Tài liệu Đánh giá bước đầu chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221
212
Đánh giá bước đầu chế định hợp đồng trong
Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005
Bùi Thị Thanh Hằng, Đỗ Giang Nam*
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 15 tháng 11 năm 2012
Tóm tắt. Tác giả bước đầu đánh giá chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS) Việt Nam
2005, phát hiện ra 13 điểm còn hạn chế và bất cập trong các quy định của chế định này, để từ đó
đề xuất một số gợi ý nhằm cải cách các quy định về hợp đồng trong bối cảnh chúng ta đang tiến tới
sửa đổi toàn diện BLDS 2005 để đảm bảo sức sống lâu bền của BLDS mới.
*Chế định hợp đồng được ghi nhận trong Bộ
luật Dân sự năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS)
là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng. Đây là một chế định
trung tâm trong Luật dân sự Việt Nam với trên
266 điều trên tổng số 777 điều luật(1). Trong đó
trên 205 điều qui định chung về hợp đồng dân
sự và hợp đồng dân sự th...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá bước đầu chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221
212
Đánh giá bước đầu chế định hợp đồng trong
Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005
Bùi Thị Thanh Hằng, Đỗ Giang Nam*
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 15 tháng 11 năm 2012
Tóm tắt. Tác giả bước đầu đánh giá chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS) Việt Nam
2005, phát hiện ra 13 điểm còn hạn chế và bất cập trong các quy định của chế định này, để từ đó
đề xuất một số gợi ý nhằm cải cách các quy định về hợp đồng trong bối cảnh chúng ta đang tiến tới
sửa đổi toàn diện BLDS 2005 để đảm bảo sức sống lâu bền của BLDS mới.
*Chế định hợp đồng được ghi nhận trong Bộ
luật Dân sự năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS)
là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng. Đây là một chế định
trung tâm trong Luật dân sự Việt Nam với trên
266 điều trên tổng số 777 điều luật(1). Trong đó
trên 205 điều qui định chung về hợp đồng dân
sự và hợp đồng dân sự thông dụng (từ Điều 388
đến Điều 593), 45 điều quy định về các hợp
đồng liên quan đến quyền sử dụng đất (từ Điều
693 đến Điều 732) và 18 điều qui định về giao
dịch dân sự. Tỷ trọng này là minh chứng chỉ rõ
tầm quan trọng của chế định hợp đồng trong
BLDS cũng như trong đời sống dân sự.
Nhìn chung các qui định đã đáp ứng được
nhu cầu của xã hội trong thời gian qua. Tuy
nhiên sau một thời gian áp dụng, với tư cách là
nền tảng của pháp luật hợp đồng Việt Nam [1],
chế định hợp đồng trong BLDS 2005 đang phải
đối mặt với hai thách thức lớn: thứ nhất đó là
những hạn chế nội tại trong các qui định hiện
______
* Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-37547511.
E-mail: namdg_vnu@yahoo.com
(1) Bộ luật dân sự năm 2005.
hành, thứ hai là sự thiếu vắng những quy phạm
để điều chỉnh những quan hệ xã hội mới nảy
sinh do sự phát triển nhanh chóng của đời sống
kinh tế xã hội Việt Nam [2,3,4]. Trong bài viết
này, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu ở
việc bước đầu đánh giá, nhận diện những hạn
chế trong các qui định hiện hành của chế định
hợp đồng trong BLDS 2005. Những hạn chế
này thể hiện ở một số điểm sau:
Một là: Thuật ngữ “hợp đồng dân sự”
Với phạm vi điều chỉnh được xác định tại
Điều 1 BLDS 2005, các qui định về hợp đồng
của BLDS 2005 được áp dụng không chỉ được
áp dụng cho các quan hệ dân sự mà còn được
áp dụng chung cho tất cả các quan hệ hợp đồng
trong các quan hệ kinh doanh, thương mại, lao
động. Việc sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân
sự” trong BLDS dễ gây hiểu nhầm, do thuật
ngữ “dân sự” có thể hiểu theo nghĩa rộng điều
chỉnh các quah hệ kể trên và cũng có thể hiểu
theo nghĩa hẹp để chỉ những quan hệ nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. Do đó, nên
thay thuật ngữ “hợp đồng dân sự” bằng thuật
ngữ “hợp đồng” để đảm bảo tính chính xác,
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 213
phản ánh đúng phạm vi điều chỉnh của chế định
hợp đồng.
