Đặc trưng văn hóa – dân tộc trong thành ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật

Tài liệu Đặc trưng văn hóa – dân tộc trong thành ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 56 Đặc trưng văn hóa – dân tộc trong thành ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật The cultural – ethnic identity of Vietnamese animal idioms TS. Đỗ Thị Thu Hương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Do Thi Thu Huong, Ph.D., Hanoi National University of Education 2 Tóm tắt Bài viết của chúng tôi tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc trong nội dung ý nghĩa của nhóm thành ngữ có sử dụng hình ảnh động vật làm chất liệu biểu trưng. Chính việc sử dụng chất liệu biểu trưng là hình ảnh động vật cho thấy rõ dấu ấn riêng biệt của nền văn hóa Việt Nam được phản chiếu thông qua thành ngữ. Đồng thời, qua đó, chúng ta cũng thấy được đặc điểm tư duy của người Việt được thể hiện qua ngôn ngữ, nổi lên đó là lối tư duy hình tượng, trực quan sinh động, thích cách nói giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm. Từ khóa: thành ngữ, động vật, ý nghĩa biểu trưng. Abstract This paper presents the cultural-ethnic identit...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 722 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc trưng văn hóa – dân tộc trong thành ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 56 Đặc trưng văn hóa – dân tộc trong thành ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật The cultural – ethnic identity of Vietnamese animal idioms TS. Đỗ Thị Thu Hương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Do Thi Thu Huong, Ph.D., Hanoi National University of Education 2 Tóm tắt Bài viết của chúng tôi tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc trong nội dung ý nghĩa của nhóm thành ngữ có sử dụng hình ảnh động vật làm chất liệu biểu trưng. Chính việc sử dụng chất liệu biểu trưng là hình ảnh động vật cho thấy rõ dấu ấn riêng biệt của nền văn hóa Việt Nam được phản chiếu thông qua thành ngữ. Đồng thời, qua đó, chúng ta cũng thấy được đặc điểm tư duy của người Việt được thể hiện qua ngôn ngữ, nổi lên đó là lối tư duy hình tượng, trực quan sinh động, thích cách nói giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm. Từ khóa: thành ngữ, động vật, ý nghĩa biểu trưng. Abstract This paper presents the cultural-ethnic identity in the meanings of idioms containing images of animals as their symbolic representation. It is the use of animals as symbolic representation that shows distinctive hallmarks of Vietnamese culture which are reflected in Vietnamese idioms. Besides, it can be seen that the thinking style of Vietnamese people is expressed through their language, especially with symbolic thought, visual aids and ways of speaking rich in imagery and expressiveness. Keywords: idioms, animal, representation. 1. Đặt vấn đề Các nhà ngôn ngữ học trên thế giới cũng như trong nước đều thừa nhận giữa ngôn ngữ của một dân tộc và văn hóa của dân tộc đó có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng tồn tại trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Ngôn ngữ vừa là một phương tiện của văn hóa vừa là một hợp phần (nếu không nói là hợp phần quan trọng nhất) của văn hóa. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ, những giá trị văn hóa, tinh thần, những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của một dân tộc được bảo tồn và được lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Để làm sáng tỏ mối quan hệ này, bài viết của chúng tôi phân tích đặc trưng văn hóa - dân tộc của thành ngữ tiếng Việt qua nhóm thành ngữ có sử dụng hình ảnh các loài động vật để tạo nên ý nghĩa biểu trưng. Chính việc sử dụng các chất liệu biểu trưng sẽ cho thấy rõ dấu ấn riêng biệt của từng nền văn hóa được phản chiếu trong thành ngữ. Trong một số trường hợp, chúng tôi cũng cố gắng so sánh chất liệu biểu trưng trong thành ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật và thành ngữ của các dân tộc ĐỖ THỊ THU HƯƠNG 57 khác. Bởi lẽ, "chỉ có sự tiếp xúc với các nền văn hóa khác, so sánh cái của mình với cái của người khác mới cho phép coi những yếu tố nào đó của một nền văn hóa có địa vị đặc trưng khu biệt" [7]. Về mặt lí thuyết, chúng tôi vận dụng quan niệm về nghĩa biểu trưng của Nguyễn Đức Tồn được giới thiệu trong cuốn Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy [7]. 2. Nội dung 2.1. Khái quát về thành ngữ tiếng Việt Theo quan niệm của các nhà từ vựng học, thành ngữ là những cụm từ cố định, có sẵn, được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác. Về chức năng, thành ngữ là đơn vị tương đương với từ, dùng để gọi tên sự vật hiện tượng hay biểu thị khái niệm. Về ý nghĩa, thành ngữ thường mang tính hình tượng, tính bóng bảy, gợi tả. Thành ngữ có hai đặc điểm nổi bật: Về kết cấu, thành ngữ là loại cụm từ có tính cố định, ổn định, chặt chẽ. Các cụm từ tự do không có đặc điểm này. Chính tính chất chặt chẽ, cố định về thành phần cấu tạo mà thành ngữ được dùng tương đương như từ. Về ngữ nghĩa, nghĩa của thành ngữ là có tính hoàn chỉnh, bóng bẩy và tính gợi cảm cao. Nghĩa của thành ngữ không phải là nghĩa đen của các yếu tố cấu thành cộng lại mà là nghĩa bóng, nghĩa toàn khối. Nghĩa này được suy ra trên cơ sở nghĩa của các yếu tố cấu thành. Chẳng hạn, thành ngữ chó ngáp phải ruồi không phải nói về sự tình một con chó ngáp đớp phải con ruồi, mà dùng để "ví trường hợp không có tài năng, chỉ nhờ may mắn hiếm có mà đạt được cái gì" [7,176]. Nghĩa của thành ngữ là kết quả của quá trình biểu trưng hóa. Quá trình biểu trưng được thực hiện theo con đường liên tưởng tương đồng hoặc tương cận. Theo con đường tương đồng, ta có các thành ngữ ẩn dụ hoặc so sánh, theo con đường tương cận ta có các thành ngữ hoán dụ. 2.2. Kết quả khảo sát Theo thống kê của chúng tôi, kho tàng thành ngữ tiếng Việt có 731 thành ngữ có chứa hình ảnh động vật. Các loài động vật xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt rất phong phú, đa dạng, thuộc nhiều loài khác nhau, từ gia súc, gia cầm, các loài thủy hải sản, côn trùng đến động vật hoang dã. Chúng tôi đã thống kê được 82 loài động vật xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt, bao gồm các con vật như trâu, bò, lợn gà, chim, cá, voi, dê, ngựa, kiến, cò, vạc, sếu, chào mào, công, cú, quạ, cuốc, vẹt, thỏ, cáo, đười ươi, hùm, beo, lươn, cua, chạch, ốc, ghẹ, đỉa, tôm, tép, rắn, rết, giun, gián, chấy, rận, nhộng, tằm, rươi v.v Dựa vào mối quan hệ gần gũi giữa con người với các loài động vật, chúng tôi phân chia các loài động vật xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt thành một số nhóm như sau: Nhóm 1: Những loài động vật có mối quan hệ gần gũi với con người. Đó có thể là những loài vật nuôi trong gia đình như chó, lợn, gà, mèo, vịt, ngan; động vật nuôi phục vụ cho lao động như trâu, bò, ngựa; các loài thủy hải sản như tôm, cua, ốc, ghẹ, cá,; một số loài côn trùng như sâu, gián, bướm, chấy, rận, chuồn chuồn, kiến, ong, ve; một số loài thuộc họ chim như cò, vạc, chim, công, cú, quạ; một số động vật lưỡng cư như ếch, nhái, cóc Nhóm 2: Những loài động vật hoang dã, bao gồm hổ, cọp, beo, cáo, hùm, thỏ, voi, khỉ, đười ươi Đây chủ yếu là những loài động vật sống hoang dã trong rừng, ít gần gũi với cuộc sống của con người. Dưới đây là bảng phân loại và tần số xuất hiện của các loài động vật trong thành ngữ tiếng Việt được xếp theo thứ tự từ cao đến thấp. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA – DÂN T C TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VI T CÓ CHỨA HÌNH ẢNH Đ NG VẬT 58 STT Tên gọi động vật Tần số xuất hiện Tỉ lệ % STT Tên gọi động vật Tần số xuất hiện Tỉ lệ % Nhóm động vật gần gũi với con người 45 sên 2 0.27 1 Chó 79 10.81 46 Chấy 2 0.27 2 cá 56 7.66 47 Rận 2 0.27 3 Gà 50 6.83 48 Rết 2 0.27 4 trâu 34 4.65 49 Nhện 2 0.27 5 bò 33 4.51 50 Vạc 1 0.14 6 mèo 32 4.38 51 Sếu 1 0.14 7 chim 29 3.97 52 Cắt 1 0.14 8 Chuột 26 3.56 53 ó 1 0.14 9 Ngựa 22 3.01 54 Dẽ 1 0.14 10 cua 19 2.60 55 Dẻ cùi 1 0.14 11 Cò 17 2.32 56 Cun cút 1 0.14 12 tôm 15 2.05 57 Diều hâu 1 0.14 13 Vịt 15 2.05 58 dê 1 0.14 14 Rồng 12 1.64 59 rùa 1 0.14 15 Cú 12 1.64 60 gián 1 0.14 16 Ong 11 1.50 61 Nhộng 1 0.14 17 Kiến 11 1.50 62 Đom đóm 1 0.14 18 Lợn 9 1.23 63 Chào mào 1 0.14 19 ếch 9 1.23 64 Ghẹ 1 0.14 20 lươn 7 0.96 65 Cà cuống 1 0.14 21 ve 7 0.96 66 Tò vò 1 0.14 22 cáy 7 0.96 67 Bọ nẹt 1 0.14 23 Quạ 7 0.96 68 Bọ chó 1 0.14 24 rươi 6 0.82 69 Bọ ngựa 1 0.14 25 Rắn 5 0.68 70 Lừa 1 0.14 26 Đỉa 5 0.68 71 Giải 1 0.14 27 ốc 5 0.68 Cộng 71 631 86.31 28 công 5 0.68 Nhóm động vật hoang dã ĐỖ THỊ THU HƯƠNG 59 STT Tên gọi động vật Tần số xuất hiện Tỉ lệ % STT Tên gọi động vật Tần số xuất hiện Tỉ lệ % 29 Cuốc 5 0.68 30 cóc 5 0.68 31 dơi 5 0.68 72 voi 35 4.79 32 Nghé 5 0.68 73 hùm 19 2.60 33 Tằm 4 0.55 74 Khỉ 9 1.23 35 Chạch 4 0.55 75 Hổ 8 1.09 36 Chuồn chuồn 4 0.55 76 cáo 7 0.96 37 Ngỗng 4 0.55 77 Vượn 7 0.96 38 Hến 3 0.41 78 Cọp 6 0.82 39 Nhái 3 0.41 79 Thỏ 4 0.55 40 Hến 3 0.41 80 Sói 3 0.41 41 Bướm 3 0.41 81 sóc 1 0.14 42 Vẹt 2 0.27 83 Đười ươi 1 0.14 43 Khướu 2 0.27 Cộng 11 100 13.69 44 Hạc 2 0.27 Tổng 82 731 100 Do khuôn khổ của bài báo, chúng tôi không thể phân tích được hết ý nghĩa biểu trưng của tất cả các thành ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật. Dưới đây chúng tôi lựa chọn một số loài động vật tiêu biểu, có tần số xuất hiện cao trong thành ngữ tiếng Việt. Đồng thời, đây cũng là những con vật gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa, tinh thần của con người Việt Nam. 2.3. Ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh động vật trong thành ngữ tiếng Việt Có thể khẳng định, do điều kiện địa lí tự nhiên, điều kiện kinh tế, văn hóa... mà mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có những loài động vật tiêu biểu. Từ bao đời nay, người Việt đã biết dùng súc vật vào việc canh tác lúa nước và trong đó, hình ảnh con trâu đã gắn bó với người nông dân Việt Nam như hình với bóng. Con trâu được ví như là người bạn của nông dân Việt Nam, là tài sản vô cùng quý giá đối với người nông dân. Những cách nói Con trâu là đầu cơ nghiệp, Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà... đã cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của con trâu đối với đời sống tinh thần và vật chất của con người Việt Nam. Cũng chính vì lẽ trên, hình ảnh con trâu không chỉ xuất hiện nhiều trong ca dao, thơ văn mà còn được sử dụng phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nhiều thành ngữ đã dùng hình ảnh con trâu để biểu đạt. Theo thống kê của chúng tôi, có 34 thành ngữ (chiếm 4,65%) sử dụng hình ảnh con trâu