh Hằng (2014) với đề
tài “Sự hài lòng của học sinh – sinh viên
về chất lượng chương trình đào tạo tại
trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại” được
thực hiện trên cơ sở mô hình chất lượng
dịch vụ của Parasuraman & ctg (1998) và
mô hình sự hài lòng của sinh viên theo
Diamantis và Benos (2007). Kết quả đề tài
cho thấy sự hài lòng của sinh viên về chất
lượng chương trình đào tạo tại bị tác động
nhiều nhất bởi nhóm giảng viên và chương
trình đào tạo hơn là nhóm yếu tố cơ sở vật
chất và các hoạt động hỗ trợ.
Trong nghiên cứu về đánh giá sự hài
lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo
tại trường đại học kinh tế và quản trị kinh
doanh, Đại học Thái Nguyên, Trần Xuân
Kiên (2006) đã khảo sát 260 sinh viên tại
trường và sử dụng công cụ thang đo
SERVQUAL, kết quả biến thể qua năm
thành phần: (i) cơ sở vật chất, (ii) sự nhiệt
tình của giảng viên, (iii) trình độ của đội
ngũ giảng viên, (iv) khả năng thực hiện
cam kết, và (v) sự quan tâm của nhà
trường. Tác giả đã sử dụng phương pháp
phân tích nhân tố để sàng lọc và nhóm các
nhân tố có tác động đến sự hài lòng về
chất lượng đào tạo. Kết quả phân tích cho
thấy rằng thành phần nhân tố về sự nhiệt
tình của giảng viên đóng vai trò quan
trọng nhất dẫn đến sự hài lòng của sinh
viên.
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu, tổng
hợp và đánh giá các đề tài nghiên cứu liên
quan, nhóm nghiên cứu nhận xét thấy mặc
dù có nhiều đề tài khác nhau sử dụng các
nhóm nhân tố khác nhau nhưng hầu hết
các thang đo chất lượng đào tạo đều có
chung đặc điểm, đó là các nhân tố đều
xoay quanh hoặc thể hiện được 5 nhân tố
của thang đo chất lượng dịch vụ của
Parasuraman và cộng sự (1988), bao gồm:
hữu hình, đáp ứng, đảm bảo, tin cậy và
đồng cảm. Các nhân tố này được điều
chỉnh và đặt tên lại trong các nghiên cứu
về chất lượng đào tạo, cũng như bổ sung
thêm các nhân tố khác dựa trên các nghiên
cứu trước đây. Từ cơ sở này, mô hình
nghiên cứu được đề xuất như sau bao gồm
bảy nhân tố: Cơ sở vật chất, Sự đồng cảm,
Sự tin cậy, Sự bảo đảm, Chương trình đào
tạo, Kết quả mong đợi và nhân tố Giảng
viên.
41
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
2.3 Khung lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu
Xây dựng thang đo
Chất lượng dịch vụ nói chung và chất
lượng đào tạo (giáo dục) nói riêng từ lâu
đã trở thành chủ đề được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm và đánh giá với nhiều
phương pháp khác nhau. Điển hình nhất
trong số đó là mô hình chất lượng dịch vụ
do Parasuraman và cộng sự (1988) đề
xuất, thường được biết đến với công cụ
SERVQUAL gồm năm thành phần chính –
tin cậy, đáp ứng, đảm bảo, đồng cảm, và
phương tiện hữu hình. Một biến thể của
SERVQUAL chính là công cụ đo lường
chất lượng dịch vụ dựa trên cảm nhận của
khách hàng SERVPERF được đề xuất bởi
Cronin và Taylor (1992). Mô hình này
cũng dựa trên năm thành phần chính của
công cụ (Parasuraman và cộng sự, 1988).
Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai công
cụ đó là cách thức đo lường. Parasuman và
cộng sự (1988) đo lường chất lượng dịch
Sự đảm bảo
Sự đồng cảm
Cơ sở vật chất
Sự hài lòng về
chất lượng đào tạo của
Khoa Marketing
Sự tin cậy
Chương trình đào tạo
H1(+)
H2(+)
H4(+)
H3(+)
H7(+)
Kết quả mong đợi
Giảng viên
H5(+)
H6(+)
42
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
vụ dựa vào sự khác biệt giữa cảm nhận và
kỳ vọng, trong khi đó Cronin và Taylor
(1992) đo lường chỉ dựa vào cảm nhận của
đối tượng tham gia đánh giá. Cho đến nay,
cả hai phương pháp trên có thể được sử
dụng đồng thời và chưa có bằng chứng
nào cho thấy phương pháp thứ nhất tối ưu
hơn phương pháp thứ hai. Tuy nhiên,
trong thực tế người tham gia đánh giá
thường gặp khó khi phân biệt giữa cảm
nhận và kỳ vọng. Điều này dẫn đến sự
khác biệt giữa hai tiêu chí này dường như
không đáng kể. Trong trường hợp như thế,
công cụ SERVPERF có vẻ phù hợp hơn
do đặc điểm đơn giản của nó. Vì vậy, công
cụ SERVPERF sẽ được chọn và kế thừa
các nghiên cứu trước về chất lượng đào
tạo để tiến hành đánh giá chất lượng đào
tạo đối với ngành Marketing. Thang đo sơ
bộ sẽ được đưa vào thảo luận nhóm với
các sinh viên tốt nghiệp để điều chỉnh các
thang đo, làm cơ sở thiết kế bảng câu hỏi.
Trong bảng câu hỏi, các thành phần thang
đo thể hiện qua các phát biểu được hỏi với
thang Likert với năm mức độ tương ứng 1:
Rất không đồng ý đến 5: Rất đồng ý.
Thang đo Sự hài lòng của sinh viên về
chất lượng đào tạo được kế thừa từ nghiên
cứu của Phan Thị Thanh Hằng (2014) gồm
3 biến quan sát và sử dụng thang đo Likert
(5 mức độ) để đặt câu hỏi.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu đánh
giá của sinh viên tốt nghiệp về chất
lượng đào tạo của khoa Marketing
(ngành Marketing), trường Đại học Tài
chính – Marketing được thực hiện thông
qua hai giai đoạn:
Nghiên cứu sơ bộ: Sử dụng phương
pháp nghiên cứu định tính với kỹ thuật
thảo luận nhóm bao gồm 8 sinh viên tốt
nghiệp từ hai chuyên ngành Quản trị
marketing và Quản trị thương hiệu. Giai
đoạn nghiên cứu này nhằm điều chỉnh và
bổ sung biến quan sát cho thang đo chất
lượng đào tạo theo quan điểm của cựu
sinh viên.
Nghiên cứu chính thức: Sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng với
qui mô mẫu là 320, mẫu được chọn theo
phương pháp thuận tiện, kỹ thuật thu thập
dữ liệu thông qua bảng câu hỏi bằng cách
phát bảng hỏi trực tiếp. Thời gian tiến
hành khảo sát từ ngày 14/07 đến
21/07/2017 trong đợt sinh viên tập trung
nhận bằng tốt nghiệp tại trường. Dữ liệu
sau khi thu thập được nhập liệu, làm sạch
và phân tích độ tin cậy của thang đo bằng
phương pháp xác định hệ số Cronbach’s
Alpha và phân tích nhân tố khám phá
EFA. Phân tích tương quan và hồi quy đa
biến được sử dụng nhằm kiểm định các giả
thuyết nghiên cứu và đánh giá mức độ tác
động của các nhân tố độc lập đến biến phụ
thuộc. Tiêu chuẩn chọn hệ số Cronbach’s
Alpha lớn hơn hoặc bằng 0.6 (Slater,
1995), hệ số tương quan biến tổng phải đạt
trên 0.3 (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị
Mai Trang, 2011). Phân tích nhân tố khám
phá (EFA) phải thỏa điều kiện hệ số
KMO: 0.5 ≤ KMO ≤ 1, với mức ý nghĩa
kiểm định Barlett ≤ 0.05. Phương pháp
trích nhân tố sử dụng là Principal
Component và phép xoay là Varimax. Số
lượng nhân tố sẽ nhận tại điểm dừng Eigen
–value tối thiểu bằng 1, yêu cầu về tổng
43
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
phương sai trích đạt trên 50%, hệ số tải
nhân tố trong đề tài chọn mức là lớn hơn
hoặc bằng 0.4.