Hai là: “Hợp đồng có điều kiện”
Khoản 6 Điều 406 BLDS qui định: “Hợp
đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực
hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định”; Khoản 1
Điều 125 BLDS qui định: “Trong trường hợp
các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh
hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện
đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy
bỏ”; Điều 294 qui định “Trong trường hợp các
bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định
về điều kiện thực hiện nghĩa vụ dân sự thì khi
điều kiện phát sinh, bên có nghĩa vụ phải thực
hiện”; Khoản 1 Điều 470 qui định “Bên tặng
cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện
một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau
khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được
trái pháp luật, đạo đức xã hội.” Qua 4 qui phạm
nói trên ta nhận thấy qui định về “hợp đồng có
điều kiện” trong BLDS 2005 khá tản mát, rời
rạc, thiếu logic và chưa đầy đủ. Đó là, BLDS
chưa đưa ra khái niệm “điều kiện” của hợp
đồng có điều kiện để có thể phân biệt chúng với
“điều kiện” được qui định tại Điều 122 BLDS;
các qui định nêu trên chỉ đề cập đến điều kiện
phát sinh, điều kiện hủy bỏ chứ không đề cập
đến điều kiện thay đổi giao dịch dân sự; đề cập
đến điều kiện xảy ra chứ không đề cập đến điều
kiện không xảy ra. Bên cạnh đó, duy nhất chỉ
có Điều 470 BLDS đề cập đến điều kiện của
hợp đồng có điều kiện là “không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội” nhưng đáng tiếc là qui
định này lại được đặt trong qui định về một loại
hợp đồng cụ thể chứ không đặt ở phần qui định
chung. Hơn nữa qui định này chỉ đề cập đến một
điều kiện trong số các điều kiện của hợp đồng có
điều kiện như: phải là sự kiện xảy ra trong tương
lai; điều kiện phải có thể thực hiện được.
Ba là: Nguyên tắc trong giao kết và thực
hiện hợp đồng
Các qui định được ghi nhận trong Chương
II (Chương: Các nguyên tắc cơ bản), được hiểu
là phải được áp dụng thống nhất và xuyên suốt
toàn bộ BLDS 2005, bao gồm cả phần “hợp
đồng”. Tuy nhiên, chúng ta chỉ xem xét ở đây
các qui định ghi nhận các nguyên tắc giao kết
và thực hiện hợp đồng trong chương II và các
qui định ghi nhận các nguyên tắc tương ứng
được ghi nhận trong các phần khác của BLDS.
Với cách tiếp cận này chúng ta nhận thấy:
Các qui định về nguyên tắc giao kết và
thực hiện hợp đồng được ghi nhận trong BLDS
khá tản mát, trùng lắp, thiếu thống nhất. Chẳng
hạn, nguyên tắc “tự nguyện” được ghi nhận
trong đoạn 2 Điều 4 BLDS bằng cách chỉ rõ:
“Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự
nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm
đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào”,
ngay sau đó lại được nhắc lại một phần trong
Điều 6 BLDS: “Trong quan hệ dân sự, các bên
phải thiện chí, trung thực trong việc xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên
nào được lừa dối bên nào”. Mặt khác Điều 4
BLDS dường như chỉ đề cập đến “cam kết, thỏa
thuận” trong khi Điều 6 lại đề cập đến “xác lập,
thực hiện”.
Tiêu đề của Điều 6 là “Nguyên tắc thiện chí,
trung thực”(2) nhưng với nội dung “ các bên
phải thiện chí, trung thực trong việc xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được
lừa dối bên nào.” dễ dẫn đến việc hiểu “không lừa
dối” là một phần của “thiện chí, trung thực”. Cũng
tương tự như vậy ta có thể hiểu “không áp đặt,
cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản” là các yếu
tố tạo nên sự “tự nguyện”. Như vậy, dường như
qui định của BLDS không có sự khác biệt giữa
“nguyên tắc tự nguyện” và “nguyên tắc thiện chí,
trung thực”.
Khoản 2 Điều 389 BLDS qui định việc
giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo nguyên
tắc “Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác,
trung thực và ngay thẳng.” Qui định mang tính
liệt kê này tưởng chừng đầy đủ nhưng thực chất
cho thấy khoản 2 Điều 389 BLDS đã tổ hợp
vụng về các nguyên tắc: tự nguyên, bình đẳng
______
(2) Ở đây chúng ta tạm thời chưa đề cập đến việc sử dụng
thuật ngữ “thiện chí, trung thực” hay “thiện ý” (good
faith/Latin: bona fide).
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 214
và thiện ý (bona fide) vào làm một. Với qui
định này dường như các yếu tố thiện chí, hợp
tác, trung thực và ngay thẳng được cho rằng là
những yếu tố hoàn toàn khác nhau.
Nguyên tắc “không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái với đạo đức xã hội” là
nguyên tắc được được qui định trong khá nhiều
qui định nhưng không đảm bảo tính thống nhất.
Đó là tại Điều 4 đoạn 1, Điều 122 khoản 1 điểm
b, Điều 128 sử dụng cụm từ “không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức
xã hội” nhưng tại Điều 283, Điều 389, Điều 470
lại sử dụng cụm từ “không trái pháp luật, đạo
đức xã hội” mặc dù “không vi phạm điều cấm”
và “không trái pháp luật” có phạm vi rất khác
nhau.
