Tài liệu Đặc điểm từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017
140
Đặc điểm từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
Art of manipulation of reduplicatives in “điếu” styled poems
by Nguyen Dinh Chieu
ThS.NCS. Nguyễn Ngọc Phú
Trường Đại học Đồng Tháp
Nguyen Ngoc Phu, M.A. Ph.D.student
Dong Thap University
Tóm tắt
Nguyễn Đình Chiểu là tác gia tiêu biểu nhất của văn học Nam Bộ. Sức tác động của văn chương
Nguyễn Đình Chiểu đối với người đọc không chỉ ở truyện thơ Lục Vân Tiên mà còn ở mảng thơ điếu.
Một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ở thơ điếu của ông là vận dụng từ láy một cách độc đáo, sáng
tạo góp phần thể hiện tâm trạng nhà thơ trước thời cuộc và nhất là tái hiện hoàn cảnh lịch sử, địa danh
của Lục tỉnh Nam kỳ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Qua khả năng biểu đạt của các từ láy, ông tự hào
ngợi ca những vị lãnh binh anh dũng, giãi bày nỗi đau đối với những người trung nghĩa đã hy sinh vì đất
nước và nhân dân.
Từ khóa: từ láy, thơ điếu, Nguyễn...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017
140
Đặc điểm từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
Art of manipulation of reduplicatives in “điếu” styled poems
by Nguyen Dinh Chieu
ThS.NCS. Nguyễn Ngọc Phú
Trường Đại học Đồng Tháp
Nguyen Ngoc Phu, M.A. Ph.D.student
Dong Thap University
Tóm tắt
Nguyễn Đình Chiểu là tác gia tiêu biểu nhất của văn học Nam Bộ. Sức tác động của văn chương
Nguyễn Đình Chiểu đối với người đọc không chỉ ở truyện thơ Lục Vân Tiên mà còn ở mảng thơ điếu.
Một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ở thơ điếu của ông là vận dụng từ láy một cách độc đáo, sáng
tạo góp phần thể hiện tâm trạng nhà thơ trước thời cuộc và nhất là tái hiện hoàn cảnh lịch sử, địa danh
của Lục tỉnh Nam kỳ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Qua khả năng biểu đạt của các từ láy, ông tự hào
ngợi ca những vị lãnh binh anh dũng, giãi bày nỗi đau đối với những người trung nghĩa đã hy sinh vì đất
nước và nhân dân.
Từ khóa: từ láy, thơ điếu, Nguyễn Đình Chiểu.
Abstract
Nguyen Dinh Chieu is the most typical author of Vietnamese Southwestern literature. Nguyen Dinh
Chieu’s literary influences on readers are not only “Luc Van Tien” but also Dieu styled poems. One of
the best artistic characteristics of his “điếu” styled poems is the manipulation of reduplicatives in a
unique and creative manner, which contributes to expressing his feelings towards the then social reality,
especially, describing the historical context, prescribing administrative names located in the Six
provinces of the South during wartime. Through his abilities of using reduplication, he proudly praised
the heroic army leaders, expressed the pain of loss for those who have been wholeheartedly loyal to the
country and people.
Keywords: reduplicative, “điếu” styled poem, Nguyen Dinh Chieu.
