Đánh giá chẩn đoán và điều trị chấn thương, vết thương tinh hoàn tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân

Tài liệu Đánh giá chẩn đoán và điều trị chấn thương, vết thương tinh hoàn tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 80 ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG, VẾT THƯƠNG TINH HOÀN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY VÀ BỆNH VIỆN BÌNH DÂN Cao Vĩnh Duy*, Vũ Hồng Thịnh**, Chung Tấn Tinh*** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị chấn thương, vết thương tinh hoàn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 76 trường hợp bị tổn thương tinh hoàn từ 01/2012 đến 12/2017 tại BV Chợ Rẫy và BV Bình Dân. Kết quả: Tuổi trung bình: 31,1. Chấn thương 71,1%, vết thương 28,9%. Đối với chấn thương tinh hoàn, nguyên nhân do TNLĐ 33,3%; do TNGT 31,5%; do ẩu đả 16,7%; do chấn thương trong thể thao 14,8%. 1 TH chấn thương cả 2 tinh hoàn. 20,4% được điều trị nội khoa, hầu hết là những trường hợp chấn thương độ I, 2TH tổn thương độ V và phải cắt tinh hoàn. Đối với vết thương tinh hoàn, nguyên nhân do TNLĐ 50%; do TNGT 36,4%; do tự cắt 9,1%; do động vật cắn 4,5%. 31,8% tổn thương cả 2 tinh...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chẩn đoán và điều trị chấn thương, vết thương tinh hoàn tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 80 ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG, VẾT THƯƠNG TINH HOÀN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY VÀ BỆNH VIỆN BÌNH DÂN Cao Vĩnh Duy*, Vũ Hồng Thịnh**, Chung Tấn Tinh*** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị chấn thương, vết thương tinh hoàn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 76 trường hợp bị tổn thương tinh hoàn từ 01/2012 đến 12/2017 tại BV Chợ Rẫy và BV Bình Dân. Kết quả: Tuổi trung bình: 31,1. Chấn thương 71,1%, vết thương 28,9%. Đối với chấn thương tinh hoàn, nguyên nhân do TNLĐ 33,3%; do TNGT 31,5%; do ẩu đả 16,7%; do chấn thương trong thể thao 14,8%. 1 TH chấn thương cả 2 tinh hoàn. 20,4% được điều trị nội khoa, hầu hết là những trường hợp chấn thương độ I, 2TH tổn thương độ V và phải cắt tinh hoàn. Đối với vết thương tinh hoàn, nguyên nhân do TNLĐ 50%; do TNGT 36,4%; do tự cắt 9,1%; do động vật cắn 4,5%. 31,8% tổn thương cả 2 tinh hoàn. 63,6% có những tổn thương phối hợp khác. Tỷ lệ cứu được tinh hoàn là 32,1%. Kết luận: Nguyên nhân tổn thương tinh hoàn ở các nước phát triển thường là do ẩu đả và liên quan đến hoạt động thể thao, còn các nước đang phát triển chủ yếu là do TNGT và TNLĐ. Tổn thương tinh hoàn độ I, điều trị nội khoa là lựa chọn điều trị đầu tay. Chỉ cắt tinh hoàn khi tổn thương độ V và những trường hợp vết thương đứt cuống thừng tinh đến trễ sau 6h. Từ khóa: chấn thương tinh hoàn, vết thương tinh hoàn, tinh hoàn, cơ quan sinh dục ngoài ABSTRACT ASSESSMENT OF DIAGNOSIS AND TREATMENT OF TESTICULAR TRAUMA, PENETRATING TRAUMA IN CHO RAY HOSPITAL AND BINH DAN HOSPITAL Cao Vinh Duy, Vu Hong Thinh, Chung Tan Tinh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 80-85 Purpose: Assessment of diagnosis and treatment of testicular trauma, penetrating trauma according to the AAST. Material & Methods: A retrospective review was performed on 76 patients with a testis injury treated between 1/2012 and 12/2017 in Cho Ray Hospital and Binh Dan Hospital. Results: Mean age 31.1 years. Blunt trauma to the testis 71.1% and penetrating trauma 28.9%. Blunt trauma, etiology: labor accidents 33.3%, traffic accidents 31.5%, assault 16.7%, sports 14,8%. Only one patient had a bilateral testis be trauma. 