Tài liệu Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
188 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đánh giá cạnh tranh trong
một số ngành dịch vụ của Việt Nam
BỘ CÔNG THƯƠNG
CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH
ĐÁNH GIÁ CẠNH TRANH
TRONG MỘT SỐ NGÀNH DỊCH VỤ CỦA
VIỆT NAM
NHµ XUÊT B¶N C¤NG TH¦¥NG
Hà Nội - 2014
Mã Số: KT 06 ĐT 14
LỜI MỞ ĐẦU
Cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị
trường và cũng là động lực của sự phát triển. Duy trì môi trường
cạnh tranh lành mạnh đồng nghĩa với việc duy trì một môi
trường kinh doanh bình đẳng góp, phần thúc đẩy tối đa tiềm lực
của doanh nghiệp, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội.
Nhằm mục đích đánh giá mức độ và môi trường cạnh
tranh của các lĩnh vực dưới góc độ chính sách, pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam, Cục Quản lý Cạnh tranh xây dựng và
hoàn thiện Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ
của Việt Nam
Tài liệu tập trung đánh giá, phân tích môi trường cạnh tranh
trong các ngành dịch vụ: bán lẻ điện máy, chứng khoán, dịch vụ
chuyển phát nhanh, thẻ ngân hàng. Báo cáo cũng chỉ ra các rào
cản và bất cập về cạnh tranh trên thị trường, từ đó làm cơ sở để
đưa ra các khuyến nghị chính sách đối với các cơ quan quản lý
nhà nước, cơ quan điều tiết ngành cũng như cho chính các doanh
nghiệp trong việc duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên tham gia thị trường.
Quá trình thực hiện Đánh giá cạnh tranh trong một số
ngành dịch vụ của Việt Nam có thể còn một số sai sót, Cục
Quản lý Cạnh tranh rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của bạn đọc.
Trân trọng cảm ơn./.
CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH
7
Danh mục bảng
Tên Bảng Trang
Bảng 1: Doanh thu nhóm hàng điện tử năm 2013 18
Bảng 2 : Số liệu thị phần và chỉ số mức độ tập trung của 05
doanh nghiệp đứng đầu trên thị trường bán lẻ điện máy
24
Bảng 3 : Số lượng cửa hàng và số tỉnh thành hiện diện của một
số thương hiệu (Số liệu cập nhật đến 09/2012)
25
Bảng 4: Quy mô niêm yết tại sàn HNX 45
Bảng 5: Thị phần các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường trong lĩnh
vực dịch vụ chuyển phát năm 2010
108
Bảng 6: Thị phần các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường trong lĩnh
vực dịch vụ chuyển phát năm 2011
110
Bảng 7: Thị phần các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường trong lĩnh
vực dịch vụ chuyển phát năm 2012
111
Bảng 8: So sánh các doanh nghiệp chuyển phát trong nước và
nước ngoài
124
Bảng 9: Thống kê hình thức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
chuyển phát trong nước
Bảng 10: So sánh giá cả chuyển phát đi Singapore của một số
doanh nghiệp lớn trên thị trường
129
Bảng 11: Số liệu giao dịch qua ATM,
POS/EFTPOS/EDC 2012 -2013
144
Bảng 12: Tỷ trọng sử dụng thẻ ngân hàng 144
Bảng 13: Thị phần 5 ngân hàng dẫn đầu thị trường giai đoạn
2006 - 2008
149
Bảng 14: Thị phần 10 ngân hàng lớn nhất giai đoạn 2010 - 2012 149
Bảng 15: Thị phần 10 ngân hàng lớn nhất về số lượng phát hành
thẻ 2012
150
8 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Bảng 16: Thị phần 10 ngân hàng lớn nhất về doanh số trong lĩnh
vực thẻ năm 2012
151
Bảng 17: Chỉ số CR3 - CR5 giai đoạn 2006 - 2012 154
Bảng 18: Các loại chi phí trong lĩnh vực dịch vụ thẻ 170
Bảng 19: Đầu tư của ngân hàng nước ngoài tại các ngân hàng
Việt Nam
178
9
Danh môc biÓu ®å
Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 1: Doanh thu theo nhóm sản phẩm quý I/2013 19
Biểu đồ 2: Doanh thu thị trường bán lẻ điện máy năm 2011 21
Biểu đồ 3: Doanh thu thị trường bán lẻ điện máy năm 2012 21
Biểu đồ 4: Thị phần thị trường bán lẻ điện máy năm 2011 22
Biểu đồ 5: Thị phần thị trường bán lẻ điện máy năm 2012 22
Biểu đồ 6: Chỉ số tập trung CR3, CR5 trên thị trường bán lẻ điện máy 25
Biểu đồ 7: Giá trị niêm yết và vốn hóa thị trường qua các năm của
sàn HOSE
45
Biểu đồ 8: Thị phần các công ty chứng khoán trên sang HOSE giai
đoạn 2009 - 2012
59
Biểu đồ 9: Thị phần các công ty chứng khoán trên sang HNX giai
đoạn 2009 - 2012
60
Biểu đồ 10: Chỉ số CR3, CR5 trên sàn HOSE giai đoạn 2009 - 2012 64
Biểu đồ 11: Chỉ số CR3, CR5 trên sàn HNX giai đoạn 2009 - 2012 64
Biểu đồ 12: Chỉ số HHI trên sàn HOSE giai đoạn 2009 - 2012 65
Biểu đồ 13: Chỉ số HHI trên sàn HNX giai đoạn 2009 - 2012 66
Biểu đồ 14: Doanh thu của các doanh nghiệp hoạt động trên thị
trường chuyển phát giai đoạn 2010 - 2012
107
Biểu đồ 15: Số lượng doanh nghiệp hoạt động trên thị trường
chuyển phát giai đoạn 2010 - 2012
108
Biểu đồ 16: Thị phần các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường trong
lĩnh vực dịch vụ chuyển phát năm 2010
109
10 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Biểu đồ 17: Thị phần các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường trong
lĩnh vực dịch vụ chuyển phát năm 2011
110
Biểu đồ 18: Thị phần các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường trong
lĩnh vực dịch vụ chuyển phát năm 2012
111
Biểu đồ 19: Chỉ số CR3 - CR4 của thị trường chuyển phát giai đoạn
2010 - 2012
112
Biểu đồ 20: Chỉ số HHI của thị trường chuyển phát giai đoạn 2010 - 2012 113
Biểu đồ 21: Số lượng thẻ ngân hàng qua các năm 143
Biểu đồ 22: Lượng thẻ phát hành năm 2012 145
Biểu đồ 23: So sánh thị phần số lượng thẻ và doanh số kinh doanh
thẻ 2012
152
Biểu đồ 24: Thị phần số lượng thẻ một số ngân hàng năm 2012 153
Biểu đồ 25: Chỉ số CR giai đoạn 2006 - 2012 155
Biểu đồ 26: Chỉ số CR trong lĩnh vực thẻ ngân hàng năm 2012 156
Biểu đồ 27: Số lượng ATM và máy POS của khối NHTMNN 171
Biểu đồ 28: Cơ cấu tổng số lượng thẻ một số ngân hàng năm 2010 172
11
MỤC LỤC
Danh mục Trang
PHẦN A - BÁN LẺ ĐIỆN MÁY 13
I. TỔNG QUAN NGÀNH BÁN LẺ ĐIỆN MÁY TẠI VIỆT NAM 13
1. Khái niệm và quy mô thị trường 14
2. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường 19
3. Thị phần và mức độ tập trung trên thị trường 20
4. Mối quan hệ của các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ điện
máy
26
II. CÁC RÀO CẢN GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG 26
1. Các rào cản kỹ thuật và mặt bằng 26
2. Các rào cản về tài chính 27
3. Các rào cản từ chính sách đối với hoạt động kinh doanh 27
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRÊN THỊ
TRƯỜNG BÁN LẺ ĐIỆN MÁY
33
1. Cạnh tranh theo chiều ngang 33
2. Cạnh tranh theo chiều dọc 34
IV. ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ 35
1. Đánh giá môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ điện máy 35
2. Khuyến nghị 38
PHẦN B - CHỨNG KHOÁN 41
I. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG KINH DOANH CHỨNG
KHOÁN
41
12 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam 41
2. Thị trường liên quan trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán 52
3. Các công ty chứng khoán - Đối thủ cạnh tranh 55
4. Mức độ liên kết và tập trung trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán
57
5. Sự gia nhập và rút lui khỏi thị trường 66
II. MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CHỨNG KHOÁN BAO GỒM HOẠT ĐỘNG CẠNH
TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
68
1. Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành 68
2. Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành 74
3. Cơ quan quản lý nhà nước 83
III. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRONG LĨNH
VỰC KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
85
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán
85
2. Thực trạng hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán
81
3. Nhận diện các hành vi phản cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán
96
4. Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh trên thị trường kinh
doanh chứng khoán trong mối liên hệ với Luật Chứng khoán và
các luật có liên quan
100
IV. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ KHUYẾN NGHỊ 101
1. Đánh giá về môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán
101
13
2. Khuyến nghị 102
PHẦN C - DỊCH VỤ CHUYỂN PHÁT NHANH 105
I. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ CHUYỂN PHÁT
TẠI VIỆT NAM
105
1. Thị trường liên quan 105
2. Quy mô thị trường 106
3. Cấu trúc thị trường 107
II. CÁC RÀO CẢN GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG 114
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ chuyển phát 114
2. Rào cản tự nhiên 115
3. Rào cản pháp lý và tác động của thể chế chính sách 118
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRÊN THỊ
TRƯỜNG DỊCH VỤ CHUYỂN PHÁT
123
1. Các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường chuyển phát 123
2. Thực trạng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị
trường
126
3. Các hành vi cạnh tranh trên thị trường chuyển phát 131
IV. ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ 135
1. Đánh giá chung 135
2. Khuyến nghị 137
PHẦN D - NGÀNH THẺ NGÂN HÀNG 143
I. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG THẺ NGÂN HÀNG 143
1. Quy mô thị trường 143
14 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
2. Số lượng doanh nghiệp hoạt động trên thị trường 145
3. Thị phần và mức độ tập trung trên thị trường 148
II. CÁC RÀO CẢN GIA NHẬP VÀ RÚT LUI KHỎI THỊ
TRƯỜNG DỊCH VỤ THẺ
156
1. Rào cản tự nhiên 156
2. Môi trường pháp lý ( Rào cản pháp lý) 160
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRÊN THỊ
TRƯỜNG
167
1. Thực trạng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng 167
2. Thực trạng và phương thức cạnh tranh trong kinh doanh thẻ 169
3. Cạnh tranh và nguy cơ vi phạm pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực
thẻ ngân hàng
171
IV. ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ 180
1. Đánh giá môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng 180
2. Khuyến nghị 183
Bán lẻ điện máy 15
PHẦN A
BÁN LẺ ĐIỆN MÁY
I. TỔNG QUAN NGÀNH BÁN LẺ ĐIỆN MÁY TẠI VIỆT NAM
Những năm gần đây, thị trường bán lẻ của Việt Nam ngày càng
hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là các thương hiệu bán lẻ nổi tiếng
của nước ngoài. Với sức tiêu thụ tăng do đời sống người dân đang
ngày một nâng cao cùng với lộ trình giảm thuế đối với các mặt hàng
tiêu dùng theo cam kết của Việt Nam, thị trường bán lẻ ngày càng
thêm sôi động. Trong một đánh giá về thị trường bán lẻ, Bộ Công
Thương nhận định sau 5 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), ngành bán lẻ Việt Nam phát triển với tốc độ khá cao, bước
đầu tạo được vị thế trên thị trường, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Mặc dù nền kinh tế khó khăn, thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn được
coi là đầy tiềm năng để các nhà đầu tư khai thác. Theo thống kê của
Bộ Công Thương, số lượng siêu thị thành lập mới cuối năm 2012, đầu
năm 2013 tăng hơn 20%, số trung tâm thương mại thành lập mới tăng
hơn 72%.
Đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, việc mở rộng và tái
cấu trúc hệ thống bán lẻ đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết. Thông
qua hoạt động đầu tư trực tiếp, nhượng quyền thương mại hoặc góp
vốn liên doanh, các doanh nghiệp Việt Nam đã mở rộng mạng lưới
bán hàng, khai thác và kết hợp nguồn lực của nhiều doanh nghiệp nhỏ
trở thành hệ thống có quy mô lớn và trình độ tổ chức cao đang ngày
một phát triển. Qua đó, một số nhà bán lẻ đã tổ chức được mô hình
bán hàng theo chuỗi với số lượng cửa hàng tăng lên hàng năm.
Bên cạnh mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước,
ngành bán lẻ Việt Nam đã và đang thành công trong việc thu hút được
sự tham gia của nhiều thương hiệu bán lẻ nổi tiếng trên thế giới. Các
nhà bán lẻ nước ngoài đang có mặt tại thị trường bán lẻ Việt Nam như
Casino (siêu thị Big C), LotteMart (Hàn Quốc) tiếp tục mở rộng hệ
16 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
thống kinh doanh. Gần đây, tập đoàn bán lẻ điện máy Nojima Corp
của Nhật Bản cũng tham gia vào thị trường bán lẻ điện máy thông qua
việc mua 10% cổ phần của Công ty Cổ phần Thế giới số Trần Anh.