3. Kết quả và thảo luận
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Tổng số mẫu đưa vào phân tích là 320
sinh viên, trong đó có 259 sinh viên nữ,
chiếm tỷ lệ 80,9%; sinh viên nam tốt
nghiệp là 61 người, chiếm 19.1%. Số
lượng hai nhóm sinh viên theo giới tính có
sự chênh lệch rõ rệt, đây không phải là lỗi
do chọn mẫu bị lệch mà do đặc thù sinh
viên nữ có tỷ lệ theo học cao hơn sinh viên
nam tại trường nói chung và khoa
Marketing nói riêng. Về số lượng sinh
viên theo khóa học tham gia khảo sát có
156 sinh viên Khóa 12D (12DMA1,
12DMA2, 12DQH), chiếm tỷ lệ 48.8%
trên tổng số mẫu khảo sát. Khóa 13D, bao
gồm 07 lớp: 13DMA1, 13DMA2,
13DMA3, 13DMA4, 13DMA5, 13DMA6
và 13DQH bao gồm 164 người, chiếm
51.2%. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành
Marketing tổng hợp (nay đã đổi tên là
chuyên ngành Quản trị marketing) có 250
sinh viên với tỷ lệ là 78.1%; Chuyên
ngành Quản trị thương hiệu là 70 sinh
viên, chiếm 21.9%. Trên thực tế, trong các
năm qua, số lượng sinh viên chuyên ngành
Marketing tổng hợp luôn nhiều hơn so với
chuyên ngành Quản trị thương hiệu. Kết
quả xếp loại học tập toàn khóa được chia
thành bốn nhóm: Xếp loại xuất sắc toàn
khóa có 1 sinh viên, chiếm tỷ lệ rất nhỏ
với 0.3%; nhóm xếp loại giỏi có 24 sinh
viên, chiếm 7.5%; nhóm tốt nghiệp loại
khá có số lượng nhiều nhất với 279 sinh
viên tương đương với 87.2% và nhóm tốt
nghiệp trung bình là 16 sinh viên, chiếm
5% trong tổng mẫu điều tra.
Bảng 1. Thông tin về mẫu khảo sát
Thông tin đáp viên Tần số Tỷ lệ
Giới tính
Nam 61 19.1%
Nữ 259 80.9%
Tổng số 320 100.0%
Khóa học
Khóa 12D 156 48.8%
Khóa 13D 164 51.2%
Tổng số 320 100.0%
Chuyên ngành
Marketing tổng hợp 250 78.1%
Quản trị thương hiệu 70 21.9%
Tổng số 320 100.0%
Xếp loại
học tập
Xuất sắc 1 0.3%
Giỏi 24 7.5%
Khá 279 87.2%
Trung bình 16 5.0%
Tổng số 320 100.0%
Nguồn: Kết quả khảo sát
44
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Kết quả kiểm định thang đo
Kiểm định thang đo bằng hệ số
Cronbach’s Anpha cho kết quả các nhân
tố đều đạt yêu cầu với hệ số Cronbach’s
Alpha của các nhân tố lớn hơn 0.7, thể
hiện thang đo có mức độ đo lường tốt, hệ
số tương quan biến – tổng đều lớn hơn
0.3, không có biến quan sát nào bị loại
khỏi mô hình. Kết quả phân tích nhân tố
khám phá EFA với các biến độc lập cho
thấy các điều kiện cho phân tích nhân tố
là phù hợp với kết quả hệ số KMO =
0.719; số Sig của kiểm định Bartlett’s =
0.00 (nhỏ hơn 0.05). Kết quả rút trích
được 7 nhân tố độc lập tại điểm dừng
Eigenvalue = 1.651 (lớn hơn 1), tổng
phương sai trích = 69.215% (lớn hơn
50%), tất cả các biến quan sát đều có hệ
số tải nhân tố lớn hơn 0.6. Nhân tố Sự
hài lòng của sinh viên cũng được rút gọn
thành một nhân tố, giữ nguyên so với ban
đầu với tới tiêu chí KMO = 0.727, số Sig
của kiểm định Bartlett’s = 0.00 (nhỏ hơn
0.05). (Kết quả thể hiện trong bảng 2).