làm chất liệu biểu trưng. Tuy con trâu gắn bó, gần gũi, thân thiết với nhà nông, nhưng khi xuất hiện ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA – DÂN T C TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VI T CÓ CHỨA HÌNH ẢNH Đ NG VẬT 60 trong thành ngữ, trâu thường mang nét nghĩa đánh giá âm tính. Để biểu trưng cho những kẻ lề mề, chậm chạp, thiếu nhanh nhẹn, tháo vát thì sẽ bị thiệt thòi trong cuộc sống, người Việt ta chọn cách nói hình ảnh trâu chậm uống nước đục. Tư duy nông nghiệp của người Việt được thể hiện rõ qua các hình ảnh ẩn dụ trâu, nước đục. Cũng nội dung trên, người Bỉ lại có cách diễn đạt rất cụ thể, rõ ràng: Kẻ nào đến muộn thì sẽ trông thấy cái đĩa lật úp (He who arrives too late finds the plates turned over) [dẫn theo 6]. Do đặc tính chậm chạp, nặng nề, trong thành ngữ tiếng Việt, trâu còn biểu trưng cho những người đần độn, kém hiểu biết, không biết thưởng thức cái hay cái đẹp, qua thành ngữ đàn gẩy tai trâu. Trong khi để châm biếm những kẻ ngu dốt, người Hi Lạp có câu: Thật vô ích khi gõ cửa kẻ điếc (It is useless to knock at the door of a deap man) [dẫn theo 6]. Rõ ràng cùng biểu đạt một nội dung nhưng qua hai thành ngữ, chúng ta thấy cách nói của người Hi Lạp phản ánh tư duy logic, chính xác, cụ thể; còn cách nói của người Việt phản ánh tư duy trực quan, sinh động, gợi hình. Biểu thị quá trình biến đổi từ chất này thành chất khác, người Việt cũng mượn hình ảnh con trâu qua cách nói cứt trâu để lâu hóa bùn. Ý nghĩa này lại được người Lào đúc kết bằng câu Thức ăn để lâu hay thối, chuyện cũ không kể sẽ quên. Như trên đã nói, trong quan niệm của người Việt, con trâu là một tài sản có giá trị, "là đầu cơ nghiệp". Quan niệm này cũng đã được phản ánh vào thành ngữ: ba bò chín trâu, chín đụn mười trâu, ruộng sâu trâu nái... Trâu lúc này biểu trưng cho cuộc sống no đủ, dư giả về kinh tế. Gắn liền hình ảnh con trâu là con bò. So với bò, trâu vẫn chiếm vị trí cao hơn trong tâm thức ngôn ngữ của người Việt. Tuy nhiên, kết quả thống kê của chúng tôi lại cho thấy, số lượng thành ngữ có hình ảnh bò (33 thành ngữ) tương đương với số lượng thành ngữ có hình ảnh trâu (34 thành ngữ). So sánh ý nghĩa biểu trưng của hai hình ảnh trâu và bò trong thành ngữ tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy điểm tương đồng trong ý nghĩa biểu trưng của hai hình ảnh này, đó là cả trâu và bò đều mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống no đủ, dư giả về kinh tế, biểu hiện qua các thành ngữ ba bò chín trâu. Bên cạnh điểm tương đồng đó, bò còn mang nhiều ý nghĩa biểu trưng khác. Chẳng hạn, để biểu đạt nội dung đối phó quá muộn, không biết lo xa đề phòng trước, người Việt dùng hình ảnh mất bò mới lo làm chuồng. Trong khi đó, người Đức nói: Chỉ khi mất ngựa người ta mới lo rào chuồng (only when the horse have escaped do men repair the stable) [dẫn theo 6]. Do đặc điểm của nền văn hóa du mục nên với người phương Tây chiếc xe ngựa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ là phương tiện đi lại mà còn biểu trưng cho sự sang hèn, và ngựa cũng là con vật được yêu quý, được chăm sóc chu đáo và có giá trị cao. Thực tế, bò là động vật có tiếng kêu to, dựa vào đặc điểm này, người Việt đã dùng hình ảnh bò để biểu trưng cho những âm thanh ồn ào, ầm ĩ: cãi nhau như mổ bò, ngáy như bò rống, rống như bò, kêu như bò rống Phần lớn các thành ngữ có hình ảnh bò đều mang sắc thái đánh giá tiêu cực. Gần gũi với cuộc sống đồng ruộng của con người Việt Nam còn có hình ảnh con cò. Loài động vật nhỏ bé, yếu đuối này xuất