Do thị trường bán lẻ rất rộng lớn, bao gồm rất nhiều nhóm sản
phẩm tiêu dùng, các nhóm sản phẩm này có tính chất khác biệt tương
đối nên việc đánh giá môi trường cạnh tranh trên thị trường bán lẻ
tương đối phức tạp và không thể hiện được chính xác thực trạng môi
trường cạnh tranh của các doanh nghiệp trên từng nhóm sản phẩm.
Bên cạnh đó, trong cuộc sống hiện đại, khi nhu cầu giải trí và giải
phóng sức lao động tăng cao, điện máy đang trở thành một mặt hàng
rất quan trọng trong đời sống tiêu dùng của người dân. Hơn nữa, do
yêu cầu đặc thù về mặt kỹ thuật, hoạt động bán lẻ điện máy có tính
chuyên biệt tương đối cao so với các sản phẩm khác và đây cũng là
một thị trường có doanh thu lớn với hoạt động cạnh tranh sôi động.
Do vậy, báo cáo sẽ không đánh giá thị trường bán lẻ trên bình diện
chung mà tập trung phân tích và đánh giá cạnh tranh trên thị trường
bán lẻ điện máy của Việt Nam.
1. Khái niệm và quy mô thị trường
Nhu cầu tiêu dùng của xã hội luôn có xu hướng phát triển cả về
quy mô lẫn chất lượng. Do vậy, các nhà sản xuất và bán lẻ cũng luôn
tìm ra các phương thức tối ưu để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Như trên đã phân tích, cuộc sống hiện đại đòi hỏi các nhà cung cấp
không chỉ tạo ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng mà còn cả cách thức bán hàng, vận chuyển, lắp đặt và bảo hành
các sản phẩm đó. Vì vậy, thị trường bán lẻ điện máy mà báo cáo này
hướng tới phân tích là một phần của thị trường bán lẻ nhưng hàng hóa
chỉ giới hạn trong nhóm sản phẩm điện gia dụng, điện tử, điện lạnh,
thiết bị văn phòng, sản phẩm thông tin liên lạc, máy ảnh và máy tính.
Nằm trong thị trường bán lẻ tiềm năng của Việt Nam, thị trường
bán lẻ điện máy có mức độ cạnh tranh tương đối cao với số lượng
đáng kể và cân bằng giữa các doanh nghiệp gia nhập và rút lui khỏi thị
trường. Do nhu cầu của người tiêu dùng đối với các mặt hàng điện
Bán lẻ điện máy 17
máy không giống nhau và chịu sự tác động của nền kinh tế cũng như
thu nhập của người dân nên các nhà bán lẻ điện máy luôn phải nhạy
bén trong việc đáp ứng đúng và kịp thời các nhu cầu này để giảm
lượng hàng tồn kho và tăng doanh số bán hàng. Trong những năm gần
đây, chính sự cạnh tranh tương đối khốc liệt đã khiến không ít các siêu
thị thua lỗ và còn nhiều hàng tồn kho, nhất là những mặt hàng có giá
trị lớn như tivi và máy lạnh. Năm 2012, do tác động tiêu cực của nền
kinh tế, thị trường điện máy đã sụt giảm đáng kể với mức tăng trưởng
âm 20%
1
. Rất nhiều doanh nghiệp bán lẻ điện máy gặp khó khăn, lợi
nhuận giảm mạnh hoặc thua lỗ, một số siêu thị phải đóng cửa hoặc cắt
giảm số lượng điểm bán hàng.
Theo các doanh nghiệp, mỗi siêu thị điện máy phải có doanh số
bán hàng từ 20 đến 30 tỷ đồng/tháng (khoảng 700 triệu đến 1 tỷ
đồng/ngày) mới có thể tồn tại. Tuy nhiên, năm 2012, doanh thu các
siêu thị điện máy tại Hà Nội chỉ ở mức 100 triệu đồng/ngày. Theo
thống kê của các doanh nghiệp, tại các thành phố với sức tiêu thụ lớn
như Hà Nội, có những siêu thị (tại khu vực phía Tây) mỗi ngày chỉ đạt
200 triệu đồng doanh số bán hàng. Những siêu thị này chỉ có thể tồn
tại trong vòng 6 tháng và sau đó đã phải thu hẹp quy mô.
Dưới sự ảnh hưởng của nền kinh tế và sự khốc liệt của cạnh
tranh, sự phân hóa giữa các nhà bán lẻ đang ngày càng rõ ràng. Khủng
hoảng và suy giảm có thể khiến các doanh nghiệp yếu hơn gặp khó
khăn và có thể phải rút lui khỏi thị trường nhưng cũng là cơ hội để các
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh và kinh nghiệm quản lý tốt
có thêm cơ hội tái cấu trúc và chiếm lĩnh thị trường. Trong khi một số
hệ thống siêu thị điện máy như Nguyễn Kim, FPT, PICO thực hiện
chiến lược mở rộng thêm siêu thị thì một số thương hiệu như Việt
Long đang dần thu hẹp quy mô.
Trong các mặt hàng điện máy, nhóm sản phẩm điện thoại
thường đem lại doanh số bán hàng lớn cho các doanh nghiệp. Theo
1
.Trần Thủy, “Siêu thị điện máy giảm giá rồi bán cả doanh nghiệp”, Vietnamnet
(
dn.html)
18 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
báo cáo mới nhất của GFK Việt Nam, nhóm sản phẩm điện thoại
thông thường là nhóm có mức doanh thu lớn nhất trong ngành hàng
công nghệ điện tử ở Việt Nam. Chỉ trong quý I năm 2013, doanh số
của sản phẩm điện thoại đã đạt mức 30.000 tỉ đồng, dẫn đầu trong các
nhóm sản phẩm hàng điện máy.
Tiếp sau điện thoại di động là nhóm hàng điện tử. Trong quý
I/2013, nhóm sản phẩm điện tử đạt doanh thu 5.300 tỉ đồng và tăng
trưởng ở mức 11,5%.
Bảng 1: Doanh thu nhóm hàng điện tử năm 2013
Q2/2012
VND bn
Q3/2012
VND bn
Q4/2012
VND bn
Q1/2013
VND bn
Q1/2012
Q1/2013
+/-%
Sản phẩm điện tử (CE) 3,707 3,569 4,238 5,337 11,5%
Máy ảnh (PH) 470 456 543 567 0,3%
Sản phẩm điện lạnh
(MDA)
3,620 3,840 4,106 5,067 37,1%
Sản phẩm điện gia
dụng (SDA)
638 665 692 856 25,9%
Sản phẩm công nghệ
thông tin (IT)
5,121 6,314 7,397 5,902 2,8%
Sản phẩm thông tin
liên lạc (TC)
7,290 7,429 7,619 9,685 22,8%
Sản phẩm công nghệ
cho văn phòng
319 396 494 376 6,7%
GIK TEMAX Việt Nam 21,166 22,669 25,089 27,790 17,2%
Nguồn: Báo cáo khảo sát của Công ty nghiên cứu thị trường GFK Việt Nam
Theo GFK, thị trường máy tính bảng trong 3 tháng qua đã đạt
mức tăng trưởng ấn tượng. Mặc dù 2 sản phẩm màn hình và máy tính
để bàn giảm khá nhiều, nhưng máy tính bảng vẫn đạt doanh số 912 tỉ
và tăng trưởng khá ấn tượng trong quí ở mức 73,3% so với cùng kì
Bán lẻ điện máy 19
năm 2012. Chính con số này đã góp phần cho thị trường công nghệ
thông tin tăng trưởng 2,8% trong quí I năm 2013.
Với tổng doanh thu 856 tỉ VND trong quí I năm 2013, nhóm sản
phẩm điện gia dụng đạt mức tăng 25,9% so với cùng kì năm 2012
Trong đó, các sản phẩm máy xay sinh tố, và đặc biệt là nồi cơm điện
có mức tăng trưởng khá tốt.
Nhóm sản phẩm có doanh số thấp nhất trong các sản phẩm điện
máy là thiết bị in ấn và văn phòng. Doanh thu trong quý I năm 2013
của nhóm sản phẩm này là 376 tỉ và mức tăng trưởng là 6,7% so với
cùng kỳ năm 2012, trong đó máy in đa chức năng tăng trưởng nhẹ so
với máy in đơn chức năng.
Biểu đồ 1: Doanh thu theo nhóm sản phẩm quý I/2013
Nguồn: Báo cáo khảo sát của Công ty Nghiên cứu Thị trường GFK Việt Nam
2. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường
Thị trường bán lẻ điện máy tại Việt Nam hiện có 35 doanh
nghiệp tham gia,2 trong đó chiếm thị phần lớn là các siêu thị điện máy.
Các siêu thị điện máy thường được chia thành 02 nhóm dựa trên
2
. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2012.
30000
5300
376
912
856
0 20000 40000
Điện thoại
Điện tử
Thiết bị in ấn & văn
phòng
Máy tính bảng
Điện gia dụng
Doanh thu quý
I/2013 (tỷ đồng)
20 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
doanh số bán thực tế và cam kết tiêu thụ sản phẩm đối với nhà sản
xuất hoặc nhà phân phối.
Nhóm thứ nhất là nhóm các siêu thị điện máy lớn như Media
Mart, Pico, Nguyễn Kim, Trần Anh, TopCare và Thế giới di động.
Đây là các siêu thị điện máy có doanh số bán hàng cam kết và thực tế
đối với các nhà sản xuất hoặc phân phối là lớn. Các siêu thị này tập
trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhóm thứ hai là nhóm các siêu thị điện máy có sức tiêu thụ nhỏ
hơn và các siêu thị có bán ngành hàng điện máy và cơ sở bán lẻ điện
máy nhỏ truyền thống khác. Các nhà bán lẻ điện máy này thường có ít
điểm bán hàng hơn và đa phần là nằm tại các tỉnh, thành phố khác
ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
3. Thị phần và mức độ tập trung trên thị trường
Điều 3 Luật Cạnh tranh quy định, “thị phần của doanh nghiệp
đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa
doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả
các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị
trường liên quan theo tháng, quý, năm”. Như đã phân tích ở trên, bán
lẻ điện máy trong báo cáo này là một phần của thị trường bán lẻ
nhưng hàng hóa chỉ giới hạn trong nhóm sản phẩm điện gia dụng, điện
tử, điện lạnh, thiết bị văn phòng, sản phẩm thông tin liên lạc, máy ảnh
và máy tính. Do vậy, thị trường liên quan ở đây là thị trường dịch vụ
bán lẻ các sản phẩm điện máy nói trên. Ngoài ra, do việc xác định
doanh số bán lẻ của các cơ sở bán lẻ điện máy truyền thống quy mô
nhỏ là tương đối phức tạp và không khả thi nên báo cáo không thể
đánh giá và phân tích thị phần của các đối tượng này.
Những số liệu dưới đây cho thấy phần nào quy mô của một số
doanh nghiệp lớn nhất trong ngành.
Bán lẻ điện máy 21
Biểu đồ 2: Doanh thu thị trường bán lẻ điện máy năm 2011
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
Biểu đồ 3: Doanh thu thị trường bán lẻ điện máy năm 2012
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
6544
5386
3258
1912
1696
1625
1325
856
0 2000 4000 6000 8000
Nguyễn Kim
Thế giới di động
Chợ Lớn
Phan Khang
Trần Anh
Viễn Thông A
Mediamart
Nhật Cường
Doanh thu (tỷ đồng)
6544
5386
3258
1912
1696
1625
1325
856
0 2000 4000 6000 8000
Nguyễn Kim
Thế giới di động
Chợ Lớn
Phan Khang
Trần Anh
Viễn Thông A
Mediamart
Nhật Cường
Doanh thu (tỷ đồng)
22 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Biểu đồ 4: Thị phần thị trường điện máy năm 2011
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
Biểu đồ 5: Thị phần thị trường điện máy năm 2012
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
14.31%
9.57%
5.63%
2.84%
2.25%
2.16%
1.93%
1.42%
59.89%
Nguyễn Kim 14.31%
Thế giới di động 9.57%
Điện máy Chợ Lớn 5.63%
Phan Khang 2.84%
Trần Anh 2.25%
Viễn Thông A 2.16%
Mediamart 1.93%
Nhật Cường 1.42%
Khác 59.89%
14.56%
9.74%
5.82%
3.06%
2.64%
2.26%
1.96%
1.51%
58.45%
Nguyễn Kim 14.56%
Thế giới di động 9.74%
Điện máy Chợ Lớn 5.82%
Phan Khang 3.06%
Trần Anh 2.64%
Viễn Thông A 2.26%
Mediamart 1.96%
Nhật Cường 1.51%
Khác58.45%
Bán lẻ điện máy 23
Biểu đồ cho thấy thị phần của các doanh nghiệp bán lẻ điện máy
trên thị trường Việt Nam không cao nhưng tập trung vào các doanh
nghiệp lớn, có nguồn lực đầu tư mạnh và có kinh nghiệm lâu năm trên
thị trường. Thị phần cao nhất trên thị trường thuộc về Trung tâm Điện
máy Nguyễn Kim. Tại thị trường nội địa nói chung và thị trường miền
Nam nói riêng, với vị trí nằm trong TOP 500 nhà bán lẻ hàng đầu khu
vực châu Á - Thái Bình Dương và nhà bán lẻ số 2 trong Top 10 Việt
Nam, Nguyễn Kim đã giữ ngôi đầu trong lĩnh vực bán lẻ điện máy.
Tuy nhiên, thị phần của Nguyễn Kim thấp hơn rất nhiều so với
ngưỡng 30% của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo quy
định của Luật Cạnh tranh năm 2004. Do đó, ngay cả doanh nghiệp có
thị phần cao nhất trên thị trường cũng không đủ khả năng đơn phương
thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh.