Bốn là: Năng lực tham gia hợp đồng
Khoản 1 Điều 122 BLDS 2005 qui định
“người tham gia giao dịch có năng lực hành vi
dân sự”. Qui định này nhằm đảm bảo người
tham gia giao dịch là cá nhân có khả năng nhận
thức về hành vi cũng như hậu quả được hành vi
do họ thực hiện hay nói cách khác đảm bảo
người tham gia hợp đồng có khả năng tuyên bố
ý chí cũng như nhận thức được hậu quả của
tuyên bố ý chí. Về cơ bản qui định này là phù
hợp với pháp luật các nước. Tuy nhiên, hiện
nay BLDS của ta còn hạn chế do:
Chưa có quy phạm điều chỉnh trường hợp
cá nhân dưới 18 tuổi đã kết hôn tham gia hợp
đồng(3). Điều này đặt ra một số vấn đề: Những
người này có quyền xác lập những giao dịch mà
pháp luật qui định phải do người thành niên xác
lập thực hiện không? Nếu không thì vấn đề
đương nhiên được đặt ra tiếp theo là ai sẽ là
người đại diện cho người vợ bước vào tuổi 18?
Người chồng hay cha mẹ của người đó? Trong
trường hợp này rõ ràng là không phù hợp với
nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 là “vợ chồng bình đẳng về mọi mặt” [2];
Nếu có thì rõ ràng trái với các qui định của
BLDS bởi BLDS cũng như Luật Hôn nhân và
______
(3) Xem Điều 18, Điều 9 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 9
Điều Luật Hôn nhân và gia đình.
gia đình không qui định bất cứ trường hợp
ngoại lệ nào.
BLDS chỉ dừng lại ở yêu cầu người tham
gia hợp đồng phải có năng lực hành vi mà chưa
tính đến điều kiện tuyên bố ý chí phải nằm
trong phạm vi quyền hạn (phạm vi thẩm quyền
tuyên bố ý chí, quyền đối với đối tượng của hợp
đồng) của người tuyên bố ý chí để tạo sự tương
thích với các qui định tại khỏan 5 Điều 69,
khỏan 1 Điều 146 BLDS và Điều 411 BLDS.
Năm là: Người tham gia hợp đồng hoàn
toàn tự nguyện
Các qui định từ Điều 129 đến Điều 133
BLDS 2005 ghi nhận các trường hợp hợp đồng
được xác lập thiếu tự nguyện. Bao gồm: hợp đồng
giả tạo, hợp đồng xác lập trên cơ sở nhầm lẫn, lừa
dối, đe dọa và hợp đồng vô hiệu do người xác lập
không nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình. Những qui định này cũng bộc lộ những bất
cập cần được khắc phục. Đó là:
Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn.
Điều 131 BLDS qui định “Khi một bên có lỗi
vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị
nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội
dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp
nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch vô hiệu.”
BLDS không có qui định nào nêu rõ như
thế nào được coi là nhầm lẫn. Tuy nhiên, dựa
trên cơ sở ngôn từ của Điều 131, ta có thể nhận
thấy BLDS chỉ đề cập đến “nhầm lẫn về nội
dung” của hợp đồng như đối tượng, giá cả, thời
gian, địa điểmVì vậy, BLDS nên đưa ra một
khái niệm nhầm lẫn để tránh sự thiếu chính xác
và không bao quát.
Điều 131 BLDS chỉ qui định chung chung
“lỗi vô ý” của một bên để xem xét hiệu lực của
hợp đồng mà chưa xem xét mức độ nhầm lẫn
của bên bị nhầm lẫn với vị trí của một người
bình thường trong hoàn cảnh tương tự để xác
định người đó có thể nhận thức được hoặc buộc
phải nhận thức được. Nói cách khác, BLDS
không tính đến trường hợp người bị nhầm lẫn
có lỗi nghiêm trọng.
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 215
Ngoài ra, theo ngôn từ của Điều 131 BLDS
có thể hiểu rằng bất cứ một sự nhầm lẫn nào về
bất cứ nội dung nào của hợp đồng cũng có thể
dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng. Qui định này
không thật hợp lý và công bằng đối với một bên
của hợp đồng trong trường hợp bên kia viện ra
sự nhầm lẫn về một điều khoản nào đó không
mang tính chất quyết định việc các bên xác lập
hợp đồng.
Hợp đồng được xác lập trên cơ sở bị đe
dọa. Điều 132 BLDS qui định: “Đe dọa trong
giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc
người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực
hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài
sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con
của mình.” Với qui định chung chung “Đe dọa
trong giao dịch là hành vi cố ý”, Điều 132
BLDS 2005 có thể gây hiểu lầm là bất cứ sự đe
dọa nào (không phải chỉ là những đe dọa
nghiêm trọng, cấp thiết) mang tính cố ý đều là
cơ sở để xem xét hiệu lực của hợp đồng. Bên
cạnh đó với sự liệt kê các thiệt hại cũng như
chủ thể gánh chịu thiệt hại, Điều 132 BLDS
không chỉ ra được bản chất mang tính khái quát
nhất của hành vi đe dọa dẫn đến sự vô hiệu của
hợp đồng đó là “không mang tính chính đáng”.
