Tài liệu Đánh giá các bất thường về đông máu dựa trên đường cong phản ứng của xét nghiệm do thời gian Thromboplastin hoạt hóa từng phần (APTT-Activated Partial Thromboplastin Time): Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 329
ĐÁNH GIÁ CÁC BẤT THƯỜNG VỀ ĐÔNG MÁU
DỰA TRÊN ĐƯỜNG CONG PHẢN ỨNG CỦA XÉT NGHIỆM
ĐO THỜI GIAN THROMBOPLASTIN HOẠT HÓA TỪNG PHẦN
(APTT - ACTIVATED PARTIAL THROMBOPLASTIN TIME)
Trần Thanh Tùng*, Hoàng Thị Thúy Hà*, Nguyễn Thị Thảo*, Nguyễn Thị Thanh Thẳng*,
Nguyễn Công Doanh*, SaPiDah*, Nguyễn Thị Bích Trâm*, Cao Thị Trang*, Nguyễn Tự*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát và đánh giá các bất thường về đông máu dựa trên đường cong phản
ứng của xét nghiệm đo thời gian thromboplastin hoạt hóa từng phần (APTT - Activated Partial Thromboplastin
Time) trên máy đông máu tự động ACL TOP 750 CTS.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện xét nghiệm APTT trên 95 mẫu huyết tương của hai
nhóm nghiên cứu. Nhóm đối chứng bao gồm 40 mẫu người khỏe mạnh, và nhóm bệnh lý bao gồm 55 mẫu của
bệnh nhân có bất thường về đông cầm máu, trong đó gồm thiếu hụt yế...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá các bất thường về đông máu dựa trên đường cong phản ứng của xét nghiệm do thời gian Thromboplastin hoạt hóa từng phần (APTT-Activated Partial Thromboplastin Time), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 329
ĐÁNH GIÁ CÁC BẤT THƯỜNG VỀ ĐÔNG MÁU
DỰA TRÊN ĐƯỜNG CONG PHẢN ỨNG CỦA XÉT NGHIỆM
ĐO THỜI GIAN THROMBOPLASTIN HOẠT HÓA TỪNG PHẦN
(APTT - ACTIVATED PARTIAL THROMBOPLASTIN TIME)
Trần Thanh Tùng*, Hoàng Thị Thúy Hà*, Nguyễn Thị Thảo*, Nguyễn Thị Thanh Thẳng*,
Nguyễn Công Doanh*, SaPiDah*, Nguyễn Thị Bích Trâm*, Cao Thị Trang*, Nguyễn Tự*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát và đánh giá các bất thường về đông máu dựa trên đường cong phản
ứng của xét nghiệm đo thời gian thromboplastin hoạt hóa từng phần (APTT - Activated Partial Thromboplastin
Time) trên máy đông máu tự động ACL TOP 750 CTS.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện xét nghiệm APTT trên 95 mẫu huyết tương của hai
nhóm nghiên cứu. Nhóm đối chứng bao gồm 40 mẫu người khỏe mạnh, và nhóm bệnh lý bao gồm 55 mẫu của
bệnh nhân có bất thường về đông cầm máu, trong đó gồm thiếu hụt yếu tố VIII, yếu tố IX hoặc có kháng thể
kháng đông lupus. Nghiên cứu ghi nhận sự xuất hiện và hình dạng của đường cong đạo hàm bậc hai của xét
nghiệm APTT ở những mẫu bệnh phẩm nghiên cứu, theo phương pháp cắt ngang mô tả, từ ngày 10/01/2018
đến ngày 20/06/2018, trên máy đông máu tự động ACL TOP 750 tại khoa Huyết học Bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Nghiên cứu cho thấy với thuốc thử APTT chứa silica hoạt hóa (APTT-SP), đường cong đạo
hàm dạng bất thường liên quan đến các rối loạn về đông máu như thiếu hụt yếu tố VIII hoặc IX hoặc có chất
kháng đông lupus lưu hành. Trong nhóm bệnh lý, có 46/55 mẫu có đường cong đạo hàm bất thường với độ
nhạy là 83,6%.