Trên thực tế, mức thị phần này có thể có sự thay đổi đáng kể khi
các doanh nghiệp trên thị trường có những hoạt động tái cấu trúc và
tăng cường năng lực cạnh tranh. Giữa năm 2013, thị trường có thêm
doanh nghiệp nước ngoài gia nhập là Nojima của Nhật Bản. Nojima
đã chính thức đầu tư hơn 64 tỉ đồng để sở hữu 10% số cổ phần của
Công ty Cổ phần Thế giới số Trần Anh. Với kinh nghiệm quản lý của
một nhà bán lẻ điện máy nổi tiếng trên thế giới và tiềm lực tài chính
hùng mạnh, Trần Anh đã sở hữu chuỗi siêu thị điện máy có quy mô
lớn ở khu vực miền Bắc. Điều này có thể khiến cuộc chiến giành thị
phần trên thị trường điện máy trong thời gian tới trở nên khốc liệt hơn.
Bên cạnh việc cung cấp thông tin về sức mạnh thị trường của
các doanh nghiệp, biểu đồ trên còn cho thấy ngoài thị phần của các
doanh nghiệp dẫn đầu, phần còn lại của thị trường siêu thị bán lẻ điện
máy là còn rất lớn. Do đó, sức hấp dẫn của thị trường là rất đáng kể,
đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh và có
kinh nghiệm trong hoạt động bán lẻ. Hơn nữa, phần thị trường còn lại
này sẽ là một động lực để các doanh nghiệp dẫn đầu gia tăng cạnh
tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường.
24 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Bảng 2: Số liệu thị phần và chỉ số mức độ tập trung của 05 doanh
nghiệp đứng đầu trên thị trường bán lẻ điện máy
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
Hoạt động cạnh tranh với mục tiêu gia tăng thị phần của các
doanh nghiệp bán lẻ ảnh hưởng rất lớn mức độ tập trung của thị
trường. Mức độ tập trung của 3 doanh nghiệp đứng đầu thị trường là
11,17% (2011), 11,61% (2012). Bên cạnh đó, chỉ số HHI là 967,52
(2011) và 988,74 (2012), đều nhỏ hơn mức 1000. Theo quy định về
ngưỡng thị phần đối với doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường theo quy định của Điều 11 Luật Cạnh tranh thì
mức độ tập trung của thị trường điện máy là không cao. Như vậy có
thể thấy các doanh nghiệp trên thị trường điện máy có sự cạnh tranh
khá bình đẳng do sức mạnh thị trường không tập trung vào bất kì một
doanh nghiệp nào.
Xét về dung lượng thị trường điện máy, thành phố Hồ Chí Minh
đang chiếm tỷ trọng khoảng 34%, Hà Nội 20% và phần còn lại thuộc
về các tỉnh và thành phố khác. Trong con số 34% này, Nguyễn Kim
đang phải chia sẻ với hàng chục nhà bán lẻ tên tuổi khác như: Điện
máy Chợ Lớn, Thiên Hoà, Dienmay.com, Phan Khang, nên cũng
không dễ dàng để Nguyễn Kim chiếm được con số thị phần thống lĩnh
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
TT Tên công ty
2011 2012
Thị
phần %
CR3 % CR5 % HHI % Thị
phần %
CR3 % CR5 % HHI %
11 Nguyễn Kim 14,31
29,51 34,6 967,52
14,56
30,12 35,82 988,74
22 Thế giới di động 9,57 9,74
33
Điện máy Chợ Lớn
(Cty Cao Phong)
5,63 5,82
44 Phan Khang 2,84 3,06
55 Trần Anh 2,25 2,64
Bán lẻ điện máy 25
Biểu đồ 6: Chỉ số tập trung CR3, CR5 trên thị trường
bán lẻ điện máy
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
Bảng 3: Số lượng cửa hàng và số tỉnh thành có hiện diện của
một số thương hiệu (số liệu cập nhật đến 9/2012)
Nguồn:Cục QLCT tổng hợp
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
12.00%
14.00%
16.00%
CR3 CR5
11.17%
13.74%
11.61%
14.37%
2011
2012
STT Thương hiệu Số cửa hàng Số tỉnh thành
1 Thế giới di động 222 63
2 Viễn Thông A 70 19
3
Siêu thị điện máy – nội thất
Chợ Lớn
20 14
4 Dienmay.com 12 9
5 Nguyễn Kim 11 6
6 Phan Khang 10 7
7 Nhật Cường 8 1
8 Trần Anh 6 1
9 Thiên Hoà 6 2
26 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
4. Mối quan hệ của các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ
điện máy
Bán lẻ điện máy là hoạt động đưa sản phẩm điện máy tới người
tiêu dùng cuối cùng. Có hai kênh chính để cung cấp sản phẩm điện
máy đến các nhà bán lẻ là nhà sản xuất và nhà phân phối. Với những
nhà sản xuất có nhà máy tại Việt Nam như LG Electronic hoặc
Samsung Electronic, các nhà bán lẻ có khả năng nhập trực tiếp sản
phẩm từ các nhà sản xuất này. Đối với những sản phẩm được sản xuất
ở nước ngoài, các nhà bán lẻ thường không nhập khẩu trực tiếp mà
mua sản phẩm thông qua các nhà phân phối.
Quan hệ giữa nhà bán lẻ và nhà sản xuất hoặc phân phối là quan
hệ mua bán hàng hóa. Quan hệ này trên thực tế tương đối phức tạp do
có sự ràng buộc giữa các bên về hỗ trợ sau bán hàng. Hàng hóa sau
khi được chuyển giao cho nhà bán lẻ sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà
bán lẻ trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên sau khi bán
hàng, nhà sản xuất bị ràng buộc bởi quy định về bảo hành giá. Theo
quy định này, nếu giá sản phẩm bị giảm thì nhà sản xuất phải hỗ trợ
bù vào phần giảm giá đó cho nhà bán lẻ. Chính điều này đã khiến nhà
sản xuất có trách nhiệm phát hiện và ngăn chặn các hành vi giảm giá
để cạnh tranh của các nhà bán lẻ trên thị trường.
Ngoài trách nhiệm bảo hành giá, nhà sản xuất và nhà phân phối
còn có các chính sách hỗ trợ, các chương trình khuyến mại và thưởng
doanh số cho nhà bán lẻ. Mức độ hỗ trợ này phụ thuộc vào hai điều
kiện là doanh số bán hàng thực tế năm trước và cam kết doanh số bán
hàng cho năm tiếp theo của nhà bán lẻ đối với nhà sản xuất hoặc phân
phối. Do đó, các nhà bán lẻ thuộc nhóm siêu thị điện máy lớn thường
có lợi thế hơn so với các nhà bán lẻ thuộc nhóm có sức tiêu thụ nhỏ
trong đàm phán về giá và các điều kiện hỗ trợ với các nhà sản xuất
hoặc nhà phân phối. Chính các lợi thế này lại trở thành yếu tố để gia
tăng khoảng cách giữa hai nhóm nhà bán lẻ.
II. CÁC RÀO CẢN GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG
1. Các rào cản kỹ thuật và mặt bằng
Đặc điểm của hàng điện máy là có công nghệ cao, việc lắp đặt,
sử dụng và bảo hành là tương đối phức tạp. Do đó, các nhà bán lẻ cần
Bán lẻ điện máy 27
phải có đội ngũ nhân viên am hiểu về kỹ thuật máy móc để tư vấn cho
khách hàng khi mua sản phẩm. Hơn nữa, sau khi khách hàng đã mua
sản phẩm, các nhà bán lẻ còn có trách nhiệm vận chuyển và lắp đặt tại
nơi khách hàng yêu cầu. Như vậy, các nhà bán lẻ muốn gia nhập thị
trường cần phải vượt qua một rào cản tương đối lớn đó là phải có một
đội ngũ nhân viên am hiểu kỹ thuật và phải có khả năng chi trả cho
việc lắp đặt, vận hành thử và bảo hành sản phẩm. Bên cạnh đó, yếu tố
kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh điện máy, đặc biệt là kinh
nghiệm và sự sẵn sàng của đội ngũ kỹ thuật là một đòi hỏi mà các nhà
sản xuất và nhà phân phối đặt ra đối với các đối tác muốn trở thành
nhà bán lẻ sản phẩm điện máy của họ.
Ngoài các yêu cầu về đội ngũ kỹ thuật, khả năng tiếp cận mặt
bằng cũng là một rào cản lớn đối với ngành bán lẻ điện máy. Bán lẻ
điện máy là hoạt động trực tiếp đưa sản phẩm điện máy đến người tiêu
dùng cuối cùng. Vì vậy, các nhà bán lẻ cần phải có mặt bằng đủ rộng
để trưng bày sản phẩm cho người tiêu dùng lựa chọn. Các điểm bán
hàng phải gần khu dân cư để thuận tiện cho việc đi lại mua sắm của
người tiêu dùng. Do đó, trên thực tế các nhà bán lẻ điện máy phải có
mặt bằng lớn tại những khu trung tâm hoặc nhiều điểm bán hàng tại
nhiều khu dân cư. Việc tìm được các điểm bán hàng phù hợp và chi
phí cho việc tiếp cận mặt bằng này là rất cao và là rào cản lớn đối với
việc gia nhập thị trường của các nhà bán lẻ.
2. Các rào cản về tài chính
Như phân tích ở trên, quan hệ giữa nhà bán lẻ và nhà phân
phối là quan hệ mua bán hàng hóa, các nhà bán lẻ thường có những
cam kết về doanh số đối với nhà sản xuất hoặc phân phối. Do đó,
các nhà bán lẻ thường phải có khả năng thanh toán cho các đơn hàng
mà họ nhập về. Đối với mặt hàng điện máy, giá trị của nhiều lô
hàng là rất lớn. Vì vậy, khả năng tài chính là yêu cầu tiên quyết mà
nhà sản xuất hoặc nhà phân phối thường đặt ra với các đối tác để
trở thành nhà bán lẻ sản phẩm điện máy.
3. Các rào cản từ chính sách đối với hoạt động kinh doanh
3.1. Các cam kết của Việt Nam về bán lẻ điện máy
Cùng với thị trường bán lẻ nói chung, thị trường bán lẻ điện máy
của Việt Nam đã được mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài theo
28 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
cam kết gia nhập WTO. Điểm 4C Mục II Biểu cam kết cụ thể về dịch
vụ, Phụ lục của Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam (trang
838, quy định):
Trong vòng ba năm kể từ ngày gia nhập, công ty có vốn đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực phân phối sẽ được phép cung cấp dịch vụ
đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ tất cả các sản phẩm sản xuất tại
Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam. Cam kết của Việt
Nam cũng chỉ rõ rằng, việc thành lập các cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở thứ
nhất sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
Theo quy định tại Điều 7 Thông tư số 08/2013/TT-BCT ngày 22
tháng 4 năm 2013 quy định chi tiết về hoạt động mua bán hàng hóa và
các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, việc lập cơ sở bán lẻ
ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất được xem xét từng trường hợp cụ thể căn
cứ vào việc kiểm tra nhu cầu kinh tế của địa bàn nơi đặt cơ sở bán lẻ
theo các tiêu chí: số lượng các cơ sở bán lẻ, sự ổn định của thị trường,
mật độ dân cư và quy mô của địa bàn cấp quận, huyện nơi dự kiến đặt
cơ sở bán lẻ.
Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện tại không có hạn chế về tỉ lệ
vốn góp hay loại hình doanh nghiệp đối với nhà đầu tư nước ngoài
liên quan đến hoạt động bán lẻ điện máy. Bên cạnh đó, điện máy là
mặt hàng không thuộc danh mục hàng hóa bị hạn chế kinh doanh hay
loại trừ. Tuy nhiên, quy định về kiểm tra nhu cầu kinh tế ENT là một
rào cản rất lớn đối với các doanh nghiệp. Do đó, rào cản pháp lý đối
với các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài là cao hơn so
với các doanh nghiệp Việt Nam.
3.2. Quy định về đăng ký kinh doanh và các quy hoạch đối với
hoạt động bán lẻ điện máy
Việc đăng ký kinh doanh bán lẻ điện máy phải tuân thủ các yêu
cầu của pháp luật hiện hành về đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp
bán lẻ.
Đối với việc đăng ký kinh doanh hoạt động bán lẻ điện máy,
pháp luật không yêu cầu mức vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp
Bán lẻ điện máy 29
muốn tham gia thị trường này và cũng không có quy định nào liên
quan đến giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép con đối với việc bán lẻ
các sản phẩm điện máy. Do đó, rào cản pháp lý đối với việc gia nhập
thị trường bán lẻ điện máy là không cao.
Tuy nhiên, việc bán lẻ phải phù hợp với quy hoạch phát triển
mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại của quốc gia và của từng địa
phương nơi doanh nghiệp mở các điểm bán lẻ. Ngày 19 tháng 10 năm
2012, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 6184/QĐ-BCT phê
duyệt quy hoạch phát triển mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại
cả nước đến 2020 và tầm nhìn đến 2030. Ví dụ đối với Hà Nội, quy
hoạch này giới hạn tổng số siêu thị đến năm 2020 là 200, trong đó số
siêu thị hạng I tăng từ 6 lên 10, siêu thị hạng II tăng từ 26 đến 29 và
siêu thị hạng III tăng từ 35 lên 40.
