Tài liệu Đánh giá bước đầu kết quả ghép tế bào gốc máu ngoại vi đồng loại nửa thuận hợp tại Bệnh viện truyền máu huyết học TP Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 95
ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU KẾT QUẢ
GHÉP TẾ BÀO GỐC MÁU NGOẠI VI ĐỒNG LOẠI NỬA THUẬN HỢP
TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thế Quang*, Huỳnh Thiện Ngôn*, Huỳnh Đức Vĩnh Phú*, Hoàng Duy Nam*, Nguyễn Hạnh Thư*,
Huỳnh Văn Mẫn*, Phù Chí Dũng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ghép tế bào gốc máu ngoại vi đồng loại nửa thuận hợp (ghép haplo) hiện đang là một cứu
cánh cho những trường hợp có chỉ định ghép nhưng không có người cho phù hợp HLA hoàn toàn. Nghiên
cứu này nhằm tổng kết những trường hợp ghép haplo được tiến hành tại bệnh viện Truyền máu Huyết học
TP. Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca - hồi cứu với 14 bệnh nhân ghép haplo tại
bệnh viện Truyền máu Huyết học từ 01/2013 đến 08/2019.
Kết quả: Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu được chẩn đoán là bạch cầu cấp dòng tủy. Có 5 bệnh nhân
nhận tế bào gốc từ cha/mẹ, 5 bện...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá bước đầu kết quả ghép tế bào gốc máu ngoại vi đồng loại nửa thuận hợp tại Bệnh viện truyền máu huyết học TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 95
ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU KẾT QUẢ
GHÉP TẾ BÀO GỐC MÁU NGOẠI VI ĐỒNG LOẠI NỬA THUẬN HỢP
TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thế Quang*, Huỳnh Thiện Ngôn*, Huỳnh Đức Vĩnh Phú*, Hoàng Duy Nam*, Nguyễn Hạnh Thư*,
Huỳnh Văn Mẫn*, Phù Chí Dũng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ghép tế bào gốc máu ngoại vi đồng loại nửa thuận hợp (ghép haplo) hiện đang là một cứu
cánh cho những trường hợp có chỉ định ghép nhưng không có người cho phù hợp HLA hoàn toàn. Nghiên
cứu này nhằm tổng kết những trường hợp ghép haplo được tiến hành tại bệnh viện Truyền máu Huyết học
TP. Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca - hồi cứu với 14 bệnh nhân ghép haplo tại
bệnh viện Truyền máu Huyết học từ 01/2013 đến 08/2019.
Kết quả: Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu được chẩn đoán là bạch cầu cấp dòng tủy. Có 5 bệnh nhân
nhận tế bào gốc từ cha/mẹ, 5 bệnh nhân nhận tế bào gốc từ anh/chị/em ruột và 4 người bệnh nhận tế bào gốc từ
con ruột. Trong đó, có 3 bệnh nhân tử vong sớm trước khi mọc mảnh ghép. Nghiên cứu cho thấy 11/14 trường
hợp mọc mảnh ghép. Về biến chứng cấp sau ghép, có 1 trường hợp GVHD cấp độ I-II và 1 trường hợp GVHD
cấp độ III-IV. Về biến chứng mạn tính sau ghép, có 2 người bệnh xuất hiện GVHD mạn độ giới hạn và 1 GVHD
độ lan rộng. Tính đến thời điểm hiện tại có 6/14 bệnh nhân ghép haplo đã tử vong và 1 bệnh nhân đã thải ghép.
Kết luận: Ghép tế bào gốc đồng loại nửa thuận hợp là một trong những phương pháp điều trị mới phù hợp
và hiệu quả cho bệnh nhân có chỉ định ghép tế bào gốc tại Việt Nam.
Từ khóa: ghép tế bào gốc máu ngoại vi đồng loại nửa thuận hợp
ABSTRACT
CASE SERIES: THE INITIAL RESULTS OF HLA-HAPLOIDENTICAL PERIPHERAL BLOOD STEM
CELL TRANSPLANTATION AT THE HCMC BLOOD TRANSFUSION AND HEMATOLOGY HOSPITAL
Nguyen The Quang, Huynh Thien Ngon, Huynh Duc Vinh Phu, Hoang Duy Nam,
Nguyen Hanh Thu, Huynh Van Man, Phu Chi Dung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 95 – 100
Objective: HLA-haploidentical peripheral blood stem cell transplantation (Haplo-SCT) is an alternative
therapy for patients who do not have HLA-matched donors. This study aims to show the pilot results of haplo
HSCT that has been conducted in the HCMC Blood Transfusion and Hematology hospital (BTH).