hiện khá nhiều trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Việt và trở thành biểu tượng của những người nông dân hiền lành, chất phác, thấp cổ bé miệng hoặc biểu trưng cho người phụ nữ cần cù, lam ĐỖ THỊ THU HƯƠNG 61 lũ, chịu khó. Thống kê của chúng tôi cho thấy có 17 thành ngữ (chiếm 2.32%) xuất hiện hình ảnh con cò. Khi xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt, hình ảnh con cò mang nhiều nghĩa biểu trưng. Trước hết, cò là biểu tượng gắn với những cánh đồng mênh mông, rộng lớn: thẳng cánh cò bay. Cò còn biểu trưng cho thân phận nhỏ bé, hèn mọn của người nông dân trong xã hội cũ, qua thành ngữ thân cò cũng như thân chim. Để chỉ sự uổng công vô ích, làm cho người khác hưởng, người ta dùng hình ảnh cốc mò cò xơi. Hay cò được dùng để chỉ những kẻ cơ hội, lợi dụng tình hình rối ren để trục lợi: đục nước béo cò. Con cò sớm hôm mò tép ngoài đồng lúc này biểu trưng cho kẻ cơ hội, mang nét nghĩa đánh giá âm tính. Cũng là con cò nhưng với người Tày, hình ảnh này lại mang ý nghĩa khác: nước đục cò chết đói. Cò trong thành ngữ này thường chỉ kẻ đáng thương, đục mang nghĩa bóng không có điều kiện sống. Trong thành ngữ tiếng Việt, đục lại biểu trưng cho hoàn cảnh tranh tối tranh sáng, điều kiện có lợi nếu biết tranh thủ. Như vậy, rõ ràng là, sự liên tưởng tương đồng về các loài động vật ở các dân tộc khác nhau cũng rất khác nhau. Nhìn chung, những con vật xuất hiện trong thành ngữ thuần Việt thường là những con vật quen thuộc, gắn bó, gần gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Việt. Từ con trâu, con gà, con lợn, con chó cho đến những con vật hết sức bé nhỏ như con cua, con cáy, con giun, con ốc, con kiến, con chấy, con rận... đều có thể trở thành chất liệu biểu trưng trong thành ngữ tiếng Việt. Dựa vào đặc điểm ngoại hình, tập tính của các loài động vật này mà người Việt đã chiêm nghiệm, phản ánh vào thành ngữ nhằm nói lên những chuyện của thế giới loài người. Chẳng hạn, hình ảnh con chó. Chó là một trong những loài vật sống gần gũi nhất với con người. Nếu trong văn hóa châu Âu, chó là con vật được cưng chiều, được nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo bao nhiêu thì dưới cái nhìn của người Việt chó lại bị coi thường, khinh bỉ bấy nhiêu. Có lẽ vì vậy, những thói hư tật xấu của con người đều được người Việt Nam ví với chó. Dựa vào tập tính ăn ở của loài động vật này, người Việt đã tạo nên những thành ngữ như ngu như chó, bẩn như chó. Đặc tính hay sủa và hay cắn người của chó là chất liệu tạo nên thành ngữ chó cậy gần nhà, chó dại cắn càn, ở đây, chó biểu trưng cho thói hung hăng. Ở một số thành ngữ khác, chó lại được dùng để biểu trưng cho những thân phận hèn kém: chó có váy lĩnh, chó chui gầm chạn, chó cắn áo rách... Để chỉ mối quan hệ không hòa thuận, người Việt Nam cũng dùng hình ảnh chó qua các thành ngữ như chó với mèo, chó chê mèo lắm lông.. Sắc thái biểu thái thể hiện trong các thành ngữ này là âm tính. Chúng tôi đã thống kê được 79 thành ngữ, tiếng Việt có hình ảnh con chó. Nhóm thành ngữ này chiếm tỉ lệ cao nhất (10.81%) trong số các loài động vật xuất hiện trong thành ngữ. Điểm thú vị là, hầu hết các thành ngữ này đều biểu thị thái độ mỉa mai, chê bai, chế giễu, coi thường, thậm chí là khinh bỉ. Một hình ảnh khác là con chuột. Loài động vật gặm nhấm, chuyên kiếm ăn về đêm này đã trở thành chất liệu tạo nên các thành ngữ chuột sa chĩnh gạo, chuột chạy cùng sào, cháy nhà mới ra mặt chuột, hôi như chuột chù... Tương tự như chó, chuột cũng là loài vật đáng bị khinh ghét nên sắc thái biểu