Bên cạnh quy hoạch của cả nước, các địa phương cũng ban hành
các quy hoạch về mạng lưới bán lẻ trên địa bàn của mình. Ví dụ tại Hà
Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số
5058/QĐ-UBND ngày 05 tháng 11 năm 2012 về việc phê duyệt quy
hoạch mạng lưới bán buôn, bán lẻ trên địa bàn thành phố Hà Nội đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030. Quy hoạch này cụ thể hóa việc
phân bổ mạng lưới các cơ sở bán buôn, bán lẻ trên các khu vực hành
chính của thành phố để đảm bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh
và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý.
3.3. Quy định về phân loại siêu thị, trung tâm thương mại:
Hoạt động bán lẻ điện máy được thực hiện dưới nhiều hình thức,
trong đó siêu thị điện máy và trung tâm thương mại là các cơ sở chiếm
thị phần rất lớn. Pháp luật hiện hành phân hạng các siêu thị và trung
tâm thương mại, việc xây dựng, quản lý các loại siêu thị và trung tâm
thương mại này phải tuân thủ quy định của pháp luật. Quyết định số
1371/2004/QĐ-BTM ngày 24 tháng 9 năm 2004 của Bộ Thương mại
ban hành Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại phân loại các siêu thị
và trung tâm thương mại như sau:
Cơ sở kinh doanh thương mại được gọi là siêu thị nếu có địa
điểm kinh doanh phù hợp với Quy hoạch phát triển mạng lưới thương
30 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
mại của tỉnh, thành phố và có quy mô, trình độ tổ chức kinh doanh đáp
ứng các tiêu chuẩn cơ bản của một trong ba hạng siêu thị theo quy
định dưới đây:
Siêu thị hạng I:
- Áp dụng đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp:
+ Có diện tích kinh doanh từ 5.000m2 trở lên;
+ Có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 20.000 tên hàng trở lên;
+ Đảm bảo yêu cầu về thẩm mỹ, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu
phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn; có bố trí nơi trông
giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh
của siêu thị.
+ Có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng
gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại;
- Áp dụng đối với siêu thị chuyên doanh:
+ Có diện tích kinh doanh từ 1.000m2 trở lên;
+ Có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 2.000 tên hàng trở lên;
+ Các tiêu chuẩn khác như siêu thị kinh doanh tổng hợp.
Siêu thị hạng II:
- Áp dụng đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp:
+ Có diện tích kinh doanh từ 2.000m2 trở lên;
+ Có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 10.000 tên hàng trở lên;
+ Đảm bảo yêu cầu về thẩm mỹ, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu
phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn; có bố trí nơi trông
giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh
của siêu thị.
+ Có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng
gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại;
Bán lẻ điện máy 31
- Áp dụng đối với Siêu thị chuyên doanh:
+ Có diện tích kinh doanh từ 5.000m2 trở lên;
+ Có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 1.000 tên hàng trở lên;
+ Các tiêu chuẩn khác như siêu thị kinh doanh tổng hợp.
Siêu thị hạng III:
- Áp dụng đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp:
+ Có diện tích kinh doanh từ 500m2 trở lên;
+ Danh mục hàng hóa kinh doanh từ 4.000 tên hàng trở lên;
+ Đảm bảo yêu cầu về thẩm mỹ, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu
phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn; có bố trí nơi trông
giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh
của siêu thị.
+ Có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng
gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại;
- Áp dụng đối với siêu thị chuyên doanh:
+ Có diện tích kinh doanh từ 250m2 trở lên;
+ Danh mục hàng hóa kinh doanh từ 500 tên hàng trở lên;
+ Các tiêu chuẩn khác như siêu thị kinh doanh tổng hợp.
Cơ sở kinh doanh thương mại được gọi là trung tâm thương mại
nếu có địa điểm kinh doanh phù hợp với Quy hoạch phát triển mạng
lưới thương mại của tỉnh, thành phố và có quy mô, trình độ tổ chức
kinh doanh đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản của một trong ba hạng
trung tâm thương mại theo quy định dưới đây:
Trung tâm thương mại hạng I:
- Có diện tích kinh doanh từ 50.000m2 trở lên và có nơi trông
giữ xe phù hợp với quy mô kinh doanh của trung tâm thương mại .
32 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
- Các công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính
thẩm mỹ cao, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại
đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an
ninh, an toàn, thuận tiện cho mọi đối tượng tham gia hoạt động kinh
doanh trong khu vực.
- Hoạt động đa chức năng cả về kinh doanh hàng hóa và kinh
doanh các loại hình dịch vụ, bao gồm: khu vực để bố trí các cửa hàng
bán buôn, bán lẻ hàng hóa; nhà hàng, khách sạn; khu vực để tổ chức
hội chợ triển lãm trưng bày giới thiệu hàng hóa; khu vực dành cho
hoạt động vui chơi giải trí, cho thuê văn phòng làm việc, hội trường,
phòng họp để tổ chức các hội nghị, hội thảo, giao dịch và ký kết các
hợp đồng thương mại trong, ngoài nước; khu vực dành cho các hoạt
động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, tin học, tư
vấn, môi giới đầu tư, du lịch.
Trung tâm thương mại hạng II:
- Có diện tích kinh doanh từ 30.000m2 trở lên và có nơi trông
giữ xe phù hợp với quy mô kinh doanh của trung tâm thương mại.
- Các công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính
thẩm mỹ, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại đảm
bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh,
an toàn, thuận tiện cho mọi đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh
trong khu vực.
- Hoạt động đa chức năng cả về kinh doanh hàng hóa và kinh
doanh các loại hình dịch vụ, bao gồm: khu vực để bố trí các cửa hàng
bán buôn, bán lẻ hàng hóa; nhà hàng, khách sạn; khu vực để trưng bày
giới thiệu hàng hóa; khu vực dành cho hoạt động vui chơi giải trí, cho
thuê văn phòng làm việc, hội trường, phòng họp để tổ chức các hội
nghị, hội thảo, giao dịch và ký kết các hợp đồng thương mại trong,
ngoài nước; khu vực dành cho các hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, bưu chính viễn thông, tư vấn, môi giới đầu tư, du lịch.
Trung tâm thương mại hạng III:
- Có diện tích kinh doanh từ 10.000m2 trở lên và có nơi trông
giữ xe phù hợp với quy mô kinh doanh của trung tâm thương mại.
Bán lẻ điện máy 33
- Các công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có thiết kế
và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đảm bảo các yêu cầu phòng cháy
chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh, an toàn, thuận tiện cho mọi
đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh trong khu vực.
- Hoạt động đa chức năng cả về kinh doanh hàng hóa và kinh
doanh các loại hình dịch vụ, bao gồm: khu vực để bố trí các cửa hàng
bán buôn, bán lẻ hàng hóa; khu vực để trưng bày giới thiệu hàng hoá;
khu vực dành cho hoạt động ăn uống, vui chơi giải trí, cho thuê văn
phòng làm việc, phòng họp để tổ chức các hội nghị, hội thảo, giao
dịch và ký kết các hợp đồng thương mại trong, ngoài nước; khu vực
dành cho hoạt động tư vấn, môi giới đầu tư, du lịch.
Như vậy, pháp luật hiện hành có quy định khá chặt chẽ đối với
các cơ sở bán lẻ muốn được sử dụng cụm từ “siêu thị”. Để được gọi là
siêu thị điện máy, các cơ sở bán lẻ phải đáp ứng được những yêu cầu
nhất định về mặt bằng, danh mục hàng hóa và các điều kiện về kỹ thuật
khác. Các điều kiện này là rào cản tương đối lớn và là yếu tố để phân
hóa giữa nhóm các nhà bán lẻ có quy mô lớn với các nhà bán lẻ điện
máy theo phương thức cửa hàng truyền thống.
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRÊN THỊ
TRƯỜNG BÁN LẺ ĐIỆN MÁY
1. Cạnh tranh theo chiều ngang
Thị trường bán lẻ điện máy của Việt Nam hiện nay có mức độ
cạnh tranh tương đối cao. Các nhà bán lẻ thường xây dựng các chiến
lược kinh doanh riêng cho mình và không có sự thỏa thuận hoặc thống
nhất hành động nào. Trên thực tế, các nhà bán lẻ cạnh tranh với nhau
để thu hút người tiêu dùng nhằm tăng doanh số bán hàng. Khi doanh
số bán hàng tăng thì nhà bán lẻ không những sẽ được hưởng các chế
độ thưởng doanh số, chương trình hỗ trợ tốt hơn mà họ sẽ có sức
mạnh trong đàm phán với nhà sản xuất và nhà phân phối. Do vậy, áp
lực giành được vị trí trong nhóm các nhà bán lẻ lớn và áp lực duy trì
vị trí này khiến các nhà bán lẻ thường rất khó có thể thương lượng với
nhau để hình thành các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
34 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Về hành vi liên quan đến giá, do các nhà bán lẻ được nhà sản
xuất bảo hành giá và mục tiêu của họ là tối đa hóa doanh số bán hàng
nên các nhà bán lẻ điện máy không có động cơ để thỏa thuận ấn định
giá. Hành vi bán dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ các đối thủ cạnh
tranh khác cũng không tồn tại vì nếu có một nhà bán lẻ nào thực hiện
hành vi này thì nghĩa vụ ngăn chặn hành vi đó thuộc về nhà sản xuất
hoặc phân phối. Nếu hành vi này không được ngăn chặn thì các nhà
bán lẻ khác có quyền bán với mức giá thấp mà nhà bán lẻ kia đã xác
lập và nhà sản xuất hoặc phân phối phải chịu bù khoản chênh lệch
giữa giá bán trước và sau khi hạ giá.
Mặt khác, việc giá các dòng sản phẩm được các nhà sản xuất
kiểm soát ở mức độ cạnh tranh cao cũng là một nhân tố thúc đẩy các
nhà bán lẻ tìm các giải pháp khác để cạnh tranh nhằm tăng doanh số
của mình. Trong các giải pháp để tăng tính cạnh tranh, các nhà bán lẻ
lớn như các siêu thị điện máy đều có chế độ hậu mãi và bảo hành cơ
động. Hơn nữa, nhiều nhà bán lẻ còn áp dụng cơ chế tăng thời hạn đổi
hàng thay vì bảo hành ở dạng sửa chữa trong vòng 1 năm. Điều này
đem lại lợi ích rất lớn cho người tiêu dùng và khiến cho việc cạnh
tranh trên thị trường bán lẻ điện máy càng trở nên khốc liệt hơn. Tuy
nhiên, không phải nhà bán lẻ nào cũng có khả năng theo đuổi những
chương trình khuyến mại này. Do đó, sự cạnh tranh giữa các nhà bán
lẻ về chất lượng dịch vụ sau bán hàng sẽ là nhân tố khiến việc phân
hóa giữa các nhóm nhà bán lẻ điện máy càng sâu sắc hơn.
2. Cạnh tranh theo chiều dọc
Xuất phát từ bản chất của quan hệ giữa nhà bán lẻ và nhà sản
xuất hoặc phân phối là quan hệ mua bán hàng hóa có sự ràng buộc
nghĩa vụ bảo hành giá, trên thị trường có sự thỏa thuận ấn định mức
giá theo chiều dọc. Nhà sản xuất khi bán sản phẩm thường phải cam
kết với tất cả các nhà bán lẻ về việc bảo đảm nếu giá thị trường giảm
so với mức giá mà nhà bán lẻ dự kiến bán hoặc thậm chí giảm so với
giá mà nhà bán lẻ nhập vào thì nhà sản xuất sẽ phải giảm hỗ trợ nhà
bán lẻ đối với phần giá bị sụt giảm đó. Do vậy, đối với một mặt hàng
nhất định của một nhà sản xuất, các nhà bán lẻ thường phải bán một
mức giá hoặc có thể khuyến mại nhưng giá trị khuyến mại không được
quá 2,5% giá trị của mặt hàng đó.
Bán lẻ điện máy 35
Trên thực tế, để giám sát việc tuân thủ các quy định trên, các
nhà bán lẻ thường xuyên kiểm tra giá bán của nhau. Bên cạnh đó, các
nhà sản xuất cũng thường xuyên kiểm tra giá bán của các nhà bán lẻ
để phát hiện những hành vi giảm giá. Như phần trên đã phân tích,
trong trường hợp một nhà bán lẻ giảm giá dưới mức cho phép thì nhà
sản xuất sẽ yêu cầu nhà bán lẻ đó chấm dứt hành vi hạ giá. Nếu nhà
sản xuất không thể yêu cầu nhà bán lẻ chấm dứt hành vi giảm giá thì
các nhà bán lẻ khác sẽ thực hiện hành vi giảm giá tương tự và nhà sản
xuất sẽ là người chịu thiệt hại. Như vậy, mức giá của một mặt hàng
điện máy cụ thể trên thực tế được kiểm soát bởi một hệ thống gồm nhà
sản xuất hoặc nhà phân phối mặt hàng đó và tất cả các nhà bán lẻ. Tuy
nhiên, do các mặt hàng và các thương hiệu của một ngành hàng điện
máy cạnh tranh với nhau tương đối mạnh mẽ nên các nhà sản xuất và
bán lẻ dù kiểm soát mức giá của mình nhưng không thể đặt giá sản
phẩm ở mức bóc lột.