Kết luận: Sự hiện diện của đường cong đạo hàm dạng bất thường trong xét nghiệm APTT đã chứng tỏ đây
là một công cụ rất đơn giản và hữu ích để sàng lọc và chẩn đoán sớm các bất thường về rối loạn đông máu như
thiếu hụt yếu tố nội sinh hoặc sự hiện diện của chất kháng đông máu để đảm bảo thực hiện thêm các xét nghiệm
khác để kiểm tra.
Từ khóa: xét nghiệm APTT, đường cong đạo hàm dạng bất thường, thiếu hụt yếu tố, kháng đông lupus
ABSTRACT
AN EVALUATION OF HEMOSTASIC ABNORMALITIES IN PATIENTS ACCORDING TO THE
WAVEFORM PLOT OF ACTIVATED PARTIAL THROMBOPLASTIN TIME (APTT)
Tran Thanh Tung, Hoang Thi Thuy Ha, Nguyen Thi Thao, Nguyen Thi Thanh Thang,
Nguyen Cong Doanh, SaPiDah, Nguyen Thi Bich Tram, Cao Thi Trang, Nguyen Tu
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 329 – 334
Objectives: The study aimed to evaluate the efficacy of using the reaction curve of APTT test (Activated
Partial Thromboplastin Time) to investigate hemostasic abnormalities on ACL TOP 750 CTS analyzer.
Method: We performed APTT tests on 95 citrated plasma samples of two groups. The control group
included 40 healthy human samples. The pathology group consisted of 55 samples with hemostatic disorders
including factor VIII or factor IX deficiency or lupus anticoagulant antibodies. We documented the prevalence
and types of APTT derivative curves in these patients. The study was cross-sectional, from January 10th, 2018 to
*Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Thanh Tùng ĐT: 0918683267 Email: tungbvcr04@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 330
June 20th, 2018, using the automatic coagulation analyzer ACL TOP 750 CTS at the Department of Hematology
in Cho Ray Hospital.
Results: The study has shown that with APTT reagents containing activated silica (APTT-SP), atypical
derivative curves are associated with coagulation abnormalities such as factor deficiency or Lupus anticoagulants.
In the pathological group, there were 46/55 samples with atypical derivative curves and the sensitivity of such
presence to identify hemostatic disorders was 83.6%.
Conclusion: The presence of atypical derivative curves proved to be a very simple and useful tool for
screening and early diagnosis of hemostasic abnormalities such as intrinsic factor deficiency or presence of
anticoagulants, which require further investigation tests.
Keywords: APTT test, atypical derivative curve, factor deficiency, lupus anticoagulation
TỔNG QUAN
Các rối loạn đông máu có thể gặp trên thực
tế lâm sàng của nhiều chuyên khoa và là một
trong những nguyên nhân gây tử vong của bệnh
nhân. Bên cạnh khai thác tiền sử, thăm khám
phát hiện triệu chứng lâm sàng (xuất huyết,
huyết khối), việc tiến hành các xét nghiệm đông
cầm máu một cách hợp lý đóng vai trò quan
trọng trong phát hiện sớm, chẩn đoán và xử trí
kịp thời các rối loạn đông cầm máu. Chẩn đoán
chính xác các rối loạn đông cầm máu và đánh
giá mức độ nghiêm trọng của bệnh là điều cần
thiết cho chiến lược điều trị phù hợp của bệnh
nhân. Một quy trình chẩn đoán tối ưu bao gồm
các phương pháp sàng lọc có độ nhạy - độ đặc
hiệu tốt và xét nghiệm cụ thể để chẩn đoán
chính xác các rối loạn đông máu(4).