Subjects and methods: A retrospective case series study was conducted in 14 haploidentical transplant
patients at the HCMC BTH hospital between January 2013 and August 2019.
Results: Most of the patients were diagnosed with acute myeloid leukemia. Five of them were transplanted
from their parents, five from siblings and four from their children. Three patients had early death before
engraftment. Eleven patients were engrafted. In concern with acute complications after transplantation, 1/14 had
grade I-II acute GVHD and 1/14 had grade III-IV acute GVHD. Two of the fourteen patients were diagnosed with
limited chronic GVHD and one with extensive chronic GVHD. Up to this point, there have been 6/14 patients
*Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học, TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thế Quang ĐT: 0792964621 Email: nguyenthequang1909@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 96
who died, and one patient had graft rejection.
Conclusion: Haplo-SCT is a novel and optimal therapy for transplantation indicated patients in Vietnam.
Key words: HLA-haploidentical peripheral blood stem cell transplantation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép tế bào gốc đồng loài nửa thuận hợp
(ghép haplo) hiện nay được xem là một trong
những giải pháp cứu cánh cho bệnh nhân mắc
bệnh lý huyết học ác tính. Haplo được định
nghĩa là khi bất đồng HLA của người cho và
người nhận >2 locus tại các vị trí trên HLA-A,
HLA-B, HLA-C, HLADRB1 và HLADQB1 trên
nhánh ngắn của nhiễm sắc thể số 6(11).
Ghép haplo đã được thực hiện hơn 20 năm
về trước nhưng vẫn còn bị giới hạn do nguy cơ
khá cao xuất hiện bệnh mảnh ghép chống ký chủ
(GVHD) và tình trạng thải ghép. Vào năm 2005,
nhóm tác giả người Ý báo cáo lần đầu tiên về
việc loại bỏ hoàn toàn tế bào lympho T người
cho trong ghép haplo(3). Tuy nhiên, dù giảm
được nguy cơ GVHD nhưng phương pháp này
lại làm tăng cao tỷ lệ nhiễm trùng và tái phát
bệnh. Với sự áp dụng của các phương pháp
phòng ngừa GVHD mới, ghép haplo ngày nay
trở thành một phương pháp ghép tế bào gốc
quan trọng nhằm thay thế cho những trường
hợp không tìm được nguồn tế bào gốc phù hợp
hoàn toàn HLA. Những kết quả tích cực gần đây
cũng cho thấy việc ghép haplo cải thiện thời gian
sống toàn bộ (OS), thời gian sống không tái phát
bệnh (RFS) cũng như tỷ lệ tái phát tương tự như
các loại ghép tế bào gốc khác(13).
Tại Việt Nam, ghép tế bào gốc nói chung khá
tốn kém để thực hiện. Do hầu hết các bệnh nhân
đều mang ít nhất một HLA haplotype từ con,
cha mẹ hay anh chị em đồng huyết thống, ghép
haplo giúp khắc phục những bất lợi của phương
pháp ghép tế bào gốc khác như giảm thời gian
và giảm chi phí tìm người cho không đồng
huyết thống hay máu cuống rốn phù hợp hoàn
toàn HLA(9,10). Bệnh viện Truyền máu Huyết học
TP. Hồ Chí Minh lần đầu tiên thực hiện ghép
haplo vào năm 2013. Sau 6 năm thực hiện và
nghiên cứu cùng nhiều thay đổi, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này nhằm báo cáo những kết
quả ban đầu về ghép haplo tại bệnh viện Truyền
máu Huyết học TP.Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
14 bệnh nhân được ghép tế bào gốc đồng
loài nửa thuận hợp tại bệnh viện Truyền máu
Huyết học TP.Hồ Chí Minh từ tháng 01/2013
đến tháng 08/2019.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu.
Phương pháp tiến hành
Lựa chọn người cho tế bào gốc trong gia đình với
các đặc điểm
Phù hợp HLA với người nhận <9/10, tổng
trạng ổn, người cho và nhận cùng có CMV- IgG
(+) hoặc cùng (-).