Bên cạnh việc không có dấu hiệu của hành vi bóc lột giá, thị
trường cũng không có dấu hiệu của hành vi loại bỏ đối thủ cạnh tranh
dựa trên quan hệ theo chiều dọc. Trên thực tế, nhà sản xuất và nhà
phân phối luôn muốn tối đa hóa doanh số nên họ muốn thị trường bán
lẻ càng cạnh tranh càng tốt. Hơn nữa, các nhà sản xuất và phân phối
đều có sức mạnh thị trường. Do vậy, một nhà sản xuất hoặc phân phối
không có lợi gì khi thỏa thuận với một hoặc một số nhà bán lẻ để loại
bỏ một hoặc một số nhà bán lẻ khác trên thị trường và ngược lại, các
nhà bán lẻ cũng không có lợi ích gì khi thỏa thuận với một hoặc một
số nhà sản xuất để loại bỏ nhà sản xuất khác trên thị trường.
IV. ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Đánh giá môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ
điện máy
1.1. Môi trường cạnh tranh trong thị trường nói chung
Nhìn chung, thị trường bán lẻ điện máy có mức độ cạnh tranh
tương đối cao. Rào cản gia nhập và rút lui khỏi thị trường không cao
36 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
nên có nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động trên thị trường. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp được phân thành các nhóm khác nhau trong
đó đáng kể là nhóm các nhà bán lẻ điện máy có thị phần lớn. Mức độ
cạnh tranh cao của thị trường chính là một nhân tố làm tăng sự phân
hóa giữa các nhóm nhà bán lẻ điện máy. Thị trường cũng đã xuất hiện
hiện tượng một số nhà bán lẻ thuộc nhóm các siêu thị điện máy nhỏ
buộc phải thu hẹp quy mô và giảm số điểm bán lẻ của mình.
Với cấu trúc thị trường và thực tế hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ điện máy hiện nay, nguy cơ người
tiêu dùng là đối tượng bóc lột của doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường hoặc nguy cơ một hoặc một số doanh nghiệp bị loại khỏi thị
trường do các hành vi phản cạnh tranh là rất thấp.
1.2. Cơ chế kiểm soát giá
Như trên đã phân tích, các nhà bán lẻ khi ký hợp đồng mua bán
hàng hóa với các nhà sản xuất hoặc phân phối thường ràng buộc điều
khoản bảo hành giá và do đó, các bên trong hợp đồng duy trì một cơ
chế đảm bảo mức giá tối thiểu của một mặt hàng của một nhà sản xuất
nào đó. Dưới góc độ cạnh tranh, cơ chế bảo hành giá dẫn đến việc ấn
định giá bán lại tối thiểu trên hệ thống các nhà bán lẻ có dấu hiệu của
hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, cơ chế này có những tác động
tích cực nhất định lên thị trường.
Thứ nhất, việc kiểm soát giá bán lại tối thiểu của nhà sản xuất
bảo đảm an toàn cho nhà bán lẻ, tăng cường vai trò của nhà sản xuất
trong việc hỗ trợ nhà bán lẻ giải phóng hàng hóa tồn kho. Khi hàng
hóa tồn kho được giải phóng sớm thì chi phí của doanh nghiệp sẽ
giảm và thúc đẩy sự ra đời của các dòng sản phẩm mới hơn. Như vậy,
về lâu dài nó sẽ đem lại cho người tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn
và chất lượng tốt hơn.
Thứ hai, cơ chế này đảm bảo mặt bằng giá không bị quá thấp và
do đó hấp dẫn sự gia nhập thị trường của các doanh nghiệp bán lẻ
mới, từ đó thúc đẩy cạnh tranh đem lại lợi ích lâu dài cho người tiêu
dùng. Hơn nữa, việc các nhà sản xuất kiểm soát giá sản phẩm của
mình tại các cơ sở bán lẻ sẽ giúp họ tránh thiệt hại do phải bù giá cho
Bán lẻ điện máy 37
nhà bán lẻ khác và khoản tiền không bị mất đi này sẽ được sử dụng
vào các chương trình giảm giá và các chương trình khuyến mại cho
người tiêu dùng cho toàn bộ thương hiệu của họ, từ đó tạo sự cạnh
tranh giữa các thương hiệu với nhau.
Trên thế giới, hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu đã từng bị coi
là hành vi nguy hại và bị cấm tuyệt đối.3 Tuy nhiên, sau đó quan điểm
này đã thay đổi do khi đánh giá tác động của hành vi này đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh các học giả nhận thấy hành vi này có những
tác động tích cực đối với môi trường cạnh tranh. Ấn định giá bán lại
tối thiểu có dấu hiệu gây hạn chế cạnh tranh nhưng chỉ diễn ra trong
nội bộ của một thương hiệu nào đó (intrabrand competition) và khi
người tiêu dùng vẫn có quyền lựa chọn các sản phẩm thay thế khác thì
việc hạn chế này không có mấy ý nghĩa tiêu cực. Ngược lại, việc hạn
chế giá bán lại tối thiểu của từng mặt hàng riêng rẽ này còn thúc đẩy
sự cạnh tranh về giá giữa các thương hiệu (interbrand competition) với
nhau.
4
Do vậy, hiện nay pháp luật cạnh tranh một số nước đặc biệt là
Hoa Kỳ có xu hướng không coi hành vi ấn định và kiểm soát giá bán
lại tối thiểu là nguy hại và không bị cấm tuyệt đối.
1.3. Cơ chế kiểm soát các chương trình khuyến mại
Các chương trình khuyến mại của các nhà bán lẻ thực tế là sự
phối hợp giữa nhà sản xuất và các nhà bán lẻ. Chương trình này
thường do các nhà bán lẻ đề xuất và được các nhà sản xuất hỗ trợ để
tăng doanh số bán hàng và giải phóng hàng tồn kho. Trên thực tế, giá
trị khuyến mại trên mỗi sản phẩm không quá lớn so với giá trị của sản
phẩm đó. Nó chỉ nhằm tạo sự khác biệt nhất định cho sản phẩm đó so
với đối thủ cạnh tranh trong một khoảng thời gian nhất định.
3
Theo phán quyết của Tòa tối cao liên bang của Hoa Kỳ trong vụ án giữa Công ty
dược Dr. Miles và Công ty John D. Park & Sons (Dr. Miles Medical Co. v. John D.
Park & Sons Co., 220 U.S. 373 (1911)).
4
Theo phán quyết của Tòa tối cao liên bang của Hoa Kỳ trong vụ án giữa Công ty
Leegin Creative và Công ty PSKS (Leegin Creative Leather Products, Inc. v. PSKS,
Inc., 551 U.S. 877 (2007)).
38 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Thông thường các chương trình khuyến mại trên thị trường điện
máy tuân thủ các quy định về xúc tiến thương mại. Mặt khác, do năng
lực của các nhà bán lẻ trong cùng một nhóm không khác biệt quá lớn
và các nhà sản xuất chỉ nhằm mục tiêu tăng doanh số bán hàng của
mình nên không có hiện tượng khuyến mại nhằm hủy diệt đối thủ
cạnh tranh. Do vậy, có thể nói thị trường đủ khả năng để tự điều chỉnh
và kiểm soát sự hợp lý của các hoạt động khuyến mại của doanh
nghiệp trên thị trường bán lẻ mà không cần sự can thiệp của cơ quan
quản lý cạnh tranh.
2. Khuyến nghị
2.1. Khuyến nghị về các quy định pháp lý
Theo quy định tại Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004, hành vi ấn
định giá bán lại tối thiểu là một dạng hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường hoặc lạm dụng vị trí độc quyền (sau đây gọi chung là
lạm dụng vị trí thống lĩnh) bị cấm. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh là
doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc
có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Ngoài ra, Điều
11 Luật Cạnh tranh còn quy định nhóm doanh nghiệp được coi là có vị
trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh
tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị
trường liên quan;
b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị
trường liên quan;
c) Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị
trường liên quan.
Như vậy, theo quy định của Luật Cạnh tranh thì thực tiễn hoạt
động của các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ điện máy có khả năng
bị coi là vi phạm pháp luật. Ví dụ, một số mặt hàng điện máy có tính
chất khác biệt nhất định so với các sản phẩm khác chỉ được sản xuất
hoặc phân phối bởi một số doanh nghiệp nhất định. Như vậy, tổng thị
Bán lẻ điện máy 39
phần của các doanh nghiệp này trên thị trường liên quan có thể rơi vào
trường hợp doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường. Khi các doanh nghiệp này ký hợp đồng với các nhà bán lẻ
với các điều khoản về bảo hành giá và áp dụng giá bán lẻ tối thiểu thì
hành vi này có khả năng cao vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Tuy nhiên, như trên đã phân tích, cơ chế bảo hành giá và áp
dụng giá bán lẻ tối thiểu không có hại mà ngược lại có những tác động
tích cực nhất định đối với thị trường. Do đó, Luật Cạnh tranh nên có
những quy định hợp lý hơn đối với hành vi này theo hướng không quy
định cứng nhắc hành vi bị cấm gắn với thị phần của doanh nghiệp mà
nên quy định theo hướng cho phép đánh giá tính nguy hại của một
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh dựa trên tác động của nó đối với thị
trường. Hành vi bị cấm là những hành vi gây hại nhiều hơn những lợi
ích mà chúng đem lại cho thị trường.
2.2. Nhóm khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Để tăng cường tính cạnh tranh cho thị trường bán lẻ điện máy
nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp,
cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường hoạt động giám sát các hành
vi của doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, phân phối và
bán lẻ điện máy. Cơ quan quản lý cạnh tranh cần tăng cường tiếp cận
thông tin và trao đổi với các doanh nghiệp nói trên để kịp thời phát
hiện các hành vi gây nguy hại cho thị trường, đặc biệt là các hành vi
hạn chế cạnh tranh.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cạnh tranh cần cập nhật cấu trúc
thị trường bán lẻ điện máy để sớm phát hiện những thị trường liên
quan có mức độ tập trung cao, dễ dẫn đến hành vi gây hạn chế cạnh
tranh và ảnh hưởng tới quyền lợi người tiêu dùng.
2.3. Nhóm khuyến nghị đối với doanh nghiệp
Xuất phát từ thực tiễn ranh giới giữa hành vi cạnh tranh và hành
vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tương đối mong manh, để đảm bảo
cho thị trường vận hành một cách lành mạnh và tránh các vi phạm
40 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
pháp luật do thiếu kiến thức, các nhà bán lẻ và các nhà sản xuất, phân
phối cần tăng cường hoạt động tập huấn pháp luật cạnh tranh cho các
nhân viên của mình.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ điện máy
cần tăng cường trao đổi thông tin với cơ quan quản lý cạnh tranh để
kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc
cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, góp phần bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
PHẦN B
CHỨNG KHOÁN
I. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam
1.1 Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngày 11/7/1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 48/CP về
chứng khoán và thị trường chứng khoán (TTCK), đánh dấu sự chính
thức ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Cùng ngày, Chính
phủ ban hành quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
(TTGDCK) đặt tại TP.HCM và Hà Nội.
TTGDCK TP.HCM được thành lập theo Quyết định số
127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 và thực hiện phiên giao dịch đầu
tiên vào ngày 28/7/2000. TTGDCK Hà Nội chính thức hoạt động vào
ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và
giao dịch chứng khoán của các công ty lớn, có vốn điều lệ từ 80 tỷ
đồng trở lên), TTGDCK Hà Nội là sàn giao dịch cho các DN nhỏ và
vừa (với vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên)5. Sau đó, hai trung tâm này
được chuyển thành Sở Giao dịch chứng khoán Tp. HCM6 (HOSE) và
Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX)7 đều trực thuộc quản lý của
UBCKNN. Có thể chia sự phát triển của TTCK Việt Nam thành 3 giai
đoạn lớn sau đây:
Giai đoạn 2000 - 2005:
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu
bằng việc thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với
2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn
270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch
5
Theo Nghị định số 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19/01/2007 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán.
6
Theo Quyết định số 559/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
11/05/2007.
7
Theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
2/1/2009 .
42 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
tại HOSE. Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái kém
sôi động, trừ năm 2001 khi mà chỉ số VN-Index cao nhất đạt 571,04
điểm sau 6 tháng đầu năm. Nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ
tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất tới 70% giá trị, chỉ
số VN-Index giảm từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống còn
khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Lý do chính là ít hàng hoá, các
doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà
đầu tư trong nước, trong khi nhà đầu tư nước ngoài cũng không còn tỷ
lệ sở hữu (room) để mua vào8.
Ngày 8/3/2005 TTGDCK HN chính thức đi vào hoạt động.
Cũng trong năm 2005, khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài
được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng) thị trường bắt đầu
sôi động hơn9.
Trong 5 năm đầu tiên, thị trường không thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị
trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự
vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm
2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ
đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng
khoán Việt Nam có 4.500 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ
quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trái phiếu
chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch. Trong
năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so
với năm 2004, huy động được 44.600 tỷ đồng.
Giai đoạn 2006 - 2007:
Năm 2006 được coi là mốc thời gian mang tính chất phát triển
đột phá, tạo cho TTCK Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với
hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 sàn: HOSE, HNX và thị trường
OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006, thị
8
Theo Quyết định số 136/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
17/7/2003 tỷ lệ sở hữu tối đa của NĐT nước ngoài là 30% tổng số cổ phiếu niêm yết
của một tổ chức phát hành.
9
Theo Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
29/9/2005.