1. Nguyễn Đình Chiểu là là một tác gia
lớn của văn học Việt Nam trung đại, là
trường hợp tiêu biểu nhất cho khuynh hướng
văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế
kỷ XIX. Cũng chính Nguyễn Đình Chiểu là
người có công lớn nhất, sớm nhất đưa văn
học Nam Bộ đi vào quỹ đạo của văn học cả
nước. Với ba truyện thơ Nôm dài: Lục Vân
Tiên (viết trước khi Thực dân Pháp xâm
lược nước ta/ 1858), Dương Từ - Hà Mậu,
và Ngư Tiều y thuật vấn đáp (viết sau 1858),
Nguyễn Đình Chiểu lại đưa truyện Nôm
phát triển theo một hướng khác với truyện
Nôm truyền thống, đưa truyện Nôm gắn liền
với những vấn đề thời sự nóng bỏng của dân
tộc và thời đại - vấn đề chống chủ nghĩa
NGUYỄN NGỌC PHÚ
141
thực dân phương Tây, chống sự nô thuộc
văn hóa ngoại lai. Ngoài truyện Nôm, mảng
văn tế và thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
với nhiều tác phẩm xuất sắc (Văn tế nghĩa sỹ
Cần Giuộc, Văn tế Trường Định, 10 bài thơ
điếu Trương Định, 12 bài điếu Phan Tòng, 2
bài khóc Phan Thanh Giản) cũng thực sự là
hiện tượng văn học độc đáo vào loại “có một
không hai”. Ngôn từ của các bài văn tế và
thơ điếu vừa nêu không chỉ giàu tính biểu
cảm, biểu niệm, mà còn rất giàu tính biểu
vật, biểu tượng; không chỉ là tiếng lòng thiết
tha nhất của một con người (cá nhân nhà
thơ) mà còn là tiếng lòng thiết tha nhất của
nhân dân Nam Bộ đối với những anh hùng
vì nước mà hy sinh. Một trong những loại từ
tạo nên những lớp sóng ngôn từ xúc động ấy
là từ láy.
Từ láy là những từ được cấu tạo theo
phương thức láy - “phương thức lặp lại
toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết ()
của một hình vị hay đơn vị có nghĩa” (Đỗ
Hữu Châu), “là từ được cấu tạo bằng cách
nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất
định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong
từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hòa với nhau
về âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng
hóa” (Hoàng Văn Hành) Trong văn học,
đặc biệt là trong thơ ca, từ láy có chức
năng và vai trò quan trọng khó có thể thay
thế (khả năng biểu cảm, biểu niệm, biểu
vật, biểu tượng)... Từ láy trong mảng sáng
tác thuộc hai thể văn tế và thơ điếu của
Nguyễn Đình Chiểu (ở bài viết này chỉ
khảo sát ở mảng thơ điếu) không chỉ có ý
nghĩa biểu cảm, biểu niệm, biểu vật, mà
còn thể hiện rất chân thực, sinh động đặc
trưng ngôn ngữ vùng Nam Bộ.
2. Khả năng biểu cảm, biểu niệm của
từ láy trong mảng thơ điếu (khóc thương
những anh hùng vì nước mà hy sinh) của
Nguyễn Đình Chiểu tuy mộc mạc, giản dị
nhưng có sức gợi thật sâu xa. Qua khảo sát
12 bài Thơ điếu Trương Định, 10 bài Thơ
điếu Phan Tòng, 2 bài Thơ điếu Phan
Thanh Giản, chúng tôi thấy có 22 từ láy,
trong đó từ láy bộ phận: 20 từ, chiếm
90,9%; từ láy hoàn toàn: 02 từ (đâu đâu,
dàu dàu), chiếm 9,1% (cụ thể hơn: ở 12 bài
Thơ điếu Trương Định có 16 từ láy, chiếm
72,8%; ở 10 bài Thơ điếu Phan Tòng có 03
từ, chiếm 13,6%; ở 2 bài Thơ điếu Phan
Thanh Giản có 3 từ, chiếm 13,6%). Xin
xem bảng thống kê dưới đây:
Bảng thống kê các từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
TT Phạm vị khảo sát
Số lượng
từ láy
Phân loại
Tỷ lệ % Từ láy
bộ phận
Từ láy
hoàn toàn
1
12 bài thơ điếu
Trương Định
16 từ láy lâm dâm, sảng sốt, bâng khuâng, lỡ
dở, chống chỏi, chàng ràng, thở