Sáu là: Hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng dân sự được ghi
nhận tại Điều 401BLDS 2005(4) thực chất chỉ là
sự sao chép lại Điều 124 BLDS, Điều 122, Điều
127 của Bộ luật này do vậy sự có mặt của điều
khỏan này là không cần thiết.
Hơn nữa, qui định “Trong trường hợp pháp
luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
______
(4) Đ i ều 4 0 1 . Hình thức hợp đồng dân sự
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật
không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng
một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải
được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng
thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các
quy định đó. Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp
có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực,
phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo
các quy định đó” của đoạn 1 khoản 2 Điều
401BLDS 2005 thiếu nhất quán so với qui định
“Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch
dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải
có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký
hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định
đó” tại khoản 2 Điều 124 BLDS. Đó là theo
khoản 2 Điều 124 BLDS, văn bản là một hình
thức bắt buộc của hợp đồng nhưng trong đoạn 1
khoản 2 Điều 401 BLDS 2005 lại qui định hình
thức của hợp đồng phải là văn bản có công
chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép. Với qui định thiếu nhất quán này dẫn đến
sự khó khăn trong việc áp dụng pháp luật.
Bảy là: Đề nghị giao kết hợp đồng
Khoản 1 Điều 390 qui định: “Đề nghị giao
kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này
của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
cụ thể.” Theo qui định này, đề nghị giao kết
hợp đồng cần có 3 yếu tố: Bên đề nghị giao kết
hợp đồng phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp
đồng; Bên đề nghị phải chịu sự ràng buộc về lời
đề nghị; Bên được đề nghị phải được xác định
cụ thể. Qui định này về cơ bản khá tương đồng
với thông lệ quốc tế(5) bởi cả Công ước Viên về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Bộ
nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế [3, 4] đều chỉ rõ được coi là
đề nghị giao kết hợp đồng nếu thỏa mãn ba điều
kiện: Nếu đủ rõ ràng, chính xác; Thể hiện rõ ý
chí của người đề nghị muốn tự ràng buộc khi đề
nghị giao kết được chấp nhận; Người được đề
nghị phải được xác định. Tuy nhiên, qua các qui
định nêu trên chúng ta cũng nhận Khoản 1 Điều
390 còn có điểm còn bất cập. Đó là: Thiếu qui
định về tính xác thực của đề nghị giao kết hợp
đồng; Có sự nhầm lẫn giữa sự thể hiện ý chí của
người đề nghị với hậu quả pháp lý của đề nghị
giao kết hợp đồng; Thu hẹp phạm vi người được
đề nghị (Bên được đề nghị phải được xác định cụ
______
(5) Xem Điều 14 Công ước Viên (CISG) và ĐIều 2.1.2 Bộ
nguyên tắc của UNIDROIT
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 216
thể) và do đó loại bỏ trường hợp đề nghị giao kết
hợp đồng được đưa ra cho nhiều người.
Khoản 2 Điều 390 qui định: “Trong
trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu
rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết
hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường
thiệt hại cho bên được đề nghị mà không
được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát
sinh”. Qui định này có thể dẫn đến việc hiểu
lầm là bên đề nghị giao kết hợp đồng chỉ chịu
sự ràng buộc nếu đề nghị có giao có nêu rõ thời
hạn trả lời. Do đó trong trường hợp đề nghị
không nêu rõ thời hạn trả lời, hoặc tuy có nêu
rõ thời hạn trả lời nhưng bên đề nghị không gây
thiệt hại cho bên được đề nghị thì bên đề nghị
cũng không phải chịu sự ràng buộc nào đối với
bên dược đề nghị.
Điều 394 BLDS 2005 quy định đề nghị
giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường
hợp: Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp
nhận; Hết thời hạn trả lời chấp nhận; Khi thông
báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu
lực; Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có
hiệu lực; Theo thỏa thuận của bên đề nghị và
bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời. Qui định mang tính liệt kê
này còn thiếu sót do chưa đề cập đến các trường
hợp: bên đề nghị, bên được đề nghị giao kết hợp
đồng hoặc cả hai bên chết, mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị phá sản trước khi bên được đề nghị
trả lời chấp nhận đề nghị; Đối tượng nêu trong đề
nghị giao kết dự kiến là đối tượng của của hợp
đồng không còn do bất khả kháng.