Chứng khoán 43
trường chứng khoán Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế
giới và ngày càng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khối
lượng vốn hoá thị trường tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm. Chỉ số
Vn-Index tại sàn giao dịch HOSE tăng 144%, tại sàn HNX tăng
152,4%. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm
22,7% GDP), giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm
giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị
trường. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã
lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 120.000 trong đó
gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài, gấp 3 lần năm 2005 và
30 lần so với 6 năm trước.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần
thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị
trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức
niêm yết được tăng cường. VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm, còn
HNX-Index chạm mốc 459,36 điểm. Tính đến ngày 28/12/2007,
SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng
khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với
tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần
khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân
mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng,
tương đương với 980 tỷ đồng.
TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với
tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán,
tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ
đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so
với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch
bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên, năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ
đồng/phiên. Tổng giá trị vốn hóa của thị trường trong giai đoạn này
lên đến 492.900 tỷ đồng. Điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị
vốn hóa của thị trường không phải do số lượng chứng khoán niêm yết
gia tăng mà do yếu tố giá cổ phiếu tăng mạnh.
Giai đoạn 2008 - 2009:
Việc tăng nóng của thị trường trong năm 2007 đã khiến các cơ
quan chức năng phải vào cuộc và đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế
44 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
định mức tín dụng cho vay chứng khoán. Và cùng với những dấu hiệu
bắt đầu xấu đi của nền kinh tế thế giới, thị trường đã bắt đầu giảm
điểm liên tục, đặc biệt mức độ suy giảm tăng khá nhanh trong năm
2008 khiến nhiều nhà đầu tư rơi vào hoàn cảnh thua lỗ nặng và mất
dần niềm tin. Đến lúc này, nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của
thị trường, các cơ quan điều hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và
biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) Ngân hàng thương mại HTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả
trong ngắn hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ
phiếu không ngừng tác động tới tâm lý các nhà đầu tư. Chỉ số VN-
Index đầu năm là 921,07 điểm giảm xuống còn 315,62 điểm trong
phiên giao dịch cuối của năm 2008. Giao dịch cũng như tính thanh
khoản của thị trường bị giảm mạnh. Mức vốn hóa thị trường vào cuối
năm chiếm khoảng 17,5% GDP năm 2008, trong khi con số này của
năm 2007 đạt 40%. Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm
nào UBCKNN phải can thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh
tay nhiều như năm 2008. Tổng cộng trong năm 2008, UBCKNN đã có
04 lần thay đổi biên độ giá trên cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ
thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm mạnh của các chỉ
số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải
pháp ứng cứu thị trường: Cho phép Tổng Công ty Đầu tư và Kinh
doanh vốn Nhà nước mua vào cổ phiếu trên thị trường, kêu gọi và tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ....
Bước sang năm 2009, TTCK Việt Nam có sự hồi phục trở lại.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã tiến hành niêm yết cổ phiếu như
Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank và Vietinbank giúp tăng nguồn
cung trên thị trường. Mức vốn hóa của toàn thị trường tính ở thời điểm
đầu tháng 12 vào khoảng 669 nghìn tỷ đồng (theo số liệu của Bộ Tài
chính) tăng gấp 3 lần so với năm 2008. Số tài khoản cũng tăng thêm
180.000 tài khoản, so với 730.000 tài khoản của năm trước. Tính trong
Chứng khoán 45
cả năm 2009, giá trị giao dịch toàn thị trường trên HOSE là 423.299 tỷ
đồng với 10.432 triệu cổ phiếu được chuyển giao. Tương tự trên sàn
Hà Nội, tổng giá trị giao dịch là 197.524 tỷ với 5.765 triệu đơn vị
được chuyển giao.
Đến nay, hoạt động của 2 sàn đã có sự phân tách khá rõ rệt.
Trong khi Sàn HNX chủ yếu niêm yết trái phiếu lên tới 79,4% giá trị
chứng khoán niêm yết, thì tại Sàn HOSE, mặt hàng chủ yếu là cổ
phiếu với 87,99%.
Biểu đồ 7: Giá trị niêm yết và vốn hóa thị trường qua các
năm của sàn HOSE
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Website của SGDCK Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh
Bảng 4: Quy mô niêm yết tại sàn HNX
7390
678403
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
700000
800000
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
GT niêm yết
GT vốn hóa
TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2011 Năm 2012 % thay
đổi so
với năm
2011
1 Tổng số lượng công
ty niêm yết
Công ty 393 396 0,76
2 Tổng khối lượng cổ
phiếu niêm yết
cổ phiếu 7.940.653.800 8.553.626.803 7,72
46 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Nguồn: Website của SGDCK Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh
1.2. Vai trò của các công ty chứng khoán (CTCK)
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán,
trao đổi các loại chứng khoán, là một bộ phận của thị trường tài chính.
Thị trường chứng khoán có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy
động vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng
khoán không giống như thị trường hàng hoá thông thường vì hàng hoá
trên thị trường chứng khoán là các loại chứng khoán. Loại hàng hoá
này không dễ dàng nhìn nhận đánh giá và chỉ có giá trị, không có giá
trị sử dụng. Do đó, giao dịch trên thị trường chứng khoán không trực
tiếp do người muốn mua hay muốn bán thực hiện. Việc quy định
chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán thông qua môi
giới sẽ đảm bảo các chứng khoán được đem giao dịch là những chứng
khoán thực và hợp pháp đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư, từ đó giúp thị
trường hoạt động liên tục, lành mạnh, công bằng và hiệu quả.
CTCK là một trong những tổ chức tài chính trung gian thực hiện
các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. UBCKNN cấp giấy phép
cho CTCK hoạt động trên lĩnh vực chứng khoán có tư cách pháp nhân,
có vốn riêng và thực hiện chế độ hạch toán độc lập. Như vậy CTCK
thực chất là một doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán vớí các lĩnh
vực hoạt động chính là môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư
3 Số lượng công ty
niêm yết mới
Công ty 29 14 51,72
4 Tổng khối lượng cổ
phiếu niêm yết mới
cổ phiếu 248.596.920 132.096.543 46,86
5 Số lượng công ty
niêm yết bổ sung
Công ty 121 62 48,76
6 Khối lượng cổ
phiếu niêm bổ sung
cổ phiếu 1.166.756.839 1.002.152.486 14,11
7 Số lượng công ty
hủy niêm yết
Công ty 3 11 266,67
8 Khối lượng hủy
niêm yết
cổ phiếu 9.716.960 524.102.724 5293,69
Chứng khoán 47
vấn10. Trên thực tế, một CTCK không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ
các nghiệp vụ trên, tùy theo loại hình nghiệp vụ mà CTCK được cấp
phép có đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định của loại hình nghiệp vụ
đó không. Tuy nhiên, môi giới vẫn được coi là nghiệp vụ cơ bản quan
trọng mà hầu hết CTCK nào cũng tham gia.
Sự phát triển của CTCK luôn gắn liền với sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Nhiều nước trên thế giới xem CTCK là hạt nhân
cơ bản của ngành công nghiệp chứng khoán, góp phần thúc đẩy nền
tài chính quốc gia phát triển.
Cùng với sự hình thành của TTCK Việt Nam, các CTCK cũng
lần lượt ra đời. Những ngày đầu mới đi vào hoạt động, quy mô TTCK
còn nhỏ số lượng CTCK chỉ dừng lại ở con số 14 (đến hết năm 2005).
Bước sang năm 2006, TTCK phát triển đã làm tăng nhanh chóng số
lượng CTCK được cấp phép, lên 55 và cuối năm 2009 là 105. Người
dân bắt đầu quen với một kênh đầu tư mới, số lượng công ty niêm yết
trên sàn tăng đã làm nảy sinh nhu cầu về sự có mặt của các CTCK bởi
vai trò không thể thiếu của nó trong cung cấp các dịch vụ chứng
khoán. CTCK đảm nhận 3 vai trò chính trên TTCK như sau:
Vai trò làm cầu nối giữa cung - cầu chứng khoán :
CTCK là một định chế tài chính trung gian tham gia hầu hết vào
quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị
trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp.
Trên thị trường sơ cấp: Công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà
phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn
một cách nhanh chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Một
doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán, thường không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một
tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó
là tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán
CTCK với nghiệp vụ chuyên môn kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ
máy tổ chức thích hợp, thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua
bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch
10
Khoản 1 Điều 60 Luật Chứng khoán năm 2006
48 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này,
CTCK thực hiện vai trò làm cầu nối và kênh dẫn vốn từ nơi có cung
đến nơi có cầu.
Trên thị trường thứ cấp: CTCK là cầu nối giữa các nhà đầu tư, là
trung gian chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. CTCK
với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi
này, giúp cho các nhà đầu tư giảm thiểu thiệt hại về giá trị khoản đầu
tư của mình.
Vai trò cung cấp dịch vụ cho TTCK:
Công ty chứng khoán với các chức năng và nghiệp vụ của mình,
cung cấp các dịch vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định,
cụ thể:
- Thực hiện tư vấn đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho
nhà đầu tư: TTCK cũng tương tự như tất cả các thị trường khác, để
tiến hành giao dịch, người mua người bán phải có cơ hội gặp nhau,
thẩm định chất lượng hàng hoá và thoả thuận giá cả. Tuy nhiên,
TTCK với những đặc trưng riêng của nó như người mua người bán có
thể ở rất xa nhau, hàng hoá là “vô hình”, vì vậy để cung cầu gặp nhau
thẩm định chất lượng, xác định giá cả thì phải mất rất nhiều thời gian,
công sức, tiền bạc cho một giao dịch để phục vụ cho việc thu nhập,
phân tích, xử lý thông tin CTCK với lợi thế chuyên môn hoá, trình
độ, kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư, tìm
kiếm đối tác và làm trung gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà
đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch.
- Cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư: CTCK
thông qua sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác
định giá nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác
các khoản đầu tư của mình.
Trên thị trường sơ cấp: Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán, các CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng
khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho các tổ chức phát hành
mức giá phát hành hợp lý.
Chứng khoán 49
Trên thị trường thứ cấp: Tất cả các lệnh mua bán thông qua các
CTCK được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá
chứng khoán được xác định theo quy luật cung cầu. Ngoài ra, CTCK
còn cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng khoán. Với
các nghiệp vụ đa dạng của mình, CTCK giữ vai trò quan trọng trong
việc phát triển của TTCK.
1.3. Sản phẩm các công ty chứng khoán cung cấp cho khách
hàng
Hiện nay, trên thế giới có hai loại hình hoạt động của CTCK:
Công ty chuyên kinh doanh chứng khoán: Theo mô hình này,
hoạt động kinh doanh chứng khoán do các công ty độc lập, chuyên
môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không
được trực tiếp tham gia kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô
hình này:
- Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
- Tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hoá
cao hơn.
Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật Bản,
Canada
Công ty đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán: Theo mô
hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể
kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này
có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hoá, kết hợp nhiều lĩnh vực
kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro do hoạt động kinh doanh chung,
khả năng chịu đựng các biến động của TTCK là cao. Mặt khác, ngân
hàng tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán,
khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của
ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này bộc lộ một số hạn chế như không
phát triển được thị trường cổ phiếu do các ngân hàng có xu hướng bảo
thủ, thích hoạt động tín dụng truyền thống hơn là bảo lãnh phát hành
cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác, theo mô hình này, nếu có biến động
trên TTCK sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của
ngân hàng, dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính.
50 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Ở Việt Nam, áp dụng mô hình đa năng một phần, theo đó các
ngân hàng muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải
thành lập công ty trực thuộc, hạch toán độc lập hoặc tham gia góp vốn
thành lập công ty chứng khoán trong giới hạn được phép. Mô hình này
có ưu điểm là hạn chế được rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng
khoán khỏi ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, tuy nhiên có hạn chế
là công ty chứng khoán gặp khó khăn về nguồn vốn kinh doanh.
CTCK cung cấp cho khách hàng rất nhiều loại hình sản phẩm.
Tùy theo tình hình phát triển của TTCK mà các sản phẩm dịch vụ này
cũng đa dạng theo. Với điều kiện của TTCK Việt Nam hiện nay, các
CTCK chủ yếu cung cấp các dịch vụ sau:
Nghiệp vụ môi giới chứng khoán: là một hoạt động kinh doanh
của CTCK trong đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao
dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị
trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với
hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Khi thực hiện nghiệp vụ môi
giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho từng
khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty.
Trong trường hợp khách hàng của CTCK mở tài khoản lưu ký chứng
khoán tại tổ chức lưu ký là ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, CTCK có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục
giao dịch, mua bán cho khách hàng và phải ký hợp đồng bằng văn bản
với tổ chức lưu ký. Phí môi giới thường được tính phần trăm trên tổng
giá trị của một giao dịch.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ
chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán,
nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành
để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết.
Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỉ lệ hoa hồng
nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành.
Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán: là dịch vụ mà CTCK
cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực tư vấn đầu tư chứng khoán; tư
vấn tái cơ cấu tài chính; chia tách, sáp nhập; hợp nhất doanh nghiệp; tư
vấn cho doanh nghiệp trong việc phát hành và niêm yết chứng khoán.
Chứng khoán 51
Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên môn, kinh
nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của CTCK.
Tư vấn tài chính (Tư vấn cho người phát hành): Đây là một
mảng hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu tương đối cao cho
CTCK. Thực hiện tốt nghiệp vụ này sẽ góp phần hỗ trợ phát triển các
doanh nghiệp và tạo ra những hàng hoá có chất lượng cao trên thị
trường. Khi thực hiện nghiệp vụ này, CTCK phải ký hợp đồng với tổ
chức được tư vấn và liên đới chịu trách nhiệm về nội dung trong hồ sơ
xin niêm yết.