than, xững vững, om sòm, lác đác,
kêu rêu, náu nương, thình lình,
xăng văng, ngơ ngẩn
đâu đâu 72,8%
2
10 bài thơ điếu
Phan Tòng
3 từ láy nhảy nhót, xếu mếu, bâng khuâng 13,6%
3
2 bài thơ điếu Phan
Thanh Giản
3 từ láy tan tành, thung dung dàu dàu 13,6%
Tổng cộng 22 20 (90,9%) 02 (9,1%)
ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
142
Bảng khảo sát cho thấy, về đặc điểm
cấu tạo, theo số lượng âm tiết, Nguyễn
Đình Chiểu chỉ có sử dụng từ láy đôi
(không có từ láy ba, láy tư). Theo quy tắc
điệp và đối, tác giả sử dụng từ láy hoàn
toàn tương đối ít (chỉ có 2 từ), còn đa số
là từ láy bộ phận. Các từ láy ở đây được
gắn với nội dung và giá trị biểu đạt riêng,
có hiệu quả cao trong biểu cảm, biểu
niệm, thể hiện rõ tâm trạng nhà thơ trước
thời cuộc. Không những thế, những từ láy
này còn góp phần khắc họa hình tượng
con người trung nghĩa yêu nước - hình
tượng thẩm mỹ trung tâm của thời đại với
những nét đẹp riêng trong tính cách,
phẩm giá (giản dị, bộc trực, khảng khái,
hành động cụ thể, rõ ràng, giám hy sinh
vì nghĩa lớn). Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ
nỗi xót thương đối với người anh hùng
cùng các nghĩa quân qua những câu thơ
đầy cảm động:
Mấy dặm non sông đều xững vững
Nạn dân ách nước để ai toan?
(Thơ điếu Trương Định - Bài 7)
Từ láy xững vững góp phần quan
trọng trong thể hiện không chỉ niềm tiếc
thương vô hạn mà còn cả sự choáng váng
của “mấy dặm non sông” trước sự ra đi
của lãnh binh Trương Định.
Ở bài 8 trong Thơ điếu Trương Định,
Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ:
Giặc cỏ om sòm mưa lại nhóm
Binh sương lác đác nắng liền thâu
(Thơ điếu Trương Định - Bài 8)
Om sòm là từ láy vần, có phần vần,
âm chính trùng lặp nhưng khác thanh
điệu và phụ âm đầu. Lác đác có phần
vần, âm chính trùng lặp, khác phụ âm đầu
nhưng lại giống thanh điệu. Từ láy om
sòm tỏ thái độ châm biếm, nhạo báng, lên
án những kẻ phản quốc dẫn đường cho
giặc, khiến cho phong trào kháng Pháp
phải chịu nhiều tổn thất, mất mát. Binh
sương lác đác chỉ sự thưa thớt, chóng tàn
như thời cuộc, khắc họa cảnh quê hương
bị giặc Pháp xâm chiếm như cảnh “nắng
liền thâu”.
Nguyễn Đình Chiểu tự hào, ngợi ca
công lao Trương Định - vị lãnh binh nghĩa
hiệp, chiến đấu đến cùng và dũng cảm hy
sinh vì sự sống còn của mảnh đất Nam
Bộ, của độc lập dân tộc. Với tính cương
trực, khẳng khái của người Nam Bộ, vị
anh hùng hướng mũi tấn công vào quân
xâm lược dẫu biết rằng lực lượng đôi bên
không ngang sức:
Hay dở phải chăng trời cũng biết
Một tay chống chỏi mấy năm dài
(Thơ điếu Trương Định - Bài 4)
Chống chỏi - từ láy âm có phụ âm
đầu trùng nhau giữa các tiếng, phần âm
chính, vần cuối khác biệt ở các tiếng độc
lập, thể hiện ý chí kiên cường, không chịu
khuất phục trước mọi khó khăn, gian khổ
suốt mấy năm dài.
Nguyễn Đình Chiểu cũng dành cho
Phan Tòng một tình cảm sâu nặng, càng
trân trọng, ngưỡng mộ tinh thần vì nghĩa
của Phan Tòng:
Sao ra nhảy nhót giữa vòng danh
Son đóng chưa khô ấn đốc binh
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 4)
Từ láy nhảy nhót có sự trùng lặp phụ
âm đầu nhưng khác biệt phần âm chính,
vần cuối, giúp nhà thơ diễn tả quyết tâm
của Phan Tòng khi đến với cuộc chiến
đấu: hăm hở, hăng hái đứng lên quyết
chiến với kẻ thù, dù son đóng chưa khô
trên ấn đốc binh của ông.