20.4% received medical treatment, mostly in grade I. 2 patients had to be orchiectomy with grade V. All the other cases can save the testicles. Penetrating trauma, etiology: labor accidents 50%, traffic accidents 36.4%, self-mutilation 9.1%, animal bites 4.5%. Patients had penetrating bilateral testis 31.8%. 63.6% had other coordinated lesions. The survi val rate of the testicles was 32.1%. Conclusions: Causes of testicular damage in developed countries are often assault and to sports-related injuries, while developing countries are mainly caused by traffic accidents and labor accidents. Testicular trauma grade I, medical treatment is the first treatment option. Only orchiectomy when grade V and the amputation *Khoa Ngoại Tiết niệu, Bệnh viên Đa khoa Xuyên Á **Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh cơ sở 2 ***: Bệnh viện Bình Dân Tác giả liện lạc: Ths.Bs Cao Vĩnh Duy ĐT: 0374616410 Email: caovinhduy@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 81 occurred without 6h. Keywords: testicular trauma. testicular injury, testis, genital ĐẶT VẤN ĐỀ Chấn thương nói chung là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 6 trên thế giới, hằng năm có khoảng 5 triệu người chết và gây tàn phế cho hàng triệu người. Trong đó chấn thương tiết niệu sinh dục chiếm 10% các loại chấn thương, 1/3 đến 2/3 là thương tổn cơ quan sinh dục ngoài trong các tổn thương tiết niệu sinh dục(11,16). Riêng chấn thương bìu, tinh hoàn có tỉ lệ nhỏ hơn 1% tất cả các loại chấn thương, tuổi thường gặp nhất là 15-40 tuổi, là một chấn thương không phổ biến do tính di động, độ đàn hồi và vị trí giải phẫu, tinh hoàn luôn được bảo vậy tốt khỏi thương tích(4,8). Chấn thương tinh hoàn chiếm khoảng 75% các tổn thương tinh hoàn, nguyên nhân chấn thương tinh hoàn thường gặp nhất là do ẩu đả và chấn thương trong thể thao, tai nạn giao thông (TNGT), tai nạn lao động (TNLĐ). Trong khi những trường hợp còn lại là vết thương tinh hoàn, nguyên nhân chủ yếu do hỏa khí, ít hơn là do vết đâm, cuộc tấn công của động vật và tự cắt(16). Điều trị một chấn thương, vết thương tinh hoàn đa phần là phẫu thuật thám sát, tùy theo tình trạng chấn thương mà xử trí thích hợp, điều trị nội khoa chỉ trong một số trường hợp đã chẩn đoán xác định là thể nhẹ, tụ máu chỉ khu trú ở nông và không tiến triển lan rộng, đau giảm dần. Tại Việt Nam đã có một số thống kê về chấn thương, vết thương tinh hoàn. Tuy nhiên những thống kê này đã lâu hoặc số liệu rất ít. Riêng bệnh viện Chợ Rẫy có một công trình nghiên cứu từ năm 2001 về chấn thương và vết thương bộ phận sinh dục ngoài trong đó báo cáo chỉ 13 trường hợp tổn thương tinh hoàn (18). Tại Bệnh viện Bình Dân, một báo cáo năm 1988 trong 27 năm (1955-1982) chỉ ghi nhận 9 trường