Thu thập tế bào gốc
Chúng tôi tiến hành thu thập tế bào gốc máu
ngoại vi người cho sau 3 ngày G-CSF 10
mcg/kg/ngày tiêm dưới da. Lượng tế bào gốc
mục tiêu với số lượng CD34+ ≥ 5x106/kg. Túi tế
bào gốc được xử lý và lưu trữ tại ngân hàng tế
bào gốc bệnh viện Truyền máu Huyết học TP.
Hồ Chí Minh.
Bệnh nhân trong nghiên cứu được nhận một
trong các phác đồ điều kiện hoá sau:
Flu/Bu/Cy liều thấp: Fludarabine
30mg/m2/ngày, N-6 đến N-2, busulfan
130mg/m2/ngày, N-3 và N-2, cyclophosphamide
14,5mg/kg/ngày, N-6 và N-5.
Flu/Bu/Ara-C: Fludarabine 30mg/m2/ngày,
N-9 đến N-4, busulfan 4mg/kg/ngày, N-3 và N-2,
ARA-C 2g/m2/ngày, N-9 đến N-6.
Flu/Mel: Fludarabine 30mg/m2/ngày, N-9
đến N-4, melphalan 70mg/m2/ngày, N-3 và N-2.
Phòng ngừa GVHD
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 97
Việc dự phòng GVHD ở những bệnh nhân
này được chia thành 2 nhóm:
Không sử dụng cyclophosphamide sau ghép
(PT-Cy): trong 14 bệnh nhân, có 3 bệnh nhân
thuộc nhóm không sử dụng PT-Cy được dự
phòng GVHD bằng methylprednisolone (mPSL)
+ tacrolimus từ N-3 với liều mPSL 1 mg/kg điều
chỉnh theo phản ứng GVHD, tacrolimus 0,02
mg/kg (mục tiêu [FK] là 15 mg/ml) và ATG sử
dụng từ N-3 đến N-1.
Sử dụng PT-Cy: trong nhóm 9 bệnh nhân
được dự phòng GVHD bằng PT-Cy,
cyclophosphamide được dùng với liều 50 mg/kg
N+3 và N+4 và tiếp sau đó là tacrolimus từ N+5
đến 6 tháng sau ghép, với mục tiêu [FK] là 10-15
mg/ml và MMF (mycophenolate mofetil) từ N+5
đến N+35.
Điều trị hỗ trợ sau ghép
Đối với nhóm PT-Cy, G-CSF 5mcg/kg/ngày
được sử dụng từ N+5 cho đến khi Neu > 500
K/uL trong 2 ngày liên tiếp. Đối với nhóm không
sử dụng PT-Cy, G-CSF được dụng khi Neu < 1
K/uL. Ngoài ra, chúng tôi còn bổ sung kháng
sinh (ciprofloxacin), kháng nấm (posaconazol,
itraconazol), kháng siêu vi (acyclovir), bactrim
dự phòng và dùng phòng cách ly vô trùng.
Đánh giá mọc mảnh ghép
Ngày hồi phục bạch cầu hạt được định nghĩa
là ngày đầu tiên sau ba ngày liên tiếp khi Neu
>500 K/uL mà không cần sử dụng G-CSF. Tiểu
cầu hồi phục là khi PLT >20 K/uL trong ba ngày
liên tiếp không truyền tiểu cầu. Đánh giá
Chimerism vào N+30 sau ghép: bệnh nhân được
đánh giá là mọc mảnh ghép tốt khi Chimerism
từ 95 – 100% (complete chimerism), hỗn hợp từ 5
– 94% (mixed chimerism) và không mọc mảnh
ghép < 5%.
Đánh giá tủy đồ, tồn lưu tế bào ác tính
(MRD) (nếu có) và chimerism mỗi 3-6 tháng từ
N+100.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung trước ghép
Trong thời gian nghiên cứu, 14 người bệnh
được ghép haplo. Bệnh nhân là nam giới chiếm
phần lớn. Hầu hết người bệnh được chẩn đoán
bạch cầu cấp dòng tủy (Bảng 1). Ngoài ra, tất cả
người cho và người nhận đều có CMV IgG(+).