Trước cảnh kẻ thù xâm chiếm quê
hương, nhân dân điêu đứng lầm than,
triều đình đứng ngoài vòng thế sự,
Nguyễn Đình Chiểu giãi bày niềm trăn
trở qua Thơ điếu Phan Tòng:
NGUYỄN NGỌC PHÚ
143
Ai khiến cuộc hòa ra cuộc chiến
Người qua An Lái luống bâng khuâng
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 7)
Hay:
Bâng khuâng ngày xế cả than trời
Ai đổ cho người gánh nạn đời
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 8)
Từ láy bâng khuâng diễn tả trạng
thái luyến tiếc, lo lắng cho nhân dân phải
gánh chịu nạn xâm lược của Thực dân
Pháp. Câu thơ gợi cảm giác buồn cho
thân phận con người và gợi câu hỏi: ai đã
làm “cuộc hòa ra cuộc chiến” khiến nhân
dân phải lầm than, khiến ai đi qua địa
danh An Lái cũng phải chạnh lòng luyến
tiếc, xót xa ?. Từ láy sử dụng trong câu
thơ thể hiện thái độ đau xót Nguyễn Đình
Chiểu khi viết về thân phận quần chúng
nhân dân nói chung và Trương Định,
Phan Tòng nói riêng. Nhân dân tự mình
đứng lên kháng Pháp. Còn các quan lớn,
hỏi một câu, nghe mà đau lòng:
E nỗi dạ đài quan lớn hỏi
Cớ sao xếu mếu cảnh Ba Tri?
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 5)
Từ láy xếu mếu gợi tả tình cảnh điêu
đứng của nhân dân không biết phải làm
như thế nào trước kẻ thù hung bạo.
Trước cái chết của Phan Thanh Giản,
Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ niềm xót
thương và ngợi ca tấm lòng trung quân -
ái quốc của vị đại thần phải thừa hành
đường lối sai lầm của vua Tự Đức qua 2
bài thơ (1 bài thơ chữ Nôm, 1 bài thơ chữ
Hán). Bằng những lời thơ trầm buồn,
“nhà thơ kể lại sơ lược công trạng của
Phan Thanh Giản và tấm lòng trung trinh
của vị lão thần đã trải thờ ba triều vua,
gặp cảnh thế yếu đành liều chết theo
thành để giữ tròn chữ tiết tháo”(1). Phan
Thanh Giản thấy mình có tội với nhân
dân nên đành chết đi để giữ tròn chữ
“tiết”. Vì thế nỗi lòng, phẩm chất của ông
càng được nêu cao. Thực sự, cho đến
nay, độ lùi về thời gian đã cho thấy Phan
Thanh Giản là một con người chính trực,
nhân nghĩa, yêu nước và có tư tưởng
canh tân. Ông Võ Văn Kiệt rất có cơ sở
khi nhận định: “Phan Thanh Giản vẫn
còn là con người đáng kính trọng, đáng
tôn vinh, một danh nhân của dân tộc ta,
phải coi Phan Thanh Giản là người yêu
nước thương dân, không phản quốc hại
dân”(2); “Tôi khẳng định Phan Thanh
Giản là người yêu nước, thương dân, một
phẩm cách đáng kính trọng”(3). Nguyễn
Đình Chiểu xót thương cho tình thế khó
xử của vị lão thần, thông cảm, thấu hiểu
tấn bi kịch và cũng muốn bênh vực cho
hành động của Phan Thanh Giản, thấy
được Phan Thanh Giản giữ tiết nhọc
nhằn, giám hy sinh và cũng chịu nhiều
oan khuất, cố gắng giữ cho tròn chữ tiết
đối với triều đình và nhân dân.