hợp vết thương tinh hoàn do hỏa khí(13). Vì vậy cần có một nghiên cứu tổng kết với số liệu lớn hơn để đánh nguyên nhân thường gặp cũng như chỉ định điều trị của từng thể chấn thương, vết thương tinh hoàn. Cho nên chúng tôi quyết định tiến hành thực hiện đề tài “Đánh giá chẩn đoán và điều trị chấn thương, vết thương tinh hoàn tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân” với mục tiêu: Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị chấn thương, vết thương tinh hoàn ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân được chẩn đoán xác định có chấn thương, vết thương tinh hoàn tại Khoa Ngoại Thận-Tiết niệu, Bệnh viện Chợ Rẫy và tại Bệnh viện Bình Dân trong khoảng thời gian từ 01/2012 đến 12/2017. Tiêu chuẩn loại trừ Vết thương bìu chưa tổn hại đến tinh hoàn, ống dẫn tinh hay mạch máu tinh hoàn. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu mô tả hàng loạt trường hợp. Phân tích số liệu Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS version 20.0. Phân tích các mối liên quan bằng kiểm định Fisher’s Exact test, so sánh các giá trị trung bình bằng kiểm định Mann-Whitney test, Kruskal-Wallis Test. KẾT QUẢ Có 76 bệnh nhân được chẩn đoán chấn thương, vết thương tinh hoàn tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân trong khoảng từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2017, với 84 tinh hoàn bị tổn thương thỏa tiểu chuẩn chọn mẫu và đưa vào mẫu nghiên cứu. Tuổi trung bình: 31,1 ±11, Chấn thương tinh hoàn 54TH (71,1%), vết thương tinh hoàn 22TH (28,9%). Trong chấn thương tinh hoàn có 1 TH tổn thương cả 2 tinh hoàn, vết thương tinh hoàn có 7TH (31,8%) tổn thương cả 2 tinh hoàn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 82 Bảng 1: Nguyên nhân tổn thương tinh hoàn Nguyên nhân tổn thương tinh hoàn Chấn thương tinh hoàn Vết thương tinh hoàn n (%) Do TNGT 17 (31,5) 8 (36,4) Do TNLĐ 18 (33,3) 11 (50) Liên quan đến thể thao 8 (14,8) Ẩu đả 9 (16,7) Do động vật húc 2 (3,7) Do tự cắt 2 (9) Do động vật cắn 1 (4,5) Tổng cộng : 54 (100) 22 (100) Bảng 2: Tổn thương phối hợp của vết thương tinh hoàn (n=22) Tổn thương phối hợp n (%) Tổn thương niệu đạo 4 (18,2) Tổn thương dương vật 6 (27,3) Vết thương vùng bẹn, tầng sinh môn 4 (18,2) Tổn thương vùng đùi, chi dưới 6 (27,3) Gãy xương chậu 4 (18,2) Các tổn thương khác 5 (22,7) Tổng cộng 14 (63,6) Bảng 3: Phân độ tổn thương tinh hoàn Phân độ tổn thương theo AAST Chẩn đoán (n=76) Tổng cộng Chấn thương Vết thương n (%) Độ I 13 (24,1) 0 (0) 13 (17,1) Độ II 3 (5,6)a 0 (0) 3 (3,9) Độ III 29 (53,7) 4 (18,2) 33 (43,4) Độ IV 7 (13) 2 (9,1)b 9 (11,8) Độ V 2 (3,7) 16 (72,7)c 18 (23,7) Tổng cộng 54 (100) 22 (100) 76 (100) Fisher’s Exact test: p=0,00, a: 1TH bị 2 bên; b: 1TH bị 2 bên; c: 6TH bị 2 bên. Kết quả điều trị trong chấn thương tinh hoàn: Điều trị nội khoa 11TH (20,4%). Trong 13 TH chấn thương độ I có 3 trường hợp được phẫu thuật thám sát, cắt lọc, giải áp. 3 TH độ II có 1 trường hợp điều trị nội khoa, 2 TH khâu bao trắng tinh hoàn. Tổn thương độ III, IV thì 100% khâu bao trắng bảo tồn tối đa chủ mô tinh hoàn. Chỉ có 2 TH tổn thương độ V và tất cả đều phải cắt tinh hoàn Trong vết thương tinh hoàn: 21 trường hợp được điều trị ngoại khoa, 1 trường hợp vào sốc chấn thương xin về. 7 trường hợp (33,3%) tổn thương 2 bên tinh hoàn, nên tổng cộng 28 đơn vị tinh hoàn được phẫu thuật. Trong 7 trường hợp khâu bao trắng tinh hoàn có 9 đơn vị tinh hoàn được cứu, 14 trường hợp cắt tinh hoàn có 19 đơn vị tinh hoàn bị cắt bỏ nên tỉ lệ cứu được tinh hoàn chúng tôi là 9/28 đơn vị tinh hoàn chiếm 32,1%. 