Bảng 2: Tổng hợp hệ số tải nhân tố và độ tin cậy tổng hợp của thang đo
Nhân tố (biến độc lập)
Hệ số tải nhân tố
1 2 3 4 5 6 7
Chương trình đào tạo - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.842,
Khoa cung cấp đầy đủ các thông tin thông báo liên quan
đến chương trình đào tạo
0.834
Nội dung giáo trình, bài giảng môn học đáp ứng tốt mục
tiêu môn học
0.817
Khoa sẵn sàng hỗ trợ sinh viên tiếp cận giáo trình và tài
liệu cần thiết khác của môn học
0.797
Các môn học trong chương trình đào tạo có thời lượng phù
hợp
0.735
Chương trình đào tạo đáp ứng được yêu cầu thực tế đối
với chuyên ngành
0.703
Cơ sở vật chất - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.809
Thư viện có nguồn tài liệu tham khảo phong phú đa dạng 0.789
Thư viện có đủ không gian đáp ứng được nhu cầu học tập
và nghiên cứu của sinh viên
0.751
Trang thiết bị mới phục vụ tốt việc dạy và học 0.747
Tác phong giảng viên luôn chỉnh tề 0.735
Phòng học rộng rãi sạch sẽ đáp ứng nhu cầu học tập của
sinh viên
0.680
Sự tin cậy - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.849
Khoa thực hiện tốt các thông báo quy định 0.870
Các yêu cầu cầu của sinh viên được giải quyết đúng 0.869
Khoa hạn chế tốt khả năng xảy ra các sai sót 0.866
Kết quả mong đợi - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.831
Sinh viên phát triển được các kỹ năng mềm thông qua học
tập và rèn luyện
0.899
Sinh viên được phát triển các năng lực học tập nghiên cứu 0.855
Sinh viên nắm vững kiến thức và kỹ năng chuyên ngành 0.830
45
5
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Giảng viên - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.815
Giảng viên có kỹ năng truyền đạt dễ hiểu 0.873
Giảng viên có trình độ chuyên môn 0.844
Giảng viên có kiến thức thực tế 0.843
Sự đồng cảm - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.808
Khoa quan tâm giải quyết trở ngại của sinh viên trong các
vấn đề học tập
0.866
Giảng viên luôn sẵn sàng hỗ trợ sinh viên trong phạm vi
trách nhiệm
0.839
Khoa hiểu rõ nhu cầu học tập và rèn luyện của sinh viên 0.836
Sự đảm bảo - Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.758
Thi, kiểm tra luôn được thực hiện nghiêm túc 0.824
Lịch trình giảng dạy của giảng viên được thực hiện đúng
quy định
0.809
Việc học và thi cử được thực hiện đúng tiến độ 0.773
Phương sai trích (%) 14.834 28.016 38.559 47.672 55.219 62.611 69.215
Hệ số Eigenvalue 3.709 3.295 2.636 2.278 1.887 1.848 1.651
Biến phụ thuộc – Sự hài lòng, Hệ số Cronbach’s Anpha = 0.959 , Eigenvalue = 2.778, Phương sai
trích(%) = 92.959
Bạn hài lòng khi học tập tại Khoa Marketing 0.980
Khóa học đáp ứng được mong đợi của sinh viên 0.974
Kiến thức từ khóa học giúp sinh viên tự tin về khả năng tìm việc 0.933
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả)
Phân tích tương quan và hồi quy
Kết quả phân tích tương quan cho thấy có
mối tương quan giữa các biến độc lập và
biến phụ thuộc với hệ số tương quan
Pearson trong khoảng từ 0.241 đến 0.400
chứng tỏ các biến có mối tương quan có ý
nghĩa, giá trị tương quan cao nhất (0.4)
không vi phạm điều kiện cao hơn 0.85
(John & Benet-Martinez, 2000). Các hệ số
tương quan giữa các biến độc lập và biến
phụ thuộc có ý nghĩa thống kê ở mức ý
nghĩa 0.01. (Bảng 3).