Tất cả những từ láy như: lâm dâm,
sảng sốt, bâng khuâng, lỡ dở, chống chỏi,
đâu đâu, chàng ràng, thở than, xững
vững, om sòm, lác đác, kêu rêu, náu
nương, thình lình, xăng văng, ngơ ngẩn
(trong Thơ điếu Trương Định); nhảy
nhót, xếu mếu, bâng khuâng (trong Thơ
điếu Phan Tòng); và tan tành, dàu dàu,
thung dung trong Thơ điếu Phan Thanh
Giản được Nguyễn Đình Chiểu sử dụng
rất độc đáo và giàu sức gợi tả. Các thành
tố của từ láy có sự tương quan với nhau
về thanh điệu hoặc các bộ phận ngữ âm
tạo nên nội dung ngữ nghĩa nhất định.
Quan hệ này thể hiện sự hòa phối, lặp lại
về âm giữa các thành tố trong từ. Chính
sự hòa phối và lặp lại này đem lại tính
biểu trưng về nghĩa cũng như sắc thái
biểu cảm của từ láy. Các từ láy trên góp
phần thể hiện giá trị biểu đạt về tư tưởng,
ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
144
tình cảm đối với các nhân vật trung
nghĩa, làm sáng thêm chân dung những
anh hùng nghĩa hiệp ở Nam Bộ.
3. Từ láy trong thơ điếu của Nguyễn
Đình Chiểu mang đậm màu sắc phương
ngữ Nam Bộ. Bên cạnh sử dụng từ láy
toàn dân, thơ điếu của ông còn sử dụng
những từ láy là phương ngữ Nam Bộ.
Ngoài 10 năm sống ở kinh đô Phú Xuân,
hầu hết cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu
gắn bó với nhân dân Nam Bộ, và sáng tác
của ông hướng tới đối tượng trước hết là
người dân Nam Bộ. Từ láy thể hiện màu
sắc phương ngữ Nam Bộ, đem đến những
giá trị, đặc trưng rất riêng trong phong
cách văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Đó
là các từ: sảng sốt, chống chỏi, chàng
ràng, xững vững,, thình lình, xăng văng,
xếu mếu, thung dung, Hầu hết các từ
trên đều được ghi trong Từ điển từ ngữ
Nam Bộ do Huỳnh Công Tín biên soạn.
Tuy nhiên, trong phương ngữ Nam Bộ,
“người nói có thể dựa vào sự gần gũi về
âm mà phát âm biến dạng đi hoặc nói trại
đi một bộ phận nào đó trong âm tiết, miễn
là âm hưởng chung của toàn âm tiết không
biến khác hoàn toàn thì người nghe vẫn
nhận ra được tiếng gốc”(4). Từ láy thể hiện
màu sắc phương ngữ Nam Bộ trong thơ
điếu Nguyễn Đình Chiểu cũng có hiện
tượng này.
Các từ láy phản ánh cách đánh giá
của người Nam Bộ về sự vật, hiện tượng
hay tính cách thể hiện màu sắc phương
ngữ Nam Bộ, có từ tương ứng trong ngôn
ngữ toàn dân. Từ láy mang đậm tính
phương ngữ trong những bài thơ điếu của
Nguyễn Đình Chiểu có sức khái quát toàn
bộ tình hình của nghĩa quân. Khi tướng
quân xuất hiện, phong trào đấu tranh
chống giặc xâm lược trỗi dậy; khi tướng
quân mất đi, thế cuộc của nghĩa quân
thay đổi, lâm vào trạng thái khó khăn,
không còn khả năng trụ vững. Từ láy
xững vững trong Thơ điếu Trương Định
khiến lời thơ trở nên bi tráng:
Mấy dặm non sông đều xững vững
Nạn dân ách nước để ai toan?
(Thơ điếu Trương Định - Bài 7)
Xững vững có nghĩa: choáng váng,
“hoa mắt” vì bị một tác động mạnh, bất
ngờ; có khả năng suy sụp; điêu đứng lao
đao, nghiêng ngả, ở trạng thái không ổn
định (Theo Từ điển từ ngữ Nam Bộ -
Huỳnh Công Tín, tr.1368).