thái trong các thành ngữ này thường là mỉa mai, châm biếm, chế giễu... Qua những ví dụ trên đây chúng ta nhận thấy, việc sử dụng hình ảnh con vật ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA – DÂN T C TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VI T CÓ CHỨA HÌNH ẢNH Đ NG VẬT 62 làm chất liệu biểu trưng phản ánh rất rõ dấu ấn riêng biệt của từng vùng miền, từng quốc gia, từng dân tộc. Các dân tộc khác nhau có thể có điểm tương đồng về hệ động vật. Tuy nhiên, điểm khác nhau là cùng biểu đạt một ý nghĩa biểu trưng, mỗi dân tộc lại chọn những hình ảnh biểu trưng (là các con vật) khác nhau. Việc lựa chọn chất liệu biểu trưng này rõ ràng là hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, quan niệm của mỗi dân tộc về các loài động vật. Chính điều này làm cho sự liên tưởng ẩn dụ về các loài động vật ở mỗi dân tộc mỗi khác. Bên cạnh các loài gia súc, các loài gia cầm (như chim, gà, vịt, ngan...) cũng được sử dụng làm chất liệu biểu trưng trong thành ngữ thuần Việt. Chẳng hạn, gà là một trong những loài vật sống gần gũi nhất với con người. Thời còn khó khăn, mỗi gia đình người Việt thường nuôi dăm ba con trong nhà nhằm tận dụng thức ăn thừa và cải thiện bữa ăn cho gia đình. Chính điều này đã giúp người Việt quan sát rõ về những đặc điểm, tập tính của loài gà, từ đó, dùng hình ảnh gà làm chất liệu biểu trưng trong nhiều thành ngữ. Chúng tôi đã thống kê được có tới 50 thành ngữ có hình ảnh con gà. Gà là loài vật hay bới phá, từ đó chúng mang nghĩa biểu trưng chỉ ý tự do đùa nghịch, làm bậy khi người trên hoặc chủ nhà đi vắng (thường là trẻ con): vắng chủ nhà, gà vọc niêu tôm hay vắng chủ nhà, gà bới bếp. Cũng vẫn nội dung này, người Somalia lại dùng chất liệu biểu trưng là con khỉ: Khi người đàn ông đi vắng, con khỉ ăn bắp và vào lều của ông ta (When the man is away, the monkey eats his corn and goes into his hut) [dẫn theo 6]. Tiếp tục khai thác đặc điểm hay bới bếp của gà, người Việt ví những người viết chữ xấu là chữ như gà bới. Dáng điệu vội vã, tất bật của gà trước khi đẻ là chất liệu tạo nên thành ngữ te tái như gà mái mắc đẻ. Từ việc quan sát sự lúng túng của gà khi chân vướng tóc, cha ông ta đã ví với trạng thái lúng túng của con người khi sa vào nhiều việc rắc rối: lúng túng như gà mắc tóc Chim cũng là loài động vật xuất hiện trong nhiều thành ngữ. Chúng tôi thống kê được có 29 thành ngữ tiếng Việt xuất hiện hình ảnh chim. Đặc điểm của chim là loài động vật biết bay, thân hình phủ một lớp lông. Từ việc quan sát hình ảnh con chim tự do tung cánh trên bầu trời, người ta ví như chim sổ lồng, cá bể chim trời/chim trời cá nước... Một điều đáng lưu ý là hình ảnh chim ít xuất hiện độc lập mà thường đi kèm với cá. Từ việc khai thác những đặc tính của hai loài động vật này cha ông ta tạo nên những thành ngữ: cá chậu chim lồng biểu thị sự gò bó, tù túng, bị giam hãm; chim trên lửa, cá dưới dao biểu trưng cho cảnh sống nguy hiểm, nơm nớp chờ đợi tai họa. Với nội dung phê phán những kẻ vô ơn, bội bạc, người ta cũng dùng cặp hình ảnh chim - cá: được chim quên ná, được cá quên nơm. Trong khi đó, để diễn đạt nội dung này, người Pháp có một câu nói rất cụ thể: Khi vinh quang đến thì kí ức đã ra đi (When glory comes, memory the departs). Chỉ những kẻ có tâm địa xấu xa, phản trắc, không biết đâu mà lường người Việt cũng dùng hình ảnh chim - cá qua thành ngữ lòng chim dạ cá. Như trên đã nói, hiện tượng biểu trưng mang đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc tùy theo đặc thù văn hóa của dân tộc mình mà lựa chọn chất