Bảng 1. Đặc điểm các bệnh nhân trước ghép (n=14)
Đặc điểm Bệnh nhân
Tuổi trung vị (giới hạn) 36 (10-53)
Giới tính (nam:nữ) 8:6
Tình trạng bệnh lý trước ghép
Bạch cầu cấp dòng tủy đạt CR1 6
Bạch cầu cấp dòng tủy tái phát đạt CR2 4
Bạch cầu mạn dòng tủy 1
Bạch cầu cấp dòng lympho T kháng trị 1
Bạch cầu cấp dòng lympho B Ph(+) kháng trị 1
Bạch cầu cấp dòng lympho B tái phát 1
Quan hệ huyết thống giữa người cho/người nhận
Cha-mẹ/con 5
Con/Cha-mẹ 4
Anh-chị/Em 2
Em/Anh-chị 3
Bất tương hợp giới tính người cho/người
nhận
8
Bất đồng nhóm máu ABO 4
Bất đồng chính (major incompatibility) 1
Bất đồng phụ (minor incompatibility) 3
CR1: đạt lui bệnh hoàn toàn lần đầu,
CR2: đạt lui bệnh hoàn toàn lần hai sau tái phát
Đặc điểm về mọc mảnh ghép
Trong nghiên cứu có 3 người bệnh tử vong
trước khi hồi phục bạch cầu hạt. Tất cả 11/11
bệnh nhân còn lại đều mọc mảnh ghép. Thời
gian trung vị hồi phục bạch cầu là 16 ngày (10 –
23), thời gian trung vị hồi phục tiểu cầu là 31
ngày (11-100). Trong đó, 1 bệnh nhân có giảm
tiểu cầu đơn độc kéo dài hiện đang sử dụng
Eltrombopag. Ngoài ra, trong nhóm dự phòng
GVHD bằng PT-Cy có thời gian hồi phục bạch
cầu hạt và tiểu cầu chậm hơn nhóm dự phòng
GVHD không sử dụng PT-Cy (Hình 1).
Đặc điểm biến chứng sau ghép
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết các
bệnh nhân được dự phòng GVHD bằng PT-Cy
không xuất hiện GVHD cấp. Ngược lại, 2/3 bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 98
nhân được phòng ngừa GVHD không sử dụng
PT-Cy có GVHD cấp và trong đó có 1 trường
hợp GVHD cấp mức độ nặng. Có 2 người bệnh
thuộc nhóm PT-Cy xuất hiện GVHD mạn giới
hạn 100 ngày sau ghép. Trong khi đó, 1 người
bệnh xuất hiện GVHD mạn mức độ lan rộng
thuộc nhóm không PT-Cy (Bảng 2). Phần lớn tác
nhân gây nhiễm trùng sau ghép ở 6 bệnh nhân là
vi khuẩn gram âm. Trong đó có 4 trường hợp
nhiễm trùng huyết với 2 người bệnh tử vong do
sốc nhiễm trùng. Ngoài ra, có 2 bệnh nhân xuất
hiện viêm bàng quang xuất huyết sau ghép.
Hình 1. Đặc điểm về mọc mảnh ghép
Bảng 2. Đặc điểm biến chứng sau ghép
Đặc điểm Bệnh nhân
(n=14)
Không PT-Cy
(n=3)
PT-Cy
(n=11)
GVHD cấp
Độ I - Độ II 1 1 0
Độ III - Độ IV 1 1 0
GVHD mạn
Giới hạn 2 0 2
Lan rộng 1 1 0
Nhiễm trùng sau ghép
có bằng chứng vi sinh
6 2 4
Tái hoạt CMV 12 3 9
CMV: Cytomegalovirus,
GVHD: bệnh mảnh ghép chống ký chủ
Kết quả sau ghép
Tính đến hiện tại, 6/14 bệnh nhân ghép đồng
loài nửa thuận hợp đã tử vong và 1 trường hợp
mất dấu. Trong nhóm không sử dụng PT-Cy, có
1 bệnh nhân tử vong do GVHD cấp độ IV và 1
bệnh nhân tử vong do GVHD mạn mức độ lan
rộng. Ở nhóm bệnh nhân dùng PT-Cy, 3/14 bệnh
nhân tử vong trước khi mọc mảnh ghép (1 bệnh
nhân tử vong do xuất huyết não và 2 tử vong do
nhiễm trùng huyết với vi khuẩn đa kháng).