Từ láy thể hiện màu sắc Nam Bộ
trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
dựa trên sự gần gũi với từ địa phương hay
dựa trên một đơn vị vốn là một từ địa
phương. Từ láy được Nguyễn Đình Chiểu
tạo ra gần gũi với từ địa phương, thực sự
có ý nghĩa nghệ thuật. Từ láy thể hiện
màu sắc phương ngữ Nam Bộ góp phần
tạo nên sự đa dạng, phong phú, làm giàu
thêm không chỉ cho phương ngữ Nam Bộ
mà còn cho vốn từ láy tiếng Việt.
4. Từ láy trong thơ điếu của Nguyễn
Đình Chiểu còn góp phần “làm sống lại”
lịch sử, địa danh vùng Lục tỉnh Nam kỳ
cách đây đã gần hai thế kỷ. Thơ điếu của
ông mang tính chất thời sự, đồng thời thể
hiện tâm trạng đau xót của tác giả trước
sự hy sinh anh dũng của các anh hùng
lãnh binh. Trong Thơ điếu Trương Định,
từ láy ít nhiều phản ánh thời gian, không
gian lịch sử vùng đất Nam Bộ hào hùng:
Quân thân còn gánh nặng hai vai
Lỡ dở công trình hệ bởi ai?
(Thơ điếu Trương Định - Bài 4)
Thời gian được phản ánh trong Thơ
điếu Trương Định là thời gian vùng đất
Nam Bộ gặp nhiều khó khăn trong việc
chống quân xâm lược, thông qua từ láy
lỡ dở, Nguyễn Đình Chiểu phản ánh
NGUYỄN NGỌC PHÚ
145
phần nào tình trạng bấy giờ đang diễn ra.
Từ láy lỡ dở có phần vần trùng lặp, khác
phụ âm đầu, khác thanh điệu nhằm biểu
thị sự không hoàn thành được trọn vẹn
một việc gì đó, chưa thực hiện xong mà
còn đang ở tình trạng lỡ dở. Nguyễn
Đình Chiểu muốn nói đến cuộc kháng
chiến chống xâm lược của các vị lãnh
binh và nhân dân ta chưa hoàn thành, vậy
mà tướng quân hy sinh, biết tìm ai tiếp
tục lãnh đạo cuộc chiến đấu chống quân
xâm lược:
Đâu vầy sấm chớp nổ thình lình
Gió hạc thêm buồn mấy đạo binh
(Thơ điếu Trương Định - Bài 11)
Từ láy thình lình thật giản dị, gần gũi
nhưng gây ấn tượng sâu sắc về sự bất
ngờ, đột nhiên của sấm chớp (ám chỉ khói
lửa chiến tranh).
Trương Định mất đi là một tổn thất
lớn, là sự đau xót khôn cùng, không chỉ
nhân dân đau xót mà cảnh vật thiên nhiên
cũng đượm nỗi bâng khuâng:
Nghe chốn Lý Nhơn người sảng sốt
Nhìn cồn Đa Phước cảnh bâng khuâng
(Thơ điếu Trương Định - Bài 3)
Khi nghe tin Trương Định hy sinh, ở
chốn Lý Nhơn người nghe sảng sốt. Đây
là trạng thái sảng sốt, bàng hoàng vì sự
việc diễn ra một cách đột ngột, cảnh cồn
Đa Phước cũng phải bâng khuâng. Từ láy
bâng khuâng thể hiện trạng thái lo lắng
trước sự hy sinh của vị lãnh binh yêu
nước, làm cồn Đa Phước cũng phải xót
xa, u buồn. Đây là vùng đất đầy nghĩa
tình, không chỉ con người mà mảnh đất
nơi đây cũng mang nặng những tâm tư
tình cảm giống như con người, buồn
thương cho con người. Mấy dặm non
sông đều thảng thốt khi hay tin Trương
Định mất đi. Các từ láy gắn liền với
những địa danh và cảnh vật thiên nhiên
cụ thể được nêu trong các bài thơ làm
sống dậy tinh thần của vùng đất Nam Bộ
nửa sau thế kỷ XIX:
Ai khiến cuộc hòa ra cuộc chiến
Người qua An Lái luống bâng khuâng
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 7)
Ngựa trạm xăng văng miền Bắc khuyết
Xe nhung ngơ ngẩn cõi Tây Ninh
(Thơ điếu Trương Định - Bài 11)
Các từ láy xăng văng (có sự giống
nhau ở âm chính, âm cuối), ngơ ngẩn
(giống nhau phụ âm đầu, âm chính và âm
cuối khác biệt) giúp người thời nay hình
dung cụ thể nơi trạm ngựa xăng văng, thể
hiện trạng thái không ổn định, không chỉ
ở miền Nam mà cả ở miền Bắc khuyết
cũng lo lắng; cõi Tây Ninh, xe nhung
cũng ngẩn ngơ, đầy buồn lo, không yên
trước thực tại thời bấy giờ...