Tư vấn đầu tư chứng khoán: là việc các chuyên viên tư vấn sử
dụng kiến thức chuyên môn của mình để tư vấn cho nhà đầu tư về thời
điểm mua bán chứng khoán, loại chứng khoán mua bán, thời gian nắm
giữ, tình hình diễn biến thị trường, xu hướng giá cả Đây là hoạt
động phổ biến trên thị trường thứ cấp, diễn ra hàng ngày, hàng giờ với
nhiều hình thức khác nhau. Việc tư vấn có thể bằng lời nói, hoặc có
thể thông qua những bản tin, các báo cáo phân tích khách hàng có
thể gặp gỡ nhà tư vấn hoặc thông qua các phương tiện truyền thông
như điện thoại, fax để nhờ tư vấn trực tiếp hoặc có thể gián tiếp
thông qua các báo cáo phân tích, các ấn phẩm mà nhà tư vấn phát
hành. Nhà tư vấn phải luôn thận trọng khi đưa ra những lời bình luận,
những báo cáo phân tích của mình về giá trị các loại chứng khoán, vì
phát ngôn của các chuyên viên tư vấn có tác động rất lớn đến tâm lý
của các nhà đầu tư, thường có thể trở hành lời tiên đoán, định hướng
cho toàn bộ thị trường.
Các nghiệp vụ hỗ trợ khác: Nhìn chung các nghiệp vụ hỗ trợ
giao dịch nhằm mục đích tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư
không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
* Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: là công việc đầu tiên để các
chứng khoán có thể giao dịch trên thị trường tập trung - việc lưu giữ,
bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện
các quyền của mình đối với chứng khoán - được thực hiện thông qua
các thành viên lưu ký của thị trường giao dịch chứng khoán. Lưu ký
chứng khoán là một hoạt động rất cần thiết trên TTCK. Bởi vì trên
52 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
TTCK tập trung, việc thanh toán các giao dịch diễn ra tại sở giao dịch
chứng khoán. Vì vậy, lưu ký chứng khoán một mặt giúp cho quá trình
thanh toán tại sở giao dịch được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, dễ
dàng. Mặt khác, nó hạn chế rủi ro cho người nắm giữ chứng khoán
như rủi ro bị rách, hỏng, thất lạc chứng chỉ chứng khoán .
* Cho vay cầm cố chứng khoán: là một hình thức tín dụng mà
trong đó người đi vay dùng số chứng khoán sở hữu hợp pháp của mình
làm tài sản cầm cố để vay tiền nhằm mục đích kinh doanh, tiêu dùng
* Cho vay bảo chứng: là một hình thức tín dụng mà khách hàng
vay tiền để mua chứng khoán, sau đó dùng số chứng khoán mua được
từ tiền vay để làm tài sản cầm cố cho khoản vay.
* Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: là việc CTCK ứng
trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng ngay sau khi lệnh bán
chứng khoán của khách hàng được thực hiện tại TTCK.
Theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán tại Việt Nam, các CTCK chỉ được phép thực hiện các
nghiệp vụ chính như trên và nghiệp vụ lưu ký chứng khoán. Vai trò
của CTCK được thể hiện qua các nghiệp vụ của CTCK. Thông qua
các hoạt động này, CTCK đã thật sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến
sự phát triển của TTCK nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
CTCK đã trở thành tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá
trình phát triển của TTCK.
2. Thị trường liên quan trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán
2.1. Thị trường liên quan theo Luật Cạnh tranh
Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định rõ thị trường liên
quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên
quan. Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng
hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng
và giá cả. Còn thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể
trong đó có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các
điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu
Chứng khoán 53
vực lân cận. Việc xác định thị trường liên quan được hướng dẫn tại
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
2.2. Thị trường sản phẩm liên quan trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán
Theo Luật Chứng khoán năm 2006, kinh doanh chứng khoán là
việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán,
lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh
mục đầu tư chứng khoán. Như vậy, các nghiệp vụ của CTCK đã được
tách biệt rất rõ ràng. Trong khuôn khổ nghiên cứu của Báo cáo, chỉ 3
loại hình sản phẩm của CTCK được xem xét, bao gồm môi giới chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng
khoán. Mức phí của dịch vụ được tính bằng một tỷ lệ nhất định trên
giá trị giao dịch (mua hoặc bán) chứng khoán.
2.2.1. Hoạt động môi giới
Môi giới chứng khoán là việc CTCK làm trung gian thực hiện
mua, bán chứng khoán cho khách hàng. Theo đó, CTCK là tổ chức
trung gian nhận và thực hiện lệnh mua bán chứng khoán của khách
hàng mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại trụ sở chính, chi nhánh
hoặc các Đại lý nhận lệnh của CTCK trong cả nước. Việc đặt lệnh
được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp như đặt lệnh từ xa thông qua
điện thoại, fax và đặt lệnh qua internet. Các lệnh mua/bán chứng
khoán của CTCK đều đảm bảo tuân thủ nghiêm túc theo Quy trình
của sở GDCK/TTGDCK cũng như quy trình giao dịch của công
ty. Để triển khai hoạt động hỗ trợ đầu tư cho khách hàng, CTCK
có thể cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khác liên quan đến thông tin
hay tài chính.
2.2.2. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK cung cấp cho nhà đầu
tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên
quan đến chứng khoán.
54 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
CTCK cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư chuyên nghiệp đến
khách hàng cả tổ chức và cá nhân thông qua hệ thống nghiên cứu
phân tích đầu tư có trình độ chuyên môn cao và nhiều kinh
nghiệm đầu tư. Từ kết quả hệ thống nghiên cứu phân tích của
Phòng Phân tích đầu tư và kết hợp kinh nghiệm thực tế khi theo
sát thị trường, các chuyên viên tư vấn đầu tư và cán bộ môi giới
của CTCK cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều sản phẩm tư vấn đa
dạng, sâu sắc và nhạy bén, đồng thời căn cứ nhu cầu, quy mô vốn
đầu tư và mục tiêu đầu tư của từng nhà đầu tư để thực hiện cung
cấp các sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư phù hợp. Với việc thường
xuyên cập nhật diễn biến thị trường, nền kinh tế, hoạt động của
các ngành, doanh nghiệp, chuyên viên tư vấn đầu tư của CTCK
cung cấp cho khách hàng những thông tin và khuyến nghị chuyên
nghiệp nhằm giúp khách hàng đưa ra quyết định đầu tư tối ưu nhất.
2.2.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát
hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi
chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán
của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại
chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức
phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Ở Việt Nam, bảo lãnh phát hành được thực hiện theo một trong
hai phương thức sau:
- Mua một phần hay toàn bộ số lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu
được phép phát hành để bán lại.
- Mua số cổ phiếu hoặc trái phiếu còn lại của đợt phát hành chưa
được phân phối hết. Đây thực chất là một dạng của phương thức cam
kết chắc chắn, nhưng tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua phần
chứng khoán còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết.
Với tư cách là tổ chức bảo lãnh phát hành, CTCK sẽ giúp cho tổ
chức đăng ký giao dịch thực hiện các công việc cần thiết của một đợt
phát hành, đồng thời đưa ra các cam kết chắc chắn nhằm đảm bảo cho
Chứng khoán 55
đợt phát hành chứng khoán được thành công. Mức phí bảo lãnh tùy
theo thỏa thuận giữa CTCK và khách hàng. Ngoài ra, trong những
trường hợp đợt phát hành không thực hiện theo phương thức bảo lãnh,
CTCK có thể đóng vai trò là tổ chức đại lý phân phối chứng khoán.
Bên cạnh đó, CTCK tham gia hoạt động đại lý phát hành - đấu giá bán
cổ phần.
Như vậy các dịch vụ môi giới, tư vấn đầu tư và bảo lãnh phát
hành là ba thị trường sản phẩm riêng biệt không thể thay thế bởi các
nghiệp vụ khác. Dịch vụ môi giới và tư vấn được cung cấp cho các
nhà đầu tư chứng khoán (cá nhân hoặc tổ chức) còn đối tượng khách
hàng của dịch vụ bảo lãnh phát hành là các tổ chức (công ty hay chính
phủ). Về giá cả, áp dụng mức giá riêng cho mỗi dịch vụ (Mức phí môi
giới được tính trên giá trị giao dịch, mức phí bảo lãnh hình thành trên
cơ sở hợp đồng giữa hai bên ký kết). Mục đích của mỗi hoạt động là
khác nhau nhằm cung cấp cho khách hàng những giá trị nhất định.
Tuy nhiên trong điều kiện TTCK Việt Nam hiện nay, hoạt động tư vấn
đầu tư chứng khoán chưa được các CTCK chú trọng phát triển.
Nghiệp vụ môi giới chứng khoán vẫn bao hàm trong đó yếu tố tư vấn
cho các nhà đầu tư, rất khó để phân định hai nghiệp vụ này một cách
rõ rệt. Trong các phần sau của Báo cáo sẽ không xem xét dịch vụ tư
vấn đầu tư như một thị trường riêng biệt.
Về thị trường địa lý liên quan đối với mỗi loại hình sản phẩm,
do các giao dịch chứng khoán có thể được tiến hành từ xa (qua mạng,
điện thoại hay tin nhắn...) nên thị trường được hiểu là trên toàn lãnh
thổ Việt Nam. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi mà các CTCK có địa
bàn hoạt động tập trung chủ yếu tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh.
3. Các công ty chứng khoán - Đối thủ cạnh tranh
Tính đến hết năm 2009, có 105 CTCK được UBCKNN cấp phép
nhưng trên thực tế số lượng CTCK hoạt động chỉ là 99. Các CTCK đến
thời điểm này chưa tham gia cung ứng các dịch vụ chứng khoán bao
gồm: Công ty CPCK Châu Á; Công ty CPCK VIETTRANIMEX; Công
ty TNHH Chứng khoán Kỹ Thương; Công ty TNHH Một thành viên
Chứng khoán VFC; Công ty TNHH Tư vấn đầu tư Chứng khoán TC
Capital Việt Nam; Công ty CPCK Gia Anh (bị tạm ngừng giao dịch).
Các CTCK hoạt động dưới 2 hình thức: Công ty cổ phần và Công ty
56 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
TNHH. Mạng lưới, quy mô hoạt động của CTCK ngày càng được mở
rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở
nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, T.p Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha
Trang, Cần Thơ, Hải Phòng11.
Quy mô vốn hoạt động của các CTCK ngày càng được nâng
cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CTCK là
24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008 (mức vốn trung bình của
một công ty là 237 tỷ). Nếu xét theo quy mô vốn điều lệ, có thể phân
loại các CTCK theo các mức dưới 100 tỷ, từ 100 tỷ đến dưới 300 tỷ và
từ 300 tỷ trở lên. Điều này tương ứng với việc, các CTCK có đủ vốn
điều lệ để được UBCKNN cấp phép thực hiện hai, ba hay tất cả các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Các CTCK đang hoạt động đều
cung ứng 2 dịch vụ cơ bản đó là môi giới và tư vấn đầu tư. Riêng
nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chỉ có khoảng hơn 30 CTCK đăng kí
hoạt động.
Theo lộ trình cam kết khi gia nhập WTO, sau 5 năm kể từ khi
gia nhập, Việt Nam mới cho phép thành lập công ty cung cấp dịch vụ
chứng khoán 100% vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, các nhà đầu tư
nước ngoài được tham gia vào ngành kinh doanh chứng khoán dưới
hình thức văn phòng đại diện và công ty liên doanh với đối tác Việt
Nam, trong đó tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá
49%
12
. Do đó, trên thị trường chứng khoán Việt Nam các CTCK bao
gồm doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Một số công ty có đối tác nước ngoài nắm giữ cổ phần lớn như:
Morgan Stanley Hướng Việt, Mirae Asset, Thành Công, Kenanga Việt
Nam, Nhấp&Gọi Tuy nhiên, nhiều CTCK nước ngoài cũng đã bắt
đầu đến Việt Nam bằng việc thành lập các văn phòng đại diện, xây
dựng vốn kinh nghiệm và nắm bắt thị trường để sẵn sàng nhập cuộc
ngay một khi rào cản được xóa bỏ.
Hoạt động của các CTCK có vốn đầu tư nước ngoài sẽ làm thị
trường sôi động hơn. Bên cạnh đó, việc tham gia ngày càng nhiều của
các CTCK nước ngoài với vai trò là định chế trung gian trên thị
11
Theo website của UBCKNN www.ssc.gov.vn
12
Theo khoản 1 Điều 3 Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chứng khoán 57
trường cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Đồng thời
tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành,
góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các CTCK trong nước. Sức
ép cạnh tranh lớn hơn buộc các CTCK trong nước phải chủ động điều
chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, ứng dụng
công nghệ thông tin nhằm tạo lợi thế với các công ty nước ngoài.
Cùng với sự phát triển của TTCK, các ngân hàng thương mại
cũng thành lập các CTCK để tham gia vào hoạt động tài chính này. Số
lượng các CTCK có ngân hàng hay tổ chức tài chính đứng sau là khá
lớn, khoảng hơn 20 công ty. Các CTCK này có quy mô vốn lớn
(chiếm 8/12 công ty có vốn 500 tỷ trở lên, đứng đầu là Công ty TNHH
chứng khoán ACB với số vốn lên tới 1.500). Ưu thế lớn nhất của các
ngân hàng là vốn, cho phép các CTCK trực thuộc hỗ trợ nhà đầu tư
mạnh về tài chính khi tham gia giao dịch chứng khoán, hơn nữa cũng
có sẵn một lượng lớn khách hàng luôn tin tưởng vào uy tín và bề dày
hoạt động của ngân hàng.