Tám là: Về chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng
Điều 396 BLDS qu i định: “Chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của
bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc
chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Qui
định này dường như áp dụng nguyên tắc “ảnh
qua gương” một cách máy móc và điều này dẫn
đến sự không hợp lý vì do qui định này dẫn đến
việc hiểu là mọi thay đổi, cho dù là nhỏ, không
làm thay đổi cơ bản các điều khoản của hợp
đồng và không mang tính chất quyết định việc
các bên xác lập hợp đồng cũng được xem là
không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và
đưa ra một đề nghị mới.
Đoạn 1 khoản 1 Điều 397 BLDS 2005
quy định: “Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn
trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu
bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả
lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này
được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.”
Quy định này vừa dựa trên “Thuyết tống
phát” lại vừa dựa trên “Thuyết tiếp thu” dẫn đến
việc không thống nhất khi áp dụng pháp luật.
Mặt khác nếu dựa trên cơ sở thuyết “tống phát”
thì rủi ro trong việc truyền đạt thông tin sẽ
thuộc về bên đề nghị. Bên cạnh đó Điều 397
BLDS 2005, chỉ qui định về thời hạn trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng khi đề nghị giao
kết hợp đồng nêu rõ thời hạn mà chưa qui định
thời hạn trả lời đối với trường hợp bên nghị
không nêu rõ thời hạn trả lời.
Điều 398, Điều 399 BLDS qui định hậu
quả pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng
trong trường hợp bên đề nghị và bên được đề
nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực
hành vi dân sự sau khi bên được đề nghị giao
kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng vẫn có giá trị nhưng đã bỏ sót qui định
loại trừ các trường hợp đề nghị hay chấp nhận
đề nghị gắn liền với nhân thân người đề nghị
hay người được đề nghị.
Chín là: Thời điểm giao kết hợp đồng
Theo Điều 404 BLDS 2005, hợp đồng
được giao kết vào thời điểm: Bên đề nghị nhận
được trả lời chấp nhận giao kết; Khi hết thời
hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im
lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết; Các bên đã thỏa thuận về
nội dung của hợp đồng trong trường hợp hợp
đồng bằng lời nói; Bên sau cùng ký vào văn bản
trong trường hợp hợp đồng được giao kết bằng
văn bản.
Như vậy, Điều 404 BLDS 2005 bên cạnh
việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 217
trên thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời
chấp nhận giao kết(6) còn xác định thời điểm
dó dựa trên hình thức giao kết hợp đồng(7).
Thời điểm giao kết hợp đồng trong luật các
nước được xác định dựa trên phương thức giao
kết hợp đồng (trực tiếp hay gián tiếp) và hình
thức trả lời chấp nhận. So với pháp luật các
nước, Điều 404 BLDS tỏ ra thiếu lôgic, không
chặt chẽ và gây khó khăn trong việc xác định
thời điểm giao kết hợp đồng bởi không phải
trong trường hợp nào thời điểm trả lời chấp
nhận giao kết cũng trùng với thời điểm hợp
đồng được thực hiện dưới một hình thức nhất
định. Chẳng hạn như thời điểm trả lời chấp
nhận đề nghị và “thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản” trong nhiều trường hợp hoàn
toàn cách xa nhau, bên cạnh đó “thời điểm bên
sau cùng ký vào văn bản” chỉ đúng với trường
hợp các bên trực tiếp giao kết hợp đồng bằng
văn bản và chỉ đúng với trường hợp các bên
tham gia giao kết là cá nhân.
Điều 404 mới chỉ đề cập đến thời điểm
giao kết hợp đồng trong hai trường hợp: hợp
đồng được giao kết bằng lời nói và hợp đồng
được giao kết dưới hình thức văn bản, chưa đề
cập đến trường hợp hợp đồng được giao kết
bằng hành vi cụ thể. Quy định tại Điều 404
BLDS dẫn đến khó khăn trong việc xác định
hợp đồng được giao kết vào thời điểm nào, đặc
biệt là trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng và
chấp nhận đề nghị có thể được các bên thực
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cuối
cùng, Điều 404 BLDS chưa quy định về thời
điểm giao kết hợp đồng trong các trường hợp
đặc biệt như hợp đồng mẫu, giao kết hợp đồng
trong đấu thầu
Mười là: Thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng
Theo Điều 405 BLDS “Hợp đồng được giao
kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác”. Như vậy, thời điểm có
______
(6) Khoản 1, 2 Điều 404 BLDS 2005
(7) Khoản 3, 4 Điều 404 BLDS 2005
hiệu lực của hợp đồng được ghi nhận tại Điều
405 liên quan chặt chẽ với hình thức của hợp
đồng. Điều này cho thấy qui định của BLDS
mặc dù đã mang tính dự liệu nhưng chưa bao
trùm hết các trường hợp.