Thời gian thromboplastin hoạt hoá từng
phần (APTT) và thời gian prothrombin (PT)
thường được sử dụng thường quy trong phòng
xét nghiệm đông máu và đóng vai trò là các xét
nghiệm đánh giá đông máu huyết tương giai
đoạn một. Xét nghiệm APTT kéo dài có thể do
nhiều nguyên nhân: sự hiện diện của kháng thể
kháng đông lupus (LA), sự hoạt động quá mức
của các protein kháng đông, thiếu hụt yếu tố
đông máu trong con đường nội sinh (yếu tố VIII,
IX, XI và XII), bệnh nhân đang được điều trị
bằng thuốc chống đông, bệnh nhân có rối loạn
chức năng gan,
Với sự ra đời và phát triển của các máy phân
tích đông máu tự động đã cung cấp hình ảnh
đường cong phản ứng đông máu trong các xét
nghiệm, trong đó có xét nghiệm APTT. Đường
cong phản ứng là hình ảnh trực quan cho phản
ứng đông máu xảy ra trong cóng phản ứng trên
thiết bị. Đây là một công cụ có giá trị trong việc
phân tích các kết quả bất thường hoặc nghi ngờ.
Hình 1. Mô hình đường cong phản ứng đông máu
Các thành phần của đường cong phản ứng
bao gồm(1):
Trục Y thể hiện sự thay đổi hấp thụ ánh sáng
trong suốt quá trình phản ứng, trục X thể hiện
thời gian tăng dần từ trái sang phải. Giai đoạn cơ
sở, giai đoạn này bắt đầu sau khi các mẫu và
thuốc thử được trộn với nhau. Trong suốt giai
đoạn này mức độ thay đổi quang học rất ít, bắt
đầu cho đến khi hình thành cục máu đông fibrin.
Giai đoạn tăng tốc, đại diện cho giai đoạn hình
thành fibrin. Trong thời gian này, sự thay đổi độ
hấp thụ quang diễn ra nhanh chóng, dẫn tới độ
dốc đường cong lên cao. Khi cục máu đông hình
thành nhiều thì tốc độ chậm lại sẽ được hiển thị
như là một đường cong có độ dốc giảm dần. Giai
đoạn giảm tốc, ngay sau giai đoạn tăng tốc và
đại diện cho giai đoạn giảm tốc độ hình thành
cục máu đông. Trong giai đoạn này, tất cả
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 331
fibrinogen có sẵn đã chuyển thành fibrin và do
đó ít thay đổi quang học, độ dốc phản ứng
xuống lại. Cục máu đông yếu hình thành từ các
mẫu có lượng fibrinogen ít có thể thể hiện sự
giảm nhẹ trong giai đoạn này là do cục máu
đông hình thành mong manh, dễ bị phá vỡ.
Điểm cuối: điểm tại đó hệ thống dừng ghi nhận
dữ liệu.
Bên cạnh khả năng hiển thị đường cong
phản ứng đông máu, nhiều dòng máy phân tích
hiện nay đã tự động tính toán dữ liệu độ hấp thụ
cho phép hiển thị đồng thời đường cong đạo
hàm bậc một và bậc hai(1). Điểm cuối của quá
trình đông máu được lấy làm đỉnh vận tốc và gia
tốc lần lượt của đạo hàm bậc một và bậc hai.
Dựa trên các thuật toán của máy, ba loại đường
cong được hiển thị trong màn hình của hệ thống
máy phân tích là đường cong phản ứng đông
máu đo thời gian APTT, tương ứng với sự hình
thành fibrin. Thứ hai là đạo hàm đầu tiên của độ
hấp thụ, tương ứng với tốc độ của quá trình
đông máu. Thứ ba là đạo hàm thứ hai (bậc hai)
của độ hấp thụ, tương ứng với gia tốc của quá
trình đông máu(2).
Đường cong đạo hàm bậc hai đặc trưng là
đường cong chỉ có một đỉnh, trong khi đường
cong đạo hàm bậc hai bất thường có nhiều đỉnh,
và được phân loại thành hai mô hình. Mô hình
đầu tiên có một đỉnh vai thứ cấp trên đường
cong đạo hàm bậc hai trong khi đó mô hình thứ
hai được hiển thị là một đường cong đạo hàm
bậc hai với một đỉnh đôi. Việc ghi nhận tần suất
xuất hiện và đánh giá hình dạng của đường
cong đạo hàm bậc hai bất thường trong xét
nghiệm APTT được báo cáo là hữu ích để sàng
lọc và chẩn đoán sớm các bất thường về rối loạn
đông máu như thiếu hụt yếu tố nội sinh hoặc sự
hiện diện của chất kháng đông máu để đảm bảo
thực hiện thêm các xét nghiệm khác để kiểm
tra(2,3).