Bảng 3. Bảng ma trận tương quan
Nhân tố CSVC DC TC BD CTĐT KQ GV SHL
CSVC 1 0.004 0.017 0.316** -0.100 -0.117* 0.098 0.229**
ĐC
1 -0.051 -0.028 0.034 -0.043 0.074 0.241**
TC
1 0.031 -0.181** 0.174** 0.083 0.294**
BĐ
1 -0.041 -0.031 0.086 0.309**
CTĐT
1 -0.068 0.024 0.255**
KQ
1 0.089 0.289**
GV
1 0.400**
SHL
1
* Tương quan Pearson có ý nghĩa thống kê ở mức 0.05
** Tương quan Pearson có ý nghĩa thống kê ở mức 0.01
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả)
46
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Kết quả phân tích hồi quy đa biến
(Bảng 4) cho thấy mô hình phù hợp với
tập dữ liệu ở mức 53.1% (R2 hiệu chỉnh =
0.531), giá trị dung sai từ 0.873 đến 0.988,
hệ số phóng đại phương sai (VIF) đều nhỏ
hơn 2 vì thế mô hình không xảy ra hiện
tương đa cộng tuyến. Thống kê Durbin-
Watson =1.772 (trong khoảng từ 1 đến 3)
vì thế mô hình không có sự tương quan
giữa các phần dư. Các giá trị tới hạn của
thống kê t đều lớn hơn 2 và giá trị mức ý
nghĩa (P-value) nhỏ hơn 0.05 chứng tỏ các
biến độc lập đều ảnh hưởng có ý nghĩa
thống kê đến biến phụ thuộc (hài lòng về
chất lượng đào tạo) theo mức độ giảm dần
từng yếu tố như sau: Chương trình đào tạo
(β = 0.339), Giảng viên (β = 0.286), Sự tin
cậy (β = 0.285), Kết quả mong đợi (β =
0.276), Sự đảm bảo (β = 0.246), Sự đồng
cảm (β = 0.241) và Cơ sở vật chất (β =
0.184). Kết quả này cũng củng cố cho
nhiều nghiên cứu trước về yếu tố chương
trình đào tạo và yếu tố giảng viên có tác
động mạnh hơn các yếu tố khác đến sự hài
lòng về chất lượng đào tạo (Nguyễn Thị
Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013;
Phan Thị Thanh Hằng, 2014; Lại Xuân
Thủy và Phạm Thị Minh Lý, 2011; Phan
Thị Thanh Hằng, 2014). Kết quả này cũng
cho thấy vai trò quan trọng của các yếu tố
thuộc về phần mềm hơn là các yếu tố hữu
hình.
Bảng 4: Phân tích mô hình hồi quy
Mô hình
Hệ số Beta
chuẩn hóa
Giá trị t Mức ý nghĩa
Dò tìm đa cộng
tuyến
Dung
sai
VIF
Cơ sở vật chất 0.184 4.474 0.000 0.873 1.146
Sự đồng cảm 0.241 6.058 0.000 0.988 1.012
Sự tin cậy 0.285 7.189 0.000 0.933 1.072
Sự đảm bảo 0.246 6.254 0.000 0.896 1.117
Chương trình đào
tạo
0.339 8.631 0.000 0.952 1.050
Kết quả mong đợi 0.276 6.999 0.000 0.943 1.060
Giảng viên 0.286 7.334 0.000 0.963 1.038
Hệ số R2 hiệu chỉnh: 0.531
Hệ số Durbin-Watson: 1.772
Biến phụ thuộc: Sự hài lòng về chất lượng đào tạo
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích dữ liệu của nhóm tác giả)
47
6
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
4. Kết luận và khuyến nghị giải pháp
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra có 7 yếu
tố tác động có ý nghĩa thống kê đến sự hài
lòng về chất lượng đào tạo của sinh viên
tốt nghiệp tại khoa Marketing, trường Đại
học Tài chính – Marketing. Trong đó, các
yếu tố lần lượt theo thứ tự tác động từ cao
xuống thấp đó là: Chương trình đào tạo (β
= 0.339), Giảng viên (β = 0.286), Sự tin
cậy (β = 0.285), Kết quả mong đợi (β =
0.276), Sự đảm bảo (β = 0.246), Sự đồng
cảm (β = 0.241) và Cơ sở vật chất (β =
0.184). Kết quả cho thấy yếu tố tác động
mạnh nhất là yếu tố Chương trình đào tạo,
thứ hai là yếu tố Giảng viên trong khi đó
yếu tố Cơ sở vật chất lại là yếu tố có tác
động thấp nhất. Từ kết quả nghiên cứu
này, nhóm nghiên cứu đề xuất một số gợi
ý và chính sách và giải pháp cho khoa
Marketing cũng như nhà trường nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo của khoa
Marketing.