Trong Thơ điếu Phan Thanh Giản,
Nguyễn Đình Chiểu viết:
Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự
An đắc thung dung tựu nghĩa thần
(Thơ điếu Phan Thanh Giản - Bài 2)
Thung dung (từ láy Hán) có sự giống
nhau về âm chính, âm vần cuối diễn tả sự
ung dung, có vẻ như thư thả của Phan
Thanh Giản trước khi chết. Lòng trung
quân - ái quốc của cụ - một con người trải
ba triều vua, đến cuối đời vẫn quyết giữ
tiết trong sạch, khó ai có thể hiểu hết
được. Bi kịch của Phan Thanh Giản cũng
là bi kịch của cả một thời đại trước thực
trạng sáu tỉnh Nam kỳ lọt vào tay thực
dân Pháp. Các từ láy (dĩ nhiên đặt trong
chỉnh thể câu thơ, bài thơ) tuy không diễn
tả một cách cụ thể chi tiết về hoàn cảnh
lịch sử vùng đất Nam Bộ, nhưng gợi cho
chúng ta cảm nhận tâm trạng đau khổ của
nhân dân Nam kỳ trong những ngày bị
Pháp tấn công quyết liệt. Các vị lãnh binh
cũng đành phải bất lực:
ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
146
Gò Công binh giáp hãy chàng ràng
Ngó Bắc trông Nam luống thở than
(Thơ điếu Trương Định - Bài 7)
Gò Công là nơi chịu nhiều đau
thương mất mát, nhân dân luôn sống
trong cảnh hồi hộp, âu lo, binh giáp cũng
chàng ràng. Từ láy thở than (có sự trùng
lặp về âm đầu, phần âm chính và âm vần
cuối khác biệt) gợi lên một không khí u
buồn, vắng lặng trước sự tàn phá của
quân xâm lược, góp phần tái hiện hoàn
cảnh lịch sử đau thương nơi Gò Công -
vùng đất Nam Bộ chịu nhiều đau thương,
mất mát ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.
Trong Thơ điếu Phan Tòng, Nguyễn
Đình Chiểu mô tả tình cảnh thật thảm
thương của nhân dân Ba Tri:
E nỗi dạ dài quan lớn hỏi
Cớ sao xếu mếu cảnh Ba Tri
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 5)
Cái chết của Phan Tòng khiến nhân
dân Ba Tri rơi vào hụt hẫng, đau đớn
khôn cùng. Còn ai có thể lãnh đạo phong
trào yêu nước ? Các quan lớn thời bấy
giờ không quan tâm gì đến nhân dân, lại
còn hỏi “cớ sao xếu mếu”, làm cho lòng
người càng căm giận hơn. Từ láy xếu
mếu (hai từ tố khác nhau ở phụ âm đầu)
vừa bày tỏ sự xót thương, vừa thể hiện
lòng căm thù đối với bọn tay sai bán
nước hại dân. Có thể thấy các từ láy trong
các bài thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
gần gũi, bình dị nhưng có khả năng biểu
vật (tái hiện cuộc sống) một cách cụ thể
sinh động, tạo nên nét đặc trưng trong
cách ngôn từ của Nguyễn Đình Chiểu.