Từ các ứng dụng hiện đại trên của các máy
đông máu tự động, trong nghiên cứu của Solano
và cộng sự tác đã kết luận sự hiện diện các
đường cong đạo hàm dạng bất thường, thường
dự đoán sự thiếu hụt yếu tố hoặc có kháng thể
lupus. Do đó, chúng tôi quyết định thực hiện đề
tài nghiên cứu khảo sát và đánh giá các bất
thường về đông máu dựa trên đường cong đạo
hàm bậc hai của xét nghiệm thời gian
thromboplastin hoạt hoá từng phần (APTT -
Activated Partial Thromboplastin Time) trên
máy đông máu tự động ACL TOP 750 CTS tại
Bệnh viện Chợ Rẫy.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
Nhóm chứng: Thực hiện các xét nghiệm: PT,
APTT, Fibrinogen Clauss, định lượng yếu tố
VIII, yếu tố IX và sàng lọc kháng thể lupus cho
40 mẫu huyết tương nghèo tiểu cầu của người
khỏe mạnh, đang khám sức khỏe tại Bệnh viện
Chợ Rẫy làm nhóm chứng.
Nhóm bệnh lý: bao gồm tất cả các bệnh nhân
có kết quả xét nghiệm APTT kéo dài, nằm ngoài
phạm vi tham chiếu của người bình thường,
được xác định là thiếu hụt yếu tố đông máu VIII
hoặc yếu tố IX hoặc có kháng thể lupus lưu
hành. Dữ liệu được thu thập từ ngày 10/01/2018
đến ngày 20/06/2018 tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Thu thập số liệu
Tất cả các xét nghiệm được thực hiện trên
máy phân tích đông máu ACL TOP 750 CTS tại
Khoa Huyết học của Bệnh viện Chợ Rẫy. Thu
thập dữ liệu được thiết lập ở 120 giây.
Ghi nhận tần suất xuất hiện và hình dạng
của đường cong đạo hàm bậc hai là dạng đặc
trưng hay dạng bất thường (bao gồm dạng
đỉnh vai thứ cấp hoặc dạng đỉnh đôi trên
đường cong đạo hàm bậc hai) trên hai nhóm
chứng và bệnh lý.
Khoảng giá trị bình thường của các thông số
xét nghiệm theo hướng dẫn của nhà sản xuất
(Bảng 1).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 332
Xử lý số liệu
Nhập liệu và tính toán độ nhạy, độ đặc hiệu,
giá trị tiên đoán dương (PPV, Positive Predictive
Value) và giá trị tiên đoán âm (NPV, Negative
Predictive Value) của nghiên cứu bằng phần
mềm Microsoft Excel 2010.
Xác định sự liên quan giữa dạng đường cong
đạo hàm bậc hai của xét nghiệm APTT với các
nhóm nghiên cứu khác nhau bằng phương pháp
kiểm định 2 (chi bình phương).
Xác định phạm vi tham chiếu của các thông
số: thời gian PT (giây), thời gian APTT (giây),
nồng độ Fibrinogen Clauss (mg/dL), hoạt tính
của yếu tố VIII, IX (% hoạt tính) và tỷ số bình
thường của xét nghiệm sàng lọc kháng thể lupus
(tỷ số LA Screen/LA Confirm) của nhóm chứng
bằng phần mềm thống kê SPSS.
Kiểm định phân phối chuẩn bằng biểu đồ
Histogram và phép kiểm Shapiro-Wilk. Kết quả
kiểm định Shapiro-Wilk cho thấy các thông số
đều có mức ý nghĩa (Sig.) >0,05 chứng tỏ dữ liệu
được coi là có phân phối chuẩn.