16 TH tổn thương độ V thì có 5 TH bị cả 2 bên và phải cắt bỏ cả 2 tinh hoàn. BÀN LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi tổn thương tinh hoàn chủ yếu là chấn thương với 54 trường hợp chiếm 71,1%, và vết thương với 22 trường hợp chiếm 28,9%. So với một số nghiên cứu về tổn thương tinh hoàn như của Lee (2017), Park (2007), Lee (2007) và của Cass (1991) thì tỉ lệ vết thương tinh hoàn của chúng tôi cao hơn 28,9% so với 7,9%, 3,1%, 1%, và 16,3%(5; 9; 10; 14). Đối với chấn thương tinh hoàn ngoài hai nguyên nhân chiếm đa số trên chúng tôi còn thống kê được các nguyên nhân khác như trong y văn thường đề cập đó là do ẩu đả và do hoạt động thể thao. Chúng tôi còn gặp 2 trường hợp do động vật húc vào gây tổn thương tinh hoàn, một do heo húc và một do bò húc. Đây là loại nguyên nhân hiếm gặp mà đa phần các báo cáo không có trường hợp này, có thể do nước chúng tôi là nước đang phát triển, việc chăn nuôi gia súc nhiều và đồ bảo hộ lao động không được trang bị tốt nên mới có việc chấn thương tinh hoàn do súc vật húc vào. Một số nghiên cứu như của Lee (2017), Tahtali (2016), Lee (2007), Park (2007) và Buckley (2006), nguyên nhân chủ yếu của chấn thương tinh hoàn là do ẩu đả chiếm từ 33-54%(2,4,8,9,10,11,14), còn của Dalton (2014) nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động thể thao 59% kế đến cũng là do ẩu đả 22%. Rõ ràng có sự khác biệt về nguyên nhân chấn thương giữa nghiên cứu của chúng tôi so với các nghiên cứu này. Nguyên nhân nổi trội của chúng tôi là TNGT và TNLĐ, điều này có thể giải thích là do tình hình giao thông ở nước chúng tôi phức tạp hơn, phần lớn người dân tham gia giao thông bằng xe máy mà theo nghiên cứu của Terrier và cộng sự (2017) trên 162690 nạn nhân bị TNGT, cho thấy tổn thương tinh hoàn đa phần xảy ra ở người đi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 83 xe máy 170/219 (77,6%), đi xe đạp 34/219 (15,5%), có 11 trường hợp đi xe ô tô, 4 trường hợp đi bộ(17). Còn về nguyên nhân TNLĐ có thể là do thiếu thốn về trang bị bảo hộ, nhất là những người dân ở nông thôn ít ý thức về việc trang bị đồ bảo hộ lao động. Đối với vết thương tinh hoàn nghiên cứu của chúng tôi, nguyên nhân TNGT và TNLĐ chiếm đa số > 85%, chúng tôi có gặp 3 trường hợp đặc biệt, 1 trường hợp do heo cắn và 2 trường hợp tự cắt. Theo nghiên cứu của Aboseif và cộng sự (1993) có 6/14 bệnh nhân tự cắt tinh hoàn trên nhóm bệnh nhân tự cắt bộ phận sinh dục ngoài(1). Theo Nakaya (1996) tổng kết các nghiên cứu về tình trạng tự cắt bộ phận sinh dục ngoài, ông rút ra 7 yếu tố có liên quan đến tự cắt bộ phận sinh dục ngoài(12). Hai trường hợp của chúng tôi cũng thuộc 1 trong 7 yếu tố trên, trường hợp thứ nhất của chúng tôi, bệnh nhân này có tiền sử bị bệnh tâm thần, bệnh nhân đã dùng dao