Chẳng hạn, theo Điều 450 BLDS, khoản 3
Điều 93 Luật nhà ở, Điều 689 BLDS thì hợp
đồng mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có
công chứng hoặc chứng thực. Thời điểm có
hiệu lực của những hợp đồng này không được
quy định minh thị trong các văn bản pháp luật
nêu trên nhưng theo khoản 3 Điều 4 Luật công
chứng thì “văn bản được công chứng có hiệu
lực kể từ ngày công chứng viên ký và có đóng
dấu của tổ chức hành nghề công chứng”. Do
vậy, có thể hiểu thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đất được xác định tại thời điểm các bên
hoàn tất thủ tục công chứng. Nói cách khác,
trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng
phải được công chứng hoặc chứng thực thì sự
thỏa thuận khác của các bên sẽ không được áp
dụng do công chứng được xem là thủ tục mang
tính chất bắt buộc để làm phát sinh hiệu lực đối
với các hợp đồng.
Khoản 1 Điều 467 BLDS qui định “Tặng
cho bất động sản phải được lập thành văn bản
có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký,
nếu theo quy định của pháp luật bất động sản
phải đăng ký quyền sở hữu”. Theo qui định này,
hợp đồng tặng cho bất động sản nhất thiết phải
được lập thành văn bản còn người tham gia hợp
đồng có thể lựa chọn việc công chứng, chứng
thực hợp đồng hoặc đăng ký quyền sở hữu tài
sản. Nói cách khác, công chứng, chứng thực
hoặc đăng ký trong trường hợp này đều được
xem là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và
thời điểm công chứng, chứng thực hoặc đăng
ký chính là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 467 BLDS lại qui
định “Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng ký”. Quy định này đã
mâu thuẫn với chính qui định tại khoản 1 của
điều khoản này bởi theo nó để hợp đồng tặng
cho bất động sản có hiệu lực thì không có lựa
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 218
chọn nào khác ngoài đăng ký. Quy định thiếu
tính nhất quán này làm cho các bên tham gia
xác lập hợp đồng khó áp dụng, và đặc biệt nó
còn mâu thuẫn với với khoản 3 Điều 4 Luật
Công chứng.
Đối với hợp đồng thuê nhà ở lại có sự
khác biệt đôi chút. Đó là, theo Điều 492 BLDS
hợp đồng thuê nhà ở từ 6 tháng trở lên “phải
được lập thành văn bản, phải có công chứng
hoặc chứng thực và phải đăng ký”. Qua qui
định này ta nhận thấy, đối với loại hợp đồng
này các bên tham gia hợp đồng không có quyền
lựa chọn mà vừa phải công chứng, chứng thực
hợp đồng lại vừa phải đăng ký thì hợp đồng
mới có hiệu lực và thời điểm hợp đồng có hiệu
lực là thời điểm các bên hoàn tất thủ tục công
chứng, chứng thực và đăng ký. Nói cách khác,
đăng ký trong trường hợp này là điều kiện bắt
buộc để hợp đồng thuê nhà ở từ 6 tháng trở lên
có hiệu lực và thời điểm đăng ký là thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng. Như vậy, qui định tại
Điều 492 BLDS cũng tương tự như qui định tại
Điều 467 BLDS mâu thuẫn với với khoản 3
Điều 4 Luật Công chứng.
Theo Điều 134 BLDS những hợp đồng vi
phạm điều kiện về hình thức không bị coi là vô
hiệu khi một hoặc các bên yêu cầu xem xét.
Hợp đồng này chỉ vô hiệu khi hết thời hạn mà
Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác đã quyết
định buộc các bên thực hiện quy định về hình
nhưng các bên vẫn chưa thực hiện. Điều 134
BLDS đọc qua tưởng chừng sẽ hạn chế các giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về
hình thức, đảm bảo sự ổn định trong giao lưu
dân sự nhưng thực tế lại là chẳng những không
thực hiện được điều đó mà còn dẫn đến khó
khăn khi xác định thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng. Bởi theo Khoản 2 Điều 122, Khoản 2
Điều 124 và Khoản 2 Điều 401 BLDS, thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác định là
thời điểm hợp đồng được công chứng hoặc
chứng thực hoặc/và đăng ký. Tuy nhiên, điều
này lại mâu thuẫn với Điều 404 BLDS và Điều
405 BLDS bởi theo Điều 405 BLDS hợp đồng
sẽ có hiệu lực ở thời điểm giao kết chứ không
phải ở thời điểm hoàn tất hình thức bắt buộc
của hợp đồng.
BLDS không qui định cụ thể thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp hợp
đồng được xác lập bởi người không có thẩm
quyền đại diện hoặc được xác lập do vượt quá
thẩm quyền đại diện nhưng sau đó được người
được đại diện chấp nhận. Điều này dẫn đến khó
khăn khi xác định thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng. Bởi nếu xem thời điểm hợp đồng được
xác lập trong hai trường hợp này là trường hợp
“pháp luật có quy định khác” mà Điều 405
BLDS qui định thì theo Khoản 1 Điều 145
BLDS 2005, đối với hợp đồng do người không
có thẩm quyền đại diện xác lập, thời điểm này
được xác định là thời điểm người đã giao dịch
với người không có quyền đại diện thông báo
cho người được đại diện hoặc người đại diện
hay thời điểm người được đại diện hoặc người
đại diện trả lời trong thời hạn ấn định? Và theo
Khoản 1 Điều 146 BLDS 2005, đối với hợp
đồng do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện, thời điểm này được xác
định là thời điểm người được đại diện đồng ý
hoặc biết mà không phản đối?