Bảng 1. Hóa chất sử dụng và khoảng giá trị bình thường của các nhóm xét nghiệm theo hướng dẫn nhà sản xuất
STT Nhóm Hóa chất sử dụng Giá trị bình thường theo nhà sản xuất
1 Đối chứng
HemosIL RecombiPlastin-2G 9,4 – 12,5 giây
HemosIL APTT-SP (Liquid) 25,4 – 36,9 giây
HemosIL Fibrinogen Clauss 238 – 498 mg/dL
2
Định lượng hoạt tính của
các yếu tố đông máu
HemosIL Factor VIII Deficient Plasma Nồng độ yếu tố 50 % hoạt tính
HemosIL Factor IX Deficient Plasma Nồng độ yếu tố 65 % hoạt tính
3 Kháng đông Lupus
HemosIL dRVVT Screen
HemosIL dRVVT Confirm
Tỷ số bình thường (tỷ số LAC Screen/LAC
Confirm) ≤ giới hạn ngưỡng (cut-off) là 1,2
KẾT QUẢ
Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Bảng 2. Đặc điểm mô tả của các nhóm nghiên cứu
(n=95)
Nhóm
Số lượng
nghiên cứu
Giới tính
(Nam:nữ)
Độ tuổi
trung bình
Nhóm đối chứng 40
Nhóm người khỏe
mạnh bao gồm không
thiếu hụt yếu tố VIII,
IX và không có kháng
đông lupus lưu hành
40 22 : 18 36,1 (18 - 59)
Nhóm bệnh lý 55
Nhóm thiếu yếu tố VIII 26(47) 24 : 2 36,8 (2 – 78)
Nhóm thiếu yếu tố IX 16(29) 13 : 3 42 (19 – 94)
Nhóm có xét nghiệm
LA dương tính
13(24) 6 : 7
30,4 (1 – 56)
Nhóm bệnh lý trong nghiên cứu phần lớn
thiếu hụt yếu tố đông máu nội sinh. Trong đó
thiếu hụt yếu tố VIII cao nhất với 47%, thiếu hụt
yếu tố IX là 29% còn lại là nhóm có kháng đông
lupus lưu hành với tỉ lệ là 24% (Bảng 2).
Các xét nghiệm trên nhóm chứng đều nằm
trong giới hạn bình thường (Bảng 3).
Kết quả APTT trung bình của nhóm bệnh lý
là 65,2 giây, nông độ yếu tố VIII trung bình là
15,2% và yếu tố IX là 17%. Nồng độ kháng đông
lupus là 1,7 (Bảng 4).
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm của nhóm chứng (n=40)
Xét nghiệm
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Phạm vi tham
chiếu bình
thường(
*
)
Giá trị APTT (giây) 30,8 2,3 26,4 – 36,9
Giá trị PT (giây) 10,8 0,6 9,7 – 12,7
Giá trị Fibrinogen (mg/dL) 310,2 53,4 237,1 – 490,0
Yếu tố VIII (% hoạt tính) 139,1 42,2 72,0 – 251,8
Yếu tố IX (% hoạt tính) 108,6 21,6 75,2 – 168,5
Tỷ số bình thường của xét
nghiệm LA
1,10 0,06 0,94 – 1,20
*Mức độ tập trung của 95% dữ liệu từ bách phân vị 2,5
đến 97,5
Bảng 4. Kết quả xét nghiệm của nhóm bệnh
Xét nghiệm
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị lớn
nhất – Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị APTT (giây)
(n = 55)
65,2 20,9 37,3 – 112,6
Yếu tố VIII (% hoạt tính)
(n = 26)
15,2 14,0 0 – 42,4
Yếu tố IX (% hoạt tính)
(n = 16)
17,0 14,2 0 – 47,6
Tỷ số bình thường của xét
nghiệm LA (n = 13)
1,70 0,54 1,23 – 3,21
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 333
Bảng 5. Kết quả khảo sát đường cong đạo hàm bậc 2 của xét nghiệm APTT (n = 95)
Nhóm
Số trường
hợp (n)
Đường cong
đạo hàm đặc
trưng n (%)
Đường cong đạo hàm dạng bất thường
Dạng đỉnh đôi (Doule
peak) n (%)
Dạng đỉnh vai
(Shoulder peak) n (%)
Nhóm đối chứng (n = 40)