Đối với yếu tố “Chương trình đào
tạo”:
Khoa Marketing cần rà soát chương
trình đào tạo, bao gồm các môn học, thời
lượng môn học để tiếp tục có những điều
chỉnh trong chương trình đào tạo cho phù
hợp với thực tế cũng như yêu cầu của sinh
viên. Ngoài ra, vấn đề tài liệu tham khảo,
giáo trình cũng rất cần thiết, thực tế hiện
nay, giáo trình tài liệu tham khảo của khoa
Marketing còn hạn chế, các giáo trình đã
có nhưng đã cũ cần được bổ sung và tái
bản. Nhiều môn học trong chuyên ngành
còn thiếu giáo trình và bài giảng do Khoa
biên soạn. Thực tế, giảng viên có thể giới
thiệu cho sinh viên nhiều tài liệu khác
nhau và nhờ có sự phát triển của internet,
sinh viên có nhiều nguồn học liệu phong
phú, tuy nhiên, một bài giảng và giáo trình
thống nhất do Khoa biên soạn sẽ giúp sinh
viên dễ tiếp cận hơn. Ngoài ra, việc biên
soạn giáo trình, bài giảng cũng thể hiện
năng lực của khoa Marketing và hỗ trợ các
giảng viên thỉnh giảng trong việc thống
nhất nội dung giảng dạy.
Đối với yếu tố “Giảng viên”: Nhà
trường nên có chính sách hỗ trợ đào tạo
cho giảng viên tham gia các khóa học
cần thiết nhằm nâng cao trình độ. Giảng
viên là đội ngũ nòng cốt vì thế nhà
trường nên tiếp tục duy trì và phát triển
các kế hoạch bồi dưỡng giảng viên. Ở
cấp độ khoa Marketing nên duy trì tổ
chức sinh hoạt chuyên môn, tổ chức hội
thảo chuyên đề nhằm tạo cơ hội cho các
giảng viên chia sẻ kinh nghiệm kiến thức
không những trong chuyên môn mà còn
trong kỹ năng giảng dạy. Ngoài các
chương trình bồi dưỡng của nhà trường,
mỗi giảng viên nhất là các giảng viên trẻ
trong khoa cũng nên không ngừng tự trau
dồi, tự nghiên cứu để tự phát triển năng
lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Đối với yếu tố “Sự tin cậy”: Sự tin
cậy thể hiện ở việc khoa Marketing giải
quyết các sự việc cũng như thực hiện các
quy định, quy chế liên quan đến sinh viên
một cách chính xác, hạn chế các khả
năng sai sót. Thực tế tại khoa Marketing
hiện nay là một trong những Khoa có số
lượng sinh viên đông nhất trường nhưng
chỉ có một thư ký khoa đảm nhận các
hoạt động học vụ. Trong thời gian tới,
48
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Khoa nên đề xuất tuyển dụng bổ sung
thêm nhân viên hỗ trợ cho Khoa.
Đối với yếu tố “Kết quả học tập mong
đợi”: Sinh viên mong đợi nhận được các
kiến thức, kỹ năng cần thiết để có thể tự
tin khi ra trường. Nhà trường và Khoa nên
có các hoạt động cho sinh viên phát triển
các kỹ năng và kiến thức chuyên ngành
thông qua các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu
khoa học sinh viên, tổ chức các hội thảo
chuyên đề, các cuộc thi học thuật, nhằm
tạo các sân chơi bổ ích cho sinh viên, từ
đó phát triển năng lực cho sinh viên.
Đối với yếu tố “Sự đảm bảo”: Sự
đảm bảo tập trung vào việc tổ chức học
tập và thi cử của sinh viên. Điều này phụ
thuộc rất nhiều vào công tác quản lý và
tổ chức của nhà trường. Với cấp độ
Khoa, giảng viên đảm bảo về số giờ
giảng trên lớp học, đây là việc mà các
giảng viên nên tự ý thức thực hiện tốt do
bản thân mỗi giảng viên cũng cần phải
giữ tác phong về giờ giấc trước sinh viên,
hơn nữa, nhà trường cũng có bộ phận
quản lý cơ sở theo dõi về việc đảm bảo
giờ giấc của giảng viên.
Đối với yếu tố “Sự đồng cảm”: Nhà
trường nên rà soát các quy chế, chính
sách và cần thiết ban hành các quy trình
học vụ một cách rõ ràng, hỗ trợ sinh viên
trong việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến học vụ, thể hiện sự thấu hiểu, đồng
cảm của nhà trường và khoa đối với sinh
viên. Trong đó, thái độ hay sự cảm thông
của những người tiếp xúc trực tiếp với
sinh viên như thư ký khoa, nhân viên các
phòng ban, giảng viên rất được sinh viên
quan tâm.