Các CTCK như Sài Gòn hay Bảo Việt đều có các cổ đông lớn là
các tập đoàn tài chính lớn trong và ngoài nước. Ngân hàng ANZ của
New Zealand và Tập đoàn tài chính Daiwa Securities lần lượt chiếm
18% và 10,84% cổ phần của CTCK Sài Gòn hay như CTCK Bảo Việt
có cổ đông chiến lược là Tập đoàn tài chính Bảo hiểm Bảo Việt
(60,11% cổ phần).
Đối với các ngành dịch vụ nói chung, vốn không phải là yếu tố
quyết định năng lực của một doanh nghiệp nhưng đối với kinh doanh
chứng khoán thì khả năng tài chính của một công ty sẽ mang lại nhiều
lợi thế trong hoạt động cạnh tranh như đầu tư vào hệ thống công nghệ
thông tin, đội ngũ nhân lực và cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ cho nhà
đầu tư.
4. Mức độ liên kết và tập trung trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán
4.1. Thị phần và cách tính thị phần
Theo khoản 5 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, “Thị phần của
doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ
phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh
58 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó
trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào
của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan
theo tháng, quý, năm”.
Theo đó, công thức để tính thị phần (của doanh nghiệp t) cụ thể là:
Trong đó: MS (Market Share): thị phần
Ri: Doanh thu thuần
Đây là một phép tính đơn giản có thể thực hiện một cách dễ
dàng khi có đầy đủ số liệu. Vấn đề then chốt, là việc xác định thị
trường liên quan một cách chính xác và hợp lý.
Số liệu về doanh thu của các CTCK được thu thập dựa trên Báo
cáo tài chính mà các công ty gửi lên UBCKNN. Theo đó, doanh thu
của CTCK cũng được phân thành các mảng hoạt động chính (môi
giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành), còn về hoạt động tư vấn đầu tư
hầu hết các CTCK không có doanh thu (do nghiệp vụ này chưa phát
triển chuyên sâu và được lồng ghép vào hoạt động môi giới).
Theo cách xác định thị trường liên quan và thị phần ở trên đã
đưa ra, thị phần trong từng lĩnh vực hoạt động của CTCK sẽ có thể
tính toán được cụ thể. Tuy nhiên, số liệu về doanh thu của các CTCK
không được công bố đầy đủ (có những công ty không công bố báo cáo
tài chính, trong báo cáo tài chính không phân rõ doanh thu đối với
từng nghiệp vụ) nên việc tính doanh thu của toàn thị trường không thể
thực hiện được. Thị phần môi giới dựa trên giá trị giao dịch mà
SGDCK Tp.HCM và Hà Nội cung cấp.
Đối với sàn HOSE, dựa trên các số liệu được SGDCK Tp.HCM
cung cấp, thị phần trong lĩnh vực môi giới chứng khoán của 10 công
ty đứng đầu giai đoạn 2009 - 2012 như sau:
Chứng khoán 59
Biểu đồ 8: Thị phần các công ty chứng khoán trên sàn HOSE
giai đoạn 2009 - 2012
Nguồn: Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
Năm 2009
Năm 2011
Năm 2010
Năm 2012
MBS,
9.13
SSI, 8.26
SBS,
7.77
HSC,
5.63
ACBS,
4.37
FPTS,
3.84
KEVS,
3.4 BVSC,
3.37
VCBS,
2.9
VIS,
2.59
Khác,
48.74
SSI,
12.25
HSC,
8.5
SBS,
6.05
VCS,
5.92
ACBS,
5.36
KEVS,
5.09 SEAS,
3.65
MBS,
3.13
FPTS,
2.94
BVSC,
2.66
Khác,
44.45
MBS,
10,04
SSI,
8.94
HSC,
7.02
SBS,
6.02
ACBS,
4.21
FPTS,
4.16
VNDS,
2.86 BVSC,
2.49
KEVS,
2.32
HBS,
2.08
Khác,
49.86
HSC,
11.77
SSI,
9.97
ACBS,
7.92
MBKE,
5.21
VCSC,
4.47
VDSC,
4.41 MBS,
3.81
VNDS,
3.42
FPTS,
3.37
PNS,
3.18
Khác ,
42.47
60 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Biểu đồ 9: Thị phần các công ty chứng khoán trên sàn HNX giai
đoạn 2009 - 2012
Nguồn: Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hà Nội
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
MBS,
7.44
SSI,
4.74
FPTS,
4.44
ACBS,
4.28
SBS,
3.88
HSC,
3.63
VCBS,
3.36
VNDS,
3.18 ROSE,
3.08
ABS,
2.96
Khác,
59.02
MBS,
11.98
VNDS,
5.15
HSC,
4.73
FPTS,
4.6
SBS,
4.14
SSI, 4
APS,
2.84
ACBS,
2.76 HBS,
2.6
ABS,
2.49
Khác,
54.72
MBS
7%
VNDS
7% HSC
6%
HBS
6%
ACBS
4%
FPTS
4%
SSI
4%
KEVS
4%
GBVS
3%
BVSC
2%
Khác
53%
HSC,
8.42
VNDS,
7.33
ACBS,
5.51
MBKE,
5.13
MBS,
4.81
SSI,
4.45
BVSC,
4.1
DAS,
4.08
FPTS,
4.06
GBVS,
3.77
Khác ,
48.35
Chứng khoán 61
Số liệu trên cho thấy danh sách các CTCK đứng đầu giai đoạn
2009 - 2012 có sự thay đổi đáng kể qua các năm, Công ty Chứng
khoán Ngân hàng Quân đội (trước đây là chứng khoán Thăng Long)
không giữ được vị trí dẫn đầu trên thị trường, năm 2012 Công ty Cổ
phần Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã vươn lên dẫn đầu thị trường.
Điều này cho thấy thị phần của các công ty chứng khoán đã có sự biến
động khá nhiều do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, cũng như sự
suy giảm và mất lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường.
Bên cạnh đó, thị phần của các công ty trong nhóm đầu đang có
xu hướng giảm xuống và thị phần khá phân tán. Ngay cả công ty dẫn
đầu thị trường năm 2012 cũng chỉ chiếm thị phần 11,77% trên sàn
HOSE và 8,42% trên sàn HNX. Điều này cho thấy, thị trường chứng
khoán hiện nay khá cạnh tranh và không tồn tại doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh.
4.2. Công ty/nhóm công ty chứng khoán có vị trí độc quyền, vị
trí thống lĩnh thị trường
Điều 11 Luật Cạnh tranh quy định về doanh nghiệp và nhóm
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường như sau:
“1. Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu
có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng
gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
2. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường
nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường
liên quan;
b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường
liên quan;
c) Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường
liên quan.”
62 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Dựa trên các con số về thị phần đã được tính toán đối với sàn
HOSE có thể thấy rằng, hiện nay (2009) không có một doanh nghiệp
hay nhóm doanh nghiệp nào giữ vị trí thống lĩnh trên thị trường với
tiêu chí như trên. Riêng đối với sàn HNX do không đủ số liệu để tính
toán thị phần chung nên không thể đưa ra kết luận.
Yếu tố “có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể”
được quy định tại Điều 22 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9
năm 2005 quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh như sau:
“Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh
nghiệp trên thị trường liên quan được xác định dựa vào một hoặc một
số căn cứ chủ yếu sau đây:
1. Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
2. Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập
doanh nghiệp.
3. Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát
hoặc chi phối hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp.
4. Năng lực tài chính của công ty mẹ.
5. Năng lực công nghệ.
6. Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
7. Quy mô của mạng lưới phân phối. ”
Việc phân tích các căn cứ trên sẽ được nêu rõ ở mục III. Nhưng
xét chung đối với lĩnh vực môi giới chứng khoán thì không có CTCK
nào có khả năng nắm giữ vị trí thống lĩnh trên thị trường.
4.3. Mức độ tập trung kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán qua một số chỉ số
Tại hầu hết các quốc gia có pháp luật về cạnh tranh, mức độ tập
trung của một ngành được cơ quan quản lý cạnh tranh sử dụng như
một chỉ số xác định quy mô tương đối của các doanh nghiệp quan hệ
Chứng khoán 63
với toàn bộ các doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Các chỉ số này
cũng có thể giúp xác định dạng cấu trúc thị trường của ngành. Các chỉ
số tập trung thường được sử dụng nhất là tỷ lệ tập trung mức 3 hoặc 5
doanh nghiệp (CR3 và CR5 - viết tắt từ thuật ngữ Concentration
Ratio), và chỉ số HHI (Hirschman - Herfindahl Index). Cách thức xác
định các chỉ số này như sau:
1
n
i i
i
CR S
Trong đó, Si là thị phần của doanh nghiệp lớn thứ i trong ngành;
n = 3 hoặc 5 tùy trường hợp cần xác định CR3 hay CR5.
Ví dụ, CR3 = 70% hàm ý rằng 3 doanh nghiệp lớn nhất trên thị
trường đã chiếm tới 70% thị phần.
Dựa vào các mức độ tập trung, có thể phân loại thị trường thành
các dạng như sau:
- Cạnh tranh hoàn hảo, với tỷ lệ tập trung rất nhỏ.
- Cạnh tranh một cách tương đối, CR3 < 65%, mức độ tập trung
trung bình.
- Độc quyền nhóm hoặc có vị trí thống lĩnh thị trường, CR3 >
65%, mức độ tập trung cao.
- Độc quyền, CR1 xấp xỉ 100%.
Đối với chỉ số HHI, một số cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế
giới thường phân loại các thị trường theo cơ sở sau:
HHI < 1.000: Thị trường không mang tính tập trung
1.000 ≤ HHI ≤ 1.800: Thị trường tập trung ở mức độ vừa phải
HHI > 1.800: Thị trường tập trung ở mức độ cao
Áp dụng việc phân tích nói trên, các chỉ số CR3, CR5 trong lĩnh
vực môi giới chứng khoán tại Việt Nam như sau:
64 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Biểu đồ 10: Chỉ số CR3, CR5 trên sàn HOSE giai đoạn 2009 - 2012
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
Biểu đồ 11: Chỉ số CR3, CR5 trên sàn HNX giai đoạn 2009 - 2012
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
0
5
10
15
20
25
30
35
40
2009 2010 2011 2012
25.16 26
26.8
29.66
35.16
39.34
CR3
CR4
CR5
0
5
10
15
20
25
30
35
2009 2010 2011 2012
16.62
21.86
20
21.26
24.78
30.6 30
31.2
CR3
CR4
CR5
Chứng khoán 65
Sơ đồ nói trên cho thấy mức độ tập trung trong lĩnh vực môi giới
chứng khoán đang có xu hướng tăng lên. Nếu như năm 2009 chỉ số
CR5 ở mức 24,78 % thì đến nay đã giảm gần một nửa chỉ còn 31,2%,
ở mức trung bình.
Tóm lại, các phân tích trên cho thấy, nhìn chung lĩnh vực môi
giới chứng khoán có cấu trúc thị trường khá cạnh tranh, với nhiều
doanh nghiệp tham gia cung ứng dịch vụ và không có doanh nghiệp
nào được coi là có vị trí thống lĩnh, mức độ tập trung không cao.
Xét chỉ số HHI, biểu đồ 6 khẳng định lại rằng mức độ tập trung
trên thị trường môi giới chứng khoán ở cả hai sàn HOSE và HNX là
không cao.
Biểu đồ 12: Chỉ số HHI trên sàn HOSE giai đoạn 2009 - 2012
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
550
600
650
2009 2010 2011 2012
515.5318
614.9151
66 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Biểu đồ 13: Chỉ số HHI trên sàn HNX giai đoạn 2009 – 2012
Nguồn: Cục QLCT tổng hợp và tính toán
5. Sự gia nhập và rút lui khỏi thị trường
Quá trình gia nhập thị trường
Để có thể gia nhập và hoạt động trên thị trường chứng khoán,
các CTCK nói chung đều phải hoàn thành thủ tục gồm 3 bước sau:
Bước 1. Xin giấy phép thành lập và hoạt động từ UBCKNN
Các điều kiện để được cấp giấy phép được quy định trong Luật
Chứng khoán 2006 và các văn bản có liên quan (sẽ được trình bày chi
tiết ở mục II). UBCKNN sẽ thẩm định các yếu tố này và có văn bản
trả lời trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ xin cấp phép.
Trong vòng 06 tháng, kể từ ngày được chấp thuận nguyên tắc, tổ chức
xin cấp phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán phải hoàn
tất việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, chuẩn bị đủ người hành nghề
chứng khoán. Nếu có bất kỳ thay đổi nào liên quan đến vốn đóng góp
và cơ cấu cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập trong hồ sơ đề nghị
cấp giấy phép thành lập và hoạt động kể từ khi chấp thuận nguyên tắc
cho đến khi chính thức đi vào hoạt động, việc chấp thuận nguyên tắc
coi như bị hủy bỏ. Các CTCK phải triển khai hoạt động trong vòng 1
0
50
100
150
200
250
300
350
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danhgiacanhtrongtrongmotsonganhdichvucuavietnam_pdf_1_7684_2154843.pdf