liệu biểu trưng cho phù hợp. Ở nhóm thành ngữ có hình ảnh động vật, chúng ta thấy rằng, cùng diễn đạt một ý nghĩa biểu trưng, người Việt có thể sử dụng những hình ảnh con vật khác nhau. Cùng miêu tả tính nhút nhát, e dè, sợ sệt, người ta có thể so sánh với loài cáy: nhát ĐỖ THỊ THU HƯƠNG 63 như cáy, song cũng có thể ví với con thỏ: nhát như thỏ đế. Hoặc chỉ trạng thái cơ thể gầy gò, người ta có thể ví gầy như mắm, gầy như cò hương, gầy như que củi, gầy như cá rô đực... Những chất liệu biểu trưng (mắm, cò hương, que củi, cá rô đực...) trong các thành ngữ kể trên mang đậm dấu ấn của nền văn hóa nông nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, người phương Tây lại so sánh gầy như que diêm. Chỉ những kẻ ngu ngốc, đần độn, người Việt dùng một loạt các hình ảnh so sánh: ngu như bò, ngu như chó, ngu như lợn... Trong khi người Pháp lại dùng hình ảnh con lừa qua cách nói ngu như lừa. Biểu thị trạng thái lúng túng, người Việt có nhiều cách nói: lúng túng như gà mắc tóc, lúng túng như ếch vào xiếc, lúng túng như thợ vụng mất kim, lúng túng như chó ăn vụng bột,... Điều này cho thấy cùng một trạng thái, tính chất nhưng do quan sát từ nhiều góc độ khác nhau, người Việt đã tạo nên những thành ngữ đồng nghĩa biểu trưng. Từ những ví dụ đã dẫn, chúng ta lại càng thấy rõ đặc điểm tư duy nổi bật của người Việt được thể hiện qua ngôn ngữ là tư duy hình tượng, trực quan sinh động, thích cách nói giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm. Như vậy, xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt, mỗi loài động vật tùy theo đặc điểm ngoại hình, tập tính hay đặc điểm sinh học mà chuyển tải những ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Song, tựu trung lại, có hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản chi phối đến sự chuyển nghĩa của thành ngữ có chứa hình ảnh động vật, đó là phương thức ẩn dụ và hoán dụ. 3. Kết luận Tóm lại, nghĩa biểu trưng của thành ngữ là một trong những phương diện biểu hiện rõ nhất bản sắc dân tộc của tiếng Việt. Bản sắc dân tộc đó thể hiện ở việc sử dụng chất liệu để biểu trưng và cách thức biểu trưng. Cách dùng hình ảnh động thực vật là một trong những hiện tượng biểu trưng đặc thù của tiếng Việt. Các chất liệu biểu trưng này cũng phản ánh rất rõ lối liên tưởng của con người Việt Nam trong cách thức biểu trưng, mà nổi lên là lối tư duy hình tượng, ưa thích lối nói ví von, hình ảnh và giàu tính biểu cảm - sản phẩm của một nền văn hóa trọng tình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Hữu Châu (1997), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Đỗ Hữu Châu (2000), “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ (10), tr.1-18. 3. Hoàng Văn Hành (2008), Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội 4. Nguyễn Lai (1993), “Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa”, in trong Việt Nam, Những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, tr.5-8. 5. Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (1978), Thành ngữ tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội 6. Nguyễn Văn Nở (2009), “Dấu ấn văn hóa - dân tộc qua chất liệu biểu trưng của tục ngữ người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 3, tr.60-72. 7. Hoàng Phê (1992) (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ, Hà Nội. 8. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy (tái bản có chỉnh lí và bổ sung), Nxb Từ điển Bách khoa. Ngày nhận bài: 02/7/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf42_7435_2215094.pdf
Tài liệu liên quan