Ngoài ra, có 1 trường hợp ALL-Ph (+) tái phát và
tử vong sau ghép 6 tháng. Hiện có 7 bệnh nhân
còn sống và không tái phát. Tuy nhiên, trong số
người bệnh nhóm PT-Cy có 1 bệnh nhân đã thải
ghép thứ phát nghĩ do sử dụng Ganciclovir
trong điều trị tái hoạt CMV.
BÀN LUẬN
Thải ghép, GVHD, tái hoạt siêu vi và nhiễm
trùng (thường liên quan đến việc sử dụng ức chế
miễn dịch nhằm phòng ngừa hay điều trị
GVHD) là những nguyên nhân chính dẫn đến
thất bại trong ghép haplo trước đây. Kiểm soát
tốt GVHD mà không sử dụng kéo dài ức chế
miễn dịch là mục tiêu chính trong điều trị các
biến chứng sau ghép. Với những cách thức thay
đổi ngày nay như tăng cường sử dụng ức chế
miễn dịch bằng nhiều thuốc hay dùng
cyclophosphamide sau ghép (PT-Cy) đã cải thiện
tỷ lệ thải ghép và GVHD trong khi bệnh nhân
không cần phải sử dụng thuốc ức chế miễn dịch
dài ngày(2,11,12).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 2 phác đồ
phòng ngừa GVHD được sử dụng là PT-Cy và
không sử dụng PT-Cy. Nổi bật hơn hết, nhóm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 99
không có PT-Cy có 1 bệnh nhân xuất hiện
GVHD cấp nặng nề dẫn đến tử vong. Tác giả
Kurokawa T. và cộng sự đã thực hiện việc dự
phòng GVHD bằng mPSL + tacro + ATG trên 66
bệnh nhân bệnh lý huyết học ác tính được ghép
haplo tại Nhật Bản(6). Kết quả cho thấy có 31
bệnh nhân (51,7%) xuất hiện GVHD cấp với thời
gian sau ghép trung vị là 15 ngày (9-86 ngày).
Trong đó, có 8 bệnh nhân GVHD độ I, 18 bệnh
nhân GVHD độ II, 4 bệnh nhân độ III và 1 bệnh
nhân GVHD độ IV. Nghiên cứu cho thấy 5 bệnh
nhân (8,3%) có GVHD cấp nặng (độ III hay IV)
và trong đó có 1 bệnh nhân tử vong. Điều này
chứng tỏ khả năng xuất hiện GVHD cấp ở phác
đồ phòng ngừa bằng không sử dụng PT-Cy khá
cao. Tương tự với tác giả Kurokawa, nghiên cứu
của chúng tôi cũng cho thấy 2/3 bệnh nhân
không sử dụng PT-Cy xuất hiện GVHD cấp và
mạn nặng nề vượt trội những trường hợp được
sử dụng PT-Cy.
Ghép tế bào gốc đồng loài nửa thuận hợp
với phòng ngừa GVHD bằng cyclophosphamide
được giới thiệu lần đầu tiên bởi Luznik và cộng
sự(8). Nhờ vào khả năng ức chế chọn lọc các tế
bào lympho T hoạt hóa của người cho của
cyclophosphamide vào N+3 và N+4 trong phác
đồ phòng ngừa GVHD PT-Cy, tỷ lệ xuất hiện
GVHD cấp sau ghép haplo đã giảm đáng kể.
Nghiên cứu của Luznik trên 68 bệnh nhân mắc
bệnh lý huyết học ác tính cho thấy tần suất xuất
hiện GVHD cấp ở những bệnh nhân này là 5%.
Trong nhóm bệnh nhân PT-Cy ở báo cáo của
chúng tôi, gần như chưa bệnh nhân nào xuất
hiện GVHD cấp sau ghép. Điều này phù hợp với
những nghiên cứu trước đây về hiệu quả của dự
phòng GVHD bằng PT-Cy(4). Từ những bằng
chứng hiện có và qua những kết quả đạt được
trong việc ghép tế bào gốc nửa thuận hợp tại
bệnh viện Truyền máu Huyết học TP.Hồ Chí
Minh, PT-Cy có thể là phác đồ phòng ngừa
GVHD hiệu quả cho dị ghép haplo trong điều
kiện Việt Nam.