Mười một là: Hiệu lực của hợp đồng
Tiêu đề của Điều 405 BLDS là “Hiệu lực
của hợp đồng” nhưng Điều 405 BLDS chỉ đề
cập đến thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chứ
không qui định về hiệu lực của hợp đồng. Thiếu
sót này có thể được giải quyết bằng qui định tại
đoạn 3 Điều 4 BLDS: “Cam kết, thoả thuận hợp
pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các
bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác tôn trọng”. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là
qui định này là nguyên tắc chung áp dụng cho
mọi “Cam kết, thoả thuận hợp pháp” chứ không
chỉ rõ hiệu lực của hợp đồng và phạm vi chủ thể
gồm “các bên” và “cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác” được xác định ở đây gồm quá rộng. Nói
cách khác, BLDS hiện nay chưa qui định về
hiệu lực tương đối của hợp đồng - hiệu lực ràng
buộc các bên trong hợp đồng,
Mười hai là: Hợp đồng vô hiệu
Khoản 1 Điều 410 BLDS qui định: “Các
quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều
127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp
dụng đối với hợp đồng vô hiệu”. Thực chất qui
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 219
định này là không cần thiết bởi Điều 121 BLDS
đã nêu: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương” và Điều 127
BLDS đã chỉ rõ: “Giao dịch dân sự không có
một trong các điều kiện được quy định tại Điều
122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
Theo Điều 134 BLDS, trong trường hợp
các bên vi phạm điều kiện hình thức là điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng thì theo yêu cầu
của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các
bên thực hiện quy định về hình thức của giao
dịch. Tuy nhiên, qui định này không thể thực
hiện được trên thực tế do Điều 41 Luật Công
chứng quy định “Người yêu cầu công chứng,
người làm chứng phải ký vào văn bản công
chứng trước mặt công chứng viên” nên công
chứng viên không thể chứng nhận trên hợp
đồng mà các bên đã giao kết. Nếu muốn công
chứng viên chứng nhận trên hợp đồng, các bên
phải giao kết lại hợp đồng [5]. Nói cách khác,
Điều 134 BLDS không thể áp dụng được trong
trường hợp các bên chưa thực hiện đúng điều
kiện hình thức hợp đồng buộc phải có công
chứng, chứng thực.
Thực tế trong trường hợp một hoặc các
bên yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác xem xét một hợp đồng là vô hiệu do
vi phạm điều kiện về hình thức thì thường là
trường hợp trong đó lợi ích của các bên trái
ngược nhau, một bên mong muốn hoàn tất điều
kiện về hình thức, ngược lại một bên chẳng
những không mong muốn hoàn tất điều kiện về
hình thức mà mong muốn tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu. Với mong muốn trái ngược như
vậy, chắc chắn việc hoàn tất điều kiện về hình
thức của hợp đồng là khó, thậm chí là không thể
thực hiện được. Như vậy, sự tồn tại Điều 134
BLDS và xa hơn là khoản 2 Điều 122 BLDS
cũng như khoản 2 Điều 124 BLDS, khoản 2
Điều 401BLDS không có nhiều ý nghĩa.
Điều 130 BLDS 2005 qui định “Khi giao
dịch dân sự do người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
thì theo yêu cầu của người đại diện của người
đó, Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu
theo quy định của pháp luật giao dịch này phải
do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”.
Qui định này cho thấy BLDS chưa thực sự công
bằng do chỉ bảo vệ theo một chiều người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà chưa
đặt ra việc bảo vệ người tham gia xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự với người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự nhưng người đó
không biết và không buộc phải biết đối tác của
mình là người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự thậm chí ngay cả trong trường hợp
người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, đặc biệt là đối với trường hợp người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có lỗi
trong việc làm cho người xác lập thực hiện giao
dịch với họ hiểu sai về năng lực của họ mà giao
kết hợp đồng.
BLDS chưa có qui định bảo vệ quyền và
lợi ích của người xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự với người bị đe dọa hoặc bị lừa dối
nhưng không biết và không buộc phải biết
người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch với
mình bị đe dọa, lừa dối.
Mặt khác, qui định “Bên có lỗi gây thiệt
hại phải bồi thường” của khoản 2 Điều 137
BLDS đặt trong tổng thể Điều 137 BLDS có thể
gây ra hiểu lầm “Bên có lỗi” chỉ có thể là các
bên xác lập, thực hiện hợp đồng trong khi đó
theo Điều 132 BLDS, người thực hiện hành vi
lừa dối, đe dọa có thể là người thứ ba chứ
không nhất thiết là một trong các bên tham gia
hợp đồng.