Đối với yếu tố “Cơ sở vật chất”: Cần
tiếp tục nâng cao cơ sở vật chất, đáp ứng
tốt hơn nữa nhu cầu của người học. Cơ
sở vật chất là giải pháp mang tính lâu
dài, không thể đáp ứng trong một sớm
một chiều tuy nhiên giải pháp trước mắt
cần rà soát và cải thiện những vấn đề cần
thiết ví dụ như có thể sắp xếp một số
phòng làm khu học nhóm tự quản cho
sinh viên, thực tế nhóm nghiên cứu từng
quan sát thấy các em sinh viên không có
khuôn viên để làm việc nhóm, phải ngồi
ngoài hành lang các cơ sở đào tạo để
thảo luận trong thời tiết nóng bức. Thư
viện cần cập nhật các đầu sách mới nhất
để có thể cung cấp nguồn tài liệu tham
khảo phong phú cho sinh viên.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Anh
Clemenz, C.E. (2001). Measuring Perceived Quality of Training in the Hospitality
Industry. Dissertation, Virginia Polytechnic Institute and State University
Cronin Jr, J. J., & Taylor, S. A. (1992). Measuring service quality: a reexamination and
extension. The Journal of Marketing, 3(Jul.,1992), 55-68.
49
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Diamantis G. V., & Benos V. K (2007), Measuring student satisfaction with their studies
in an internationaland European studies department. Operational Research.
International Journal, 7(1), 47–59.
Elliott, K. & Shin, D., 2002. Student satisfaction: an alternative approach to assessing this
important Concept. Journal of Higher Education Policy and Management, 24(2), 97-
109.
Harvey, L. & Green, D. (1993). Defining quality. Assessment & Evaluation in Higher
Education, 18(1), 9-34.
John, O. P., & Benet-Martínez, V. (2000). Measurement: Reliability, construct validation,
and scale construction. In H. T. Reis & C. M. Judd (Eds.), Handbook of research
methods in social and personality psychology (pp.339-369). New York, NY, US:
Cambridge University Press.
Parasuraman, A., Zeithaml, V. A., & Berry, L. L. (1988). SERVQUAL: A multiple-item
scale for measuring consumer perceptions of service quality. Journal of Retailing,
64(1), 12-40.
Slater, S. (1995). Issues in Conducting Marketing Strategy Research. Journal of Strategic
Marketing, 3(4), 257-270.
Tiếng Việt
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Quyết định Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội. (Số: 65 /2007/QĐ-BGDĐT).
Bùi Ngọc Ánh và Đào Thị Hồng Vân (2013). Khảo sát sự hài lòng của sinh viên về chất
lượng đào tạo tại trường ĐH Kinh tế-ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu (2013). Đánh giá mức độ hài lòng của sinh
viên đối với chất lượng đào tạo của khoa kinh tế và quản trị kinh doanh – Trường Đại
học Cần Thơ, giai đoạn 2012-2013. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, số
28, 117-123.
Lê Thị Linh Giang (2014). Mô hình lý thuyết: cấu trúc sự hài lòng của sinh viên với hoạt
động đào tạo. Tạp chí Khoa học Trường Đại học An Giang, 3(2), trang 93- 99.
Phan Thị Thanh Hằng (2014), Nghiên cứu về sự hài lòng của sinh viên trường đại học
Kinh tế đối ngoại”, Chuyên san KTĐN Kỳ 11, trang 13-20.
Huỳnh Trường Huy & Nguyễn Nhật Khiêm (2012). Chất lượng đào tạo ngành quản trị
kinh doanh của khoa Kinh tế-QTKD, trường Đại học Cần Thơ: Kết quả khảo sát
đánh giá từ sinh viên ngành Quản trị kinh doanh. Kỷ yếu khoa học Trường ĐH Cần
Thơ 2012, trang 247-257.
50
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Trần Xuân Kiên. (2006). Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại
trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên. Thư viện Đại
học quốc gia Hà Nội.
Phạm Lê Hồng Nhung và cộng sự (2012). Kiểm định thang đo chất lượng dịch vụ trong
đào tạo đại học trường hợp nghiên cứu tại các trường tư thục khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long, Phát triển KT-XH, 203 – 213.
Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa
học trong kinh doanh, TPHCM: NXB Lao động – Xã hội.
51
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21_5032_2141152.pdf