Có 3 bệnh nhân xuất hiện GVHD mạn trong
nghiên cứu của chúng tôi, những bệnh nhân này
được phân bố trong cả 2 phác đồ phòng ngừa
GVHD. Trong đó nhóm không sử dụng PT-Cy
có 1 bệnh nhân mắc GVHD mạn độ lan rộng dẫn
đến tử vong. Trong 11 bệnh nhân thuộc nhóm
PT-CY, cho đến nay chỉ có 2 bệnh nhân có biểu
hiện GVHD mạn mức độ nhẹ. Trong nghiên cứu
của tác giả Devillier R, tỷ lệ cộng dồn toàn bộ
GVHD mạn là 13% và GVHD mạn mức độ nặng
là 2%, có ý nghĩa trong tiên lượng chất lượng
sống của bệnh nhân sau ghép haplo(5). Chúng tôi
cho rằng cần nhiều thời gian theo dõi hơn nhằm
tìm hiểu sâu về biến chứng GVHD mạn để có
thể chứng minh được lợi điểm của ghép haplo
trong việc tiên lượng chất lượng sống của bệnh
nhân sau ghép.
Hầu hết các bệnh nhân được ghép haplo
trong nghiên cứu của chúng tôi đều tái hoạt
CMV. Theo một nghiên cứu năm 2019 tại Đài
Loan của tác giả Lin CH, tái hoạt CMV trong
ghép haplo được so sánh với ghép đồng huyết
thống và không đồng huyết thống phù hợp hoàn
toàn HLA(7). Kết quả cho thấy tỷ lệ cộng dồn
bệnh nhân tại ngày 180 sau ghép haplo là 85,7%
cao hơn hẳn ghép đồng huyết thống và không
đồng huyết thống phù hợp hoàn toàn HLA
(p<0,000). Điều này có thể được giải thích do việc
sử dụng kéo dài ức chế miễn dịch là yếu tố quyết
định trong việc tăng tỷ lệ tái hoạt CMV ở người
ghép haplo. Tuy nhiên, so sánh tỷ lệ tái hoạt
CMV ở nhóm xài PT-Cy và nhóm không PT-Cy
vẫn chưa được nghiên cứu. Việc tái hoạt CMV
và điều trị bằng Ganciclovir cũng là một vấn đề
đáng được quan tâm trong ghép haplo nói riêng
và ghép tế bào gốc tạo máu nói chung. Nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy một trường hợp tái
hoạt CMV không đáp ứng với điều trị
Ganciclovir kéo dài dẫn đến thải ghép. Tương
tự, một nghiên cứu của tác giả Akahoshi Y trên
184 bệnh nhân ghép tế bào gốc đạt hồi phục tiểu
cầu cũng đã chứng minh việc sử dụng
ganciclovir hay Valganciclovir làm tăng nguy cơ
giảm tiểu cầu thứ phát sau ghép (HR 2,86, 95%
CI 1,05-7,77, p=0,039)(1).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 100
Nhìn chung, ghép haplo mang lại lợi ích rút
ngắn thời gian tìm người cho ở những bệnh
nhân cần kiểm soát sớm tình trạng bệnh đồng
thời phù hợp với tình hình kinh tế của Việt Nam.
Ngoài ra, thời gian sống toàn bộ (OS) và thời
gian sống không tái phát (RFS) khi so sánh với
các phương pháp ghép tế bào gốc khác cũng cần
được nghiên cứu sâu hơn. Jurjen và cộng sự đã
thực hiện một nghiên cứu đa trung tâm khá lớn
với cỡ mẫu hơn 6000 bệnh nhân nhằm so sánh
kết cục của các loại ghép tế bào gốc tạo máu(13).
Kết quả cho thấy ghép haplo mang lại OS và RFS
tương đương với ghép đồng huyết thống và
không đồng huyết thống phù hợp HLA 10/10
(p<0,0001). Ngược lại, tỷ lệ tử vong không liên
quan đến tái phát (do nhiễm trùng hay GVHD)
ở những bệnh nhân ghép haplo cao hơn so với
những bệnh nhân được dị ghép đồng huyết
thống phù hợp HLA 10/10 (HR 1,98, 95% CI
1,47-2,62, p<0,001). Từ nghiên cứu trên, có thể
cho rằng việc ghép haplo mang lại lợi ích tương
tự về khả năng đạt lui bệnh nhưng đồng thời
cũng tồn tại nguy cơ rất cao của việc nhiễm
trùng và GVHD.