Như vậy, các qui định về hợp đồng vô
hiệu, nói riêng và hợp đồng nói chung trong
BLDS 2005 dường như được qui định một cách
tách biệt với nhau chứ không đặt chúng trong
một tổng thể cũng như không nhận thấy mối
liên hệ có thể có giữa chúng với nhau.
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 220
Cuối cùng là: Thời hiệu yêu cầu tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Điều 136 BLDS 2005 qui định:
“1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ
Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai
năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
2. Đối với các giao dịch dân sự được quy
định tại Điều 128 và Điều 129 của Bộ luật này
thì thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu không bị hạn chế.” Quy định
này có hai điểm bất cập cần xem xét. Đó là:
Theo khoản 1 Điều 136 BLDS 2005, thời
hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
được quy định từ Điều 130 BLDS đến Điều 134
BLDS (giao dịch dân sự vô hiệu tương đối) là
hai năm bắt đầu từ thời điểm xác lập là không
phù hợp và không bảo vệ được quyền lợi chính
đáng của bên bị vi phạm bởi trên thực tế không
phải bất cứ hợp đồng nào ngay sau khi được
xác lập, người xác lập cũng có thể biết được
hợp đồng mà họ xác lập có khiếm khuyết hoặc
mặc dù biết về những khiếm khuyết đó nhưng
không thể khắc phục được (do hành vi lừa dối
gian xảo, khéo léo mà chưa biết mình bị lừa
hoặc tuy biết bị đe dọa nhưng sự đe dọa vẫn
chưa chấm dứt). Và do vậy nếu tính thời hiệu
kể từ ngày xác lập giao dịch thì quyền và lợi ích
của họ có thể không được bảo vệ vì khi biết
được mình bị lừa dối hoặc khi sự đe dọa chấm
dứt thì đã hết thời hiệu khởi kiện.
Mặt khác, nguyên nhân dẫn đến hợp đồng
vô hiệu trong những trường hợp này là vi phạm
điều kiện tự nguyện khi giao kết hợp đồng. Do
đó, cơ sở để xác định thời hiệu khởi kiện yêu
cầu pháp luật bảo vệ phải được tính từ thời
điểm người xác lập, thực hiện hợp đồng hoặc
người đại diện của người đó ý thức được sự
không phù hợp giữa ý chí đích thực và sự thể
hiện của người đó. Có như vậy quy định về thời
hiệu mới có ý nghĩa.
Theo khoản 2 Điều 136 BLDS 2005, thời
hiệu yêu cầu hợp đồng vô hiệu được quy định
tại Điều 128 và Điều 129 BLDS (giao dịch dân
sự vô hiệu tuyệt đối) “không bị hạn chế” là
không có ý nghĩa về mặt pháp lý bởi đã làm
mất đi ý nghĩa của thời hiệu. Mặt khác, với thời
gian “không bị hạn chế” như vậy, liệu còn có
đủ chứng cứ chứng minh hay không.
Do vậy, theo chúng tôi, thời hiệu yêu cầu
tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đối với
các trường hợp qui định tại Điều 128 và 129
BLDS cần được xác định bằng một con số
chính xác, đủ lâu (30 năm) để vẫn đảm bảo
được tính nghiêm khắc của điều luật đối với các
hành vi vi phạm nói trên và có thể bảo vệ cao
nhất lợi ích chung cũng như bảo đảm được trật
tự, an toàn trong giao lưu dân sự.
Đây là một số những bất cập của chế định
hợp đồng trong BLDS 2005 cần sớm được sửa
đổi bổ sung để BLDS có thể đạt được hiệu quả
điều chỉnh, xứng đáng với vai trò là một bộ luật
chung và đảm bảo sức sống lâu bền.
Tài liệu tham khảo
[1] Đỗ Văn Đại, Vị trí của Bộ luật Dân sự trong lĩnh
vực hợp đồng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7
(2008) 23.
[2] Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do
hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và
kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, số 6 tháng 3 (2009) 28.
[3] Đỗ Thành Công, Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi
phạm hợp đồng, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4
(2010) 30.
[4] Dương Anh Sơn, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
điều chỉnh bằng pháp luật đối với vi phạm hợp đồng
khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 4 (2006) 36.
B.T.T. Hằng, Đ.G. Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 212‐221 221
Priliminary Evaluation of the Regulations on Contract
in Vietnamese Civil Code 2005
Bùi Thị Thanh Hằng, Đỗ Giang Nam
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam
The authors attempt to evaluate the regulations on contract in Vietnamese Civil Code 2005,
figuring out 13 constraints and weaknesses in its provisions, and suggesting some ways for reforming
them during the revision of the Civil Code in order to ensure the vitality of the New Civil Code.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1144_1_2230_1_10_20160520_6406_2126783.pdf