Nhóm người khỏe mạnh bao gồm không thiếu hụt
yếu tố VIII, IX và không có kháng đông lupus lưu
hành
40 40 (100) 0 (0) 0 (0)
Nhóm bệnh lý (n = 55)
Nhóm thiếu yếu tố VIII 26 0 (0) 17 (65) 9 (35)
Nhóm thiếu yếu tố IX 16 3 (19) 8 (50) 5 (31)
Nhóm có xét nghiệm LA dương tính 13 6 (46) 4 (30) 3(24)
Nghiên cứu ghi nhận ở nhóm đối chứng cho
thấy cả 40/40 trường hợp đều không thấy sự
xuất hiện đường cong đạo hàm dạng bất
thường, với tỷ lệ âm tính thật là 100%. Điều này
cho thấy đường cong đạo hàm dạng bất thường
chỉ xuất hiện ở những bệnh nhân có rối loạn về
đông máu. Có 39/42 trường hợp thiếu yếu tố
đông máu VIII hoặc IX có hình dạng của đường
cong đạo hàm bậc hai APTT bất thường, đặc biệt
ở nhóm thiếu hụt yếu tố VIII, tất cả trường hợp
đều có sự xuất hiện của đường cong đạo hàm
bất thường. Do đó có thể dựa vào thời gian
APTT (giây) kéo dài và hình dạng của đường
cong đạo hàm bậc hai để chẩn đoán sớm bệnh lý
thiếu yếu tố đông máu (Bảng 5).
Kết quả nghiên cứu cũng thể hiện ở nhóm
bệnh lý thiếu yếu tố đông máu VIII hoặc IX thì
dạng đường cong đạo hàm chiếm ưu thế là dạng
đỉnh đôi (double peak), chiếm tỷ lệ lần lượt là
65% và 50% đối với bệnh nhân thiếu hụt yếu tố
VIII hoặc IX tương ứng.
7/13 trường hợp ở nhóm có kháng đông
lupus khảo sát có sự xuất hiện của đường cong
đạo hàm bậc hai dạng bất thường (độ nhạy
trung bình, khoảng 54%).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ở nhóm
có kháng đông lupus thì dạng đường cong đạo
hàm đỉnh vai (shoulder peak) và đỉnh đôi
(double peak) chiếm tỷ lệ xuất hiện tương
đương nhau, tỷ lệ 30% và 24%.
Tổng hợp các kết quả về độ nhạy và độ đặc
hiệu của phương pháp sử dụng đường cong đạo
hàm dạng bất thường (Bảng 6).
Bảng 6. Độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp sử
dụng đường cong đạo hàm dạng bất thường
Nhóm bệnh
lý
Nhóm đối
chứng
Đường cong đạo hàm dạng
bất thường
46 0
Đường cong đạo hàm dạng
đặc trưng
9 40
Tỷ lệ dương tính thật (Sens) 83,6% (46/55)
Tỷ lệ âm tính thật (Spec) 100% (40/40)
Giá trị tiên đoán âm (NPV) 81,6% (40/49)
Giá trị tiên đoán dương (PPV) 100% (46/46)
Kiểm định 2 cũng cho thấy có sự liên quan
giữa việc xuất hiện các dạng đường cong đạo
hàm bậc hai của xét nghiệm APTT với các nhóm
nghiên cứu khác nhau (p < 0,05). Trong đó,
đường cong đạo hàm dạng bất thường ở nhóm
bệnh lý có tỷ lệ xuất hiện cao, chiếm 83,6%.
Chúng tôi thấy rằng phương pháp dựa vào thời
gian APTT kéo dài và sự xuất hiện của các
đường cong đạo hàm bậc hai bất thường của xét
nghiệm APTT là phương pháp có độ nhạy và độ
đặc hiệu cao, có thể sử dụng để sàng lọc sớm các
bất thường về rối loạn đông cầm máu, ngay từ
các xét nghiệm thường quy ban đầu. Nghiên cứu
cho thấy sự xuất hiện đường cong đạo hàm dạng
bất thường có độ nhạy cao đối với nhóm bệnh lý
thiếu hụt yếu tố VIII (độ nhạy 100%), thiếu yếu
tố IX đơn lẻ (độ nhạy 81%).