KẾT LUẬN
Những kết quả sơ khởi của ghép tế bào gốc
tạo máu đồng loài nửa thuận hợp tại bệnh viện
Truyền máu Huyết học TP. Hồ Chí Minh đã
chứng minh được phần nào lợi ích trong việc tìm
người cho và giảm nhẹ vấn đề chi phí ở các
trường hợp mắc bệnh lý huyết học ác tính cần
được kiểm soát tình trạng bệnh nhanh chóng.
Đồng thời, nghiên cứu cũng cho thấy lợi ích của
việc sử dụng PT-Cy làm giảm GVHD sau ghép
nhằm cải thiện thời gian sống còn cũng như chất
lượng sống của người bệnh. Từ đó, kết quả giúp
thúc đẩy việc ghép haplo khi không có người
cho phù hợp hoàn toàn HLA trong điều kiện
kinh tế Việt Nam. Đồng thời, các cơ sở ghép tế
bào gốc tại nước ta cũng cần cải thiện về chất
lượng y tế và kiểm soát việc sử dụng kháng sinh
nhằm giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng đa kháng
giúp kéo dài OS của những bệnh nhân ghép tế
bào gốc đồng loài nửa thuận hợp nói riêng và
ghép tế bào gốc tạo máu nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akahoshi Y, et al (2016). Risk Factors and Impact of Secondary
Failure of Platelet Recovery After Allogeneic Stem Cell
Transplantation. Biol Blood Marrow Transplant, 22(9):1678-1683.
2. Al-Homsi AS, et al (2015). Post-transplant high-dose
cyclophosphamide for the prevention of graft-versus-host
disease. Biol Blood Marrow Transplant, 21(4):604-611.
3. Aversa F, et al (2005). Full haplotype-mismatched hematopoietic
stem-cell transplantation: a phase II study in patients with acute
leukemia at high risk of relapse. J Clin Oncol, 23(15):3447-54.
4. Bacigalupo A, et al (2015). Unmanipulated haploidentical bone
marrow transplantation and post-transplant cyclophosphamide
for hematologic malignanices following a myeloablative
conditioning: An update. Bone Marrow Transplant, 50(2):S37-9.
5. Devillier R (2017). Low incidence of chronic GVHD after HLA-
haploidentical peripheral blood stem cell transplantation with
post-transplantation cyclophosphamide in older patients. Br J
Haematol, 176(1):132-135.
6. Kurokawa T, et al (2010). Haploidentical hematopoietic stem cell
transplantation to adults with hematologic malignancies:
analysis of 66 cases at a single Japanese center. Int J Hematol,
91(4):661-9.
7. Lin CH, et al (2019). Haploidentical allogeneic hematopoietic
stem cell transplantation increases the risk of cytomegalovirus
infection in adult patients with acute leukemia. Transpl Infect
Dis, pp.13096.
8. Luznik L, et al (2008). HLA-haploidentical bone marrow
transplantation for hematologic malignancies using
nonmyeloablative conditioning and high-dose,
posttransplantation cyclophosphamide. Biol Blood Marrow
Transplant, 14(6):641-50.
9. Ogawa H, et al (2008). Unmanipulated HLA 2-3 mismatched
(haploidentical) bone marrow transplantation using only
pharmacological GVHD prophylaxis. Experimental Hematology,
36(1):1-8.
10. Passweg JR, et al (2015). Hematopoietic SCT in Europe 2013:
recent trends in the use of alternative donors showing more
haploidentical donors but fewer cord blood transplants. Bone
Marrow Transplant, 50(4): 476-82.
11. Robinson TM, et al (2016). Haploidentical bone marrow and
stem cell transplantation: experience with post-transplantation
cyclophosphamide. Semin Hematol, 53(2):90-97.
12. Ruggeri A, et al (2017). Post-transplant cyclophosphamide
versus anti-thymocyte globulin as graft- versus-host disease
prophylaxis in haploidentical transplant. Haematologica,
102(2):401-410.
13. Versluis J, et al (2017). Alternative donors for allogeneic
hematopoietic stem cell transplantation in poor-risk AML in
CR1. Blood Adv, 1(7):477-485.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_buoc_dau_ket_qua_ghep_te_bao_goc_mau_ngoai_vi_dong.pdf