lam để tự cắt 2 tinh hoàn của mình và được người nhà đưa vào viện với tình trạng mất tinh hoàn 2 bên, chảy máu vết thương bìu. Trường hợp này không thể vi phẫu nối lại tinh hoàn do tinh hoàn mất và người nhà không tìm thấy, và buộc phẫu thuật viên lúc đó cắt lọc, cầm máu và cột cuống thừng tinh. Trường hợp thứ 2 tự cắt tinh hoàn 1 bên do bệnh nhân có sử dụng ma túy, nằm trong nhóm yếu tố nguy cơ thứ 4 theo Nakaya. Trong cơn phê thuốc bệnh nhân đã dùng kéo tự cắt tinh hoàn bên phải của mình, bệnh nhân đến viện trong tình trạng mất tinh hoàn phải và bệnh nhân này cũng không được vi phẫu nối tinh hoàn. Theo nghiên cứu của Phonsombat và cộng sự (2008) ở Hoa Kỳ, 35 trường hợp vết thương tinh hoàn có 21(60%) trường hợp do súng, 13(37,1%) trường hợp do dao, 1(2,9%) trường hợp động vật cắn. Trong 13 trường hợp do dao thì có 9(25,7%) trường hợp tự cắt, 4(11,4%) trường hợp còn lại do ẩu đả(15). Theo Churukanti và cộng sự (2016), nghiên cứu 23 trường hợp cũng ở Hoa Kỳ thì 70% do bị tấn công bằng súng ngắn, 11% do tự gây ra hay tự sát, 3% do động vật cắn(7). So với nghiên cứu của chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu là TNGT và TNLĐ, rõ ràng có sự khác biệt về nguyên nhân vết thương tinh hoàn, điều này hoàn toàn có thể giải thích qua tình trạng chính trị và xã hội của Việt Nam và Hoa Kỳ khác xa nhau hoàn toàn. Ở Hoa Kỳ cho phép người dân sử dụng súng, Việt Nam thì không nên tổn thương do súng trong các nghiên cứu trên chiếm đa số. Ngược lại ở Việt Nam tình trạng giao thông cực phức tạp và trang bị bảo hộ lao động thiếu thốn, ở Hoa Kỳ thì không như vậy nên tổn thương do TNGT và TNLĐ chiếm đa số trong nghiên cứu của chúng tôi. Một nghiên cứu khác ở Nigeria, một đất nước đang phát triển, nền kinh tế xã hội tương đối tương đồng với Việt Nam, tác giả Ahmed và cộng sự (2008) báo cáo 131 trường hợp vết thương bộ phận sinh dục ngoài, trong đó 17 trường hợp vết thương tinh hoàn thì nguyên nhân chủ yếu là TNGT và TNLĐ (máy nghiền) chiếm 78,7%, do súng ngắn chiếm 16%, do dao chiếm 1,5%(2). Ta thấy nghiên cứu này nguyên nhân chủ yếu cũng là TNGT và TNLĐ tương đương với nghiên cứu của chúng tôi. Đối với chấn thương tinh hoàn, tỉ lệ cứu được tinh hoàn rất cao 41/43 trường hợp, cách thức điều trị ngoại khoa chủ yếu là khâu bao trắng, bảo tồn tối đa chủ mô tinh hoàn, 38 trường hợp (độ II, III, IV), 3 trường hợp (độ I) phẫu thuật thám sát, rạch bao trắng giải áp, lấy máu cục. Trong 3 trường hợp độ I điều trị ngoại khoa, 2 trường hợp bệnh nhân gặp chấn thương tinh hoàn lớn hơn 20 ngày được điều trị nội khoa, bệnh không giảm, khi can thiệp phẫu thuật tinh hoàn chấn thương sưng to chứa nhiều máu cục trong tinh hoàn, phải rạch tinh hoàn giải áp lấy máu hết máu cục và khâu lại bao trắng. 