BÀN LUẬN
Kết quả của nghiên cứu này tương tự với kết
luận của Salano và cộng sự (2010). Tác giả đã thử
nghiệm 179 mẫu huyết tương với bốn loại thuốc
thử APTT khác nhau trên hệ thống máy đông
máu ACL TOP bao gồm hai loại thuốc thử có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 334
chất hoạt hóa là silica và hai thuốc thử có chất
hoạt hóa là elagic axit. Kết quả cho thấy với
thuốc thử APTT có chứa chất hoạt hóa là silica,
đường cong đạo hàm dạng bất thường có liên
quan đến các bất thường đông máu thực sự như
thiếu hụt yếu tố đơn lẻ và kháng đông lupus
(LA) với độ nhạy và độ đặc hiệu của phương
pháp lần lượt là 91,8% và 95,6%(3).
Katayama và cộng sự (2018) cũng phân tích
các đường đạo hàm liên quan trong xét nghiệm
APTT đối với các nhóm bệnh nhân Hemophilia
có hoặc không có chất ức chế, nhóm bệnh nhân
có xét nghiệm LA dương tính và nhóm bệnh
nhân đang điều trị chống đông bằng warfarin.
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể
về các đường cong APTT giữa bệnh nhân
Hemophilia và bệnh nhân dương tính với LA.
Do đó, chẩn đoán phân biệt giữa bệnh
Hemophilia và LA có thể khó khăn nếu chỉ dựa
vào xét nghiệm APTT, nhưng giữa nhóm bệnh
nhân Hemophilia có chất ức chế và LA tương
đối dễ dàng do sự khác biệt về hình dạng của
đường cong đạo hàm. Ngoài ra, ở bệnh nhân
điều trị bằng warfarin, không có sự xuất hiện
của đường cong đạo hàm dạng đỉnh kép đồng
thời chiều cao bị giảm xuống và chiều rộng tăng
lên trong biểu đồ đạo hàm. Do đó, đường cong
đạo hàm trong xét nghiệm APTT tiềm năng
không chỉ trong chẩn đoán xu hướng chảy máu
mà còn theo dõi quá trình điều trị chống đông
máu(2).
KẾT LUẬN
Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng với thuốc
thử chứa silica hoạt hóa APTT-SP, sự hiện diện
của đường cong đạo hàm dạng bất thường có
liên quan đến các nhóm bệnh lý thiếu hụt yếu tố
đông máu nội sinh và kháng đông lupus, trong
đó ở nhóm bệnh lý thiếu yếu tố đông máu VIII
hoặc IX thì đường cong đạo hàm dạng đỉnh đôi
(double peak) chiếm ưu thế. Nghiên cứu đã
chứng tỏ đây là một công cụ rất đơn giản và hữu
ích để sàng lọc và chẩn đoán sớm các bất thường
về rối loạn đông máu như thiếu hụt yếu tố nội
sinh hoặc sự hiện diện của chất kháng đông máu
để đảm bảo thực hiện thêm các xét nghiệm khác
để kiểm tra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Instrumentation Laboratory. Đặc điểm đường cong phản ứng
đông máu ACL TOP – Máy xét nghiệm đông máu.
2. Katayama H, Matsumoto T, Wada H, Fujimoto N, Toyoda J and
Abe Y (2018). An Evaluation of Hemostatic Abnormalities in
Patients with Hemophilia According to the Activated Partial
Thromboplastin Time Waveform. Clinical and Applied
Thrombosis/Hemostasis, 24(7): 1170-1176.
3. Solano C, Zerafa P and Bird R (2010). A study of atypical APTT
derivative curves on the ACL TOP coagulation analyser.
International Journal of Laboratory Hematology, 33:67-78.
4. Verbruggen B, Meijer P, Novákova I, et al (2008). Diagnosis of
factor VIII deficiency. Haemophilia, 14(3):76–82.
Ngày nhận bài báo: 15/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_cac_bat_thuong_ve_dong_mau_dua_tren_duong_cong_phan.pdf