1 trường hợp còn lại bệnh nhân được mổ thám sát khi kết quả siêu âm ghi nhận vỡ tinh hoàn, nhưng thực tế phẫu thuật thì không ghi nhận vỡ tinh hoàn, kích thước tinh hoàn bình thường, chỉ ghi nhận hơi bầm tím chủ mô tinh hoàn. Đây là một trong những trường hợp dương tính giả trên siêu âm dẫn đến điều trị quá Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 84 mức. Chỉ có 2 trường hợp (độ V) phải cắt bỏ tinh hoàn. Một trong hai trường hợp này bệnh nhân bị con heo húc vào bộ phận sinh dục, bệnh nhân có khám ở y tế địa phương và được cho thuốc uống (không rõ loại), sau 2 tuần điều trị bệnh không giảm, bìu còn sưng to và đau nên mới đi khám và điều trị tại Bệnh viện Bình Dân. Tại đây bệnh nhân được siêu âm, MRI chẩn đoán và được phẫu thuật thám sát. Kết quả là tinh hoàn trái của bệnh nhân bị vỡ nát và hoại tử đen, nên quyết định cắt tinh hoàn. Đây là trường hợp bệnh nhân đến trung tâm chuyên ngành trễ sau chấn thương vùng bìu dẫn đến cắt tinh hoàn. Theo Cass và cộng sự (1991) thì bệnh nhân đến viện trong 72h tỉ lệ cắt tinh hoàn 9%, nếu đến sau 72h tỉ lệ này tăng lên 45%(5). Còn theo Buckley và cộng sự (2006) ghi nhận có 4/5 bệnh nhân phải cắt tinh hoàn đến viện trễ sau 48h(3). Một số nghiên cứu trong thập niên 90 của thế kỷ 20 cũng cho thấy có 80-90% tổn thương tinh hoàn được cứu nếu điều trị đúng cách trong 72giờ đầu sau chấn thương, tỉ lệ này sẽ giảm khoảng 30% nếu bệnh nhân đến trễ sau 72giờ(6,10). Trường hợp còn lại phải cắt tinh hoàn do tình trạng nặng của tổn thương. Đối với vết thương tinh hoàn, trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 21 trường hợp được điều trị ngoại khoa, 7 trường hợp (33,3%) tổn thương 2 bên tinh hoàn, nên tổng cộng 28 đơn vị tinh hoàn được phẫu thuật. Trong 7 trường hợp khâu bao trắng tinh hoàn có 9 đơn vị tinh hoàn được cứu, 14 trường hợp cắt tinh hoàn có 19 đơn vị tinh hoàn bị cắt bỏ nên tỉ lệ cứu được tinh hoàn chúng tôi là 9/28 đơn vị tinh hoàn chiếm 32,1%. Theo Phonsombat (2008) có 23/47 đơn tinh hoàn được cứu chiếm 48,9% các trường hợp vết thương tinh hoàn. Các trường hợp vết thương tinh hoàn do súng thì tỉ lệ phần trăm cứu được nhiều hơn so với vết thương tinh hoàn do dao, theo tuần tự là 18/24 tinh hoàn (75%) so với 5/22 tinh hoàn (22,7%). Đặc biệt chỉ có 4/17 tinh hoàn (23,5%) được cứu do tự cắt(15). Vậy những trường hợp tự cắt tinh hoàn, khả năng cứu được tinh hoàn đó thấp từ 0-23,5%. Theo Bjurlin (2013) có 65% tinh hoàn được cứu, 35% tinh hoàn không cứu được. Còn theo Churukanti 2016 có 20/30 tinh hoàn (67%) được cứu, 10 tinh hoàn (33%) không cứu được(7). Trong số liệu nghiên cứu của chúng tôi, không có trường hợp chấn thương tinh hoàn nào bị cắt cả 2 tinh hoàn. Đối với vết thương tinh hoàn có 5 trường hợp phải cắt bỏ cả 2 tinh hoàn trong đó 1 trường hợp chúng tôi đã đề cập đến ở phần trên nguyên nhân là tự cắt trên bệnh nhân tâm thần; 3 trường hợp do TNGT với tình trạng tổn thương nặng của tinh hoàn (độ V) nên phải cắt cả 2 bên; trường hợp còn lại do TNLĐ bệnh nhân là ngư dân bị chân vịt của động cơ chém vào bộ phận sinh dục ngoài, chém đứt quy đầu, mất hết 2 tinh hoàn và lóc da dương vật, nên trường hợp này không thể cứu được tinh hoàn. KẾT LUẬN Chấn thương, vết thương tinh hoàn là cấp cứu niệu khoa, tuy không ảnh hưởng đến tính mạng nhưng để lại nhiều vấn đề và tâm lý và chất lượng cuộc sống nếu không bảo tồn được cả 2 tinh hoàn. Nguyên nhân tổn thương tinh hoàn ở các nước phát triển thường là do ẩu đả và liên quan đến hoạt động thể thao, còn các nước đang phát triển chủ yếu là do TNGT và TNLĐ. Tổn thương tinh hoàn độ I, điều trị nội khoa là lựa chọn điều trị đầu tay. Chỉ cắt tinh hoàn khi tổn thương độ V và những trường hợp vết thương đứt cuống thừng tinh đến trễ sau 6h. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aboseif L, Gomez R, McAninch JW (1993), "Genital self- mutilation", The journal of urology, vol 150, pp 1143-1146. 2. Ahmed NH, Mbibu H (2008), "Aetiology and management of injuries to male external genitalia in Nigeria", Injury, 39 (1), pp 128-133. 3. Buckley JC, McAninch JW (2006), "Diagnosis and management of testicular ruptures", Urol Clin North Am, 33 (1), pp 111-116. 4. Buckley JC, McAninch JW (2006), "Use of ultrasonography for the diagnosis of testicular injuries in blunt scrotal trauma", J Urol, 175 (1), pp 175-178. 5. Cass AS, Luxenberg M (1991), "Testicular injuries.", Urology, 37 (6), pp 528-530. 6. Chang AJ, Brandes SB (2013), "Advances in diagnosis and management of genital injuries", Urology clinical North American, 40 (3), pp 427-438. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 85 7. Churukanti GR, Kim A, Rich DD, Schuyler KG, Lavien GD, Stein DM, Siddiqui (2016), "Role of Ultrasonography for Testicular Injuries in Penetrating Scrotal Trauma", Urology, 95, pp 208-212. 8. Deurdulian C, Mittelstaedt CA, Chong WK, Fielding JR (2007), "US of acute scrotal trauma: optimal technique, imaging findings, and management", Radiographics, 27 (2), pp 357-369. 9. Lee SH, Bak CW, Choi MH, Lee HS, Lee MS, Yoon SJ (2007), "Trauma to male genital organs: a 10-year review of 156 patients, including 118 treated by surgery", BJU Int, 101 (2), pp 211-215. 10. Lee SH, Lee DG, Choi SK, Choi T, Yoo KH (2017), "Trends in testicular injury in Korea, 1986–2015", J Korean Med Sci, 32, pp 1669-1673. 11. McGeady JB, Breyer BN (2013), "Current epidemiology of genitourinary trauma", Urol Clin North Am, 40 (3), pp 323-334. 12. Nakaya (1996), "On background factors of male genital self- mutilation", Spychopathology, 29, pp 242-248. 13. Ngô Gia Hy (1988), "Thương tích bìu và tinh hoàn", Cấp cứu niệu khoa, tập 1, NXB Y Học, pp tr 209-216. 14. Park JS, Lee SJ (2007), "Testicular injuries-efficacy of the organ injury scale developed by the American association for the surgery of trauma", Korean Journal of Urology, 48 (1), pp 61-65. 15. Phonsombat S, Master VA, McAninch JW (2008), "Penetrating external genital trauma: a 30-year single institution experience", J Urol, 180 (1), pp 192-196. 16. Summerton DJ, (Chair) Djakovic N, Kitrey ND, Kuehhas FE, Lumen N, Serafetinidis E, Sharma DM (2015), "Genital Trauma", EAU Guidelines on Urological Trauma, pp 38-42. 17. Terrier JE, Paparel P, Gadegbeku B, Ruffion A, Jenkins LC, N'Diaye A (2017), "Genitourinary injuries after traffic accidents: Analysis of a registry of 162,690 victims ", J Trauma Acute Care Surg, 82 (6), pp 1087-1093. 18. Trần Lê Linh Phương, Lê Hoàng (2001), "Tình hình chấn thương và vết thương bộ phận sinh dục ngoài điều trị tại BV Chợ Rẫy trong 3 năm 1998-2000", Y Học TP. Hồ Chí Minh,, tập 5 (phu bản số 4), pp 95-101. Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_chan_doan_va_dieu_tri_chan_thuong_vet_thuong_tinh_h.pdf
Tài liệu liên quan