5. Từ láy góp phần đắc lực trong khắc
họa hình tượng con người trung nghĩa yêu
nước - mẫu hình con người đẹp nhất trong
văn học yêu nước nửa sau thế kỷ XIX mà
Nguyễn Đình Chiểu là người tiên phong
tìm kiếm, xây dựng. Có thể thấy các tác
giả của khuynh hướng văn học yêu nước –
chống Pháp ở giai đoạn nửa sau thế kỷ
XIX đều là nhà nho hành đạo. Nguyễn
Đình Chiểu cũng là nhà nho hành đạo,
nhưng do hoàn cảnh riêng – bị mù, cách
hành đạo của ông khác các nhà nho khác.
Không thể trực tiếp tham gia kháng Pháp,
ông vẫn theo dõi sát phong trào, tìm cách
tham mưu cho các lãnh tụ nghĩa quân –
nhất là Trương Định. Trương Định trong
văn tế và thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
thực sự là một anh hùng, một tấm gương
trung nghĩa hiếm có:
Giúp đời dốc trọn ơn nam tử
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần
Cái chết của Trương Định khiến
người anh hùng Lỡ dở công trình. Nhưng
Lỡ dở công trình hệ bởi ai? Câu thơ đặc
biệt có từ láy lở dở hàm chứa bao đau
xót, tiếc thương, và oán trách thời thế,
oán trách triều đình
Với Phan Thanh Giản – nhân vật
phức tạp hơn, qua những vần thơ đầy ẩn
ý, Nguyễn Đình Chiểu vừa xót thương,
chia xẻ, vừa có chút trách móc người bạn
trước bài toán trung quân – ái quốc. Xét
trong quan hệ với lý tưởng trung quân,
Phan Thanh Giản là vị quan trung thần,
trong quan hệ với nhân dân ông thấy
mình chưa làm tròn nghĩa vụ, chưa thực
hiện được việc nghĩa cứu dân nên đành
tuẫn tiết. Hành động tuẫn tiết của Phan
Thanh Giản cũng là một biểu hiện đáng
trân trọng của con người trung nghĩa.
Phan Thanh Giản mất đi, nhân dân Nam
Bộ đau xót; đất trời, non nước cỏ cây
cũng chịu cảnh thảm sầu:
Non nước tan tành hệ bởi đâu
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao Châu
(Thơ điếu Phan Thanh Giản - Bài 1)
Vì đâu mà non nước tan tành? Từ
láy tan tành có phụ âm đầu trùng lặp và
NGUYỄN NGỌC PHÚ
147
có phần vần khác biệt, thể hiện sự tan ra
từng mảnh, gợi hình ảnh nhà cửa, ruộng
vườn đã bị giặc Pháp tàn phá tan tành. Từ
láy dàu dàu hoàn toàn giống nhau về
thành phần cấu tạo, ngữ nghĩa, nhưng
khác nhau về trọng âm nhằm thể hiện thái
độ nhấn mạnh của tác giả và kéo dài ra
trong khi phát âm. Trọng âm rơi vào
tiếng thứ hai của từ láy dàu dàu, chỉ sự
héo úa của cây cỏ, nhấn mạnh sự héo tàn,
tang thương. Các từ láy đậm tính gợi
hình, gợi cảnh tượng chiến tranh chết
chóc, nhà cửa, ruộng vườn bị tàn phá, gợi
sự tang tóc bao trùm lên quê hương.
6. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn
của dân tộc, là ngọn cờ đầu của thơ văn
yêu nước chống Pháp giai đoạn nửa sau
thế kỷ XIX. Cuộc đời Nguyễn Đình
Chiểu là tấm gương sáng về đạo đức và
lòng yêu nước, đặc biệt thái độ sống và
chiến đấu vì chính nghĩa, vì vận mệnh
của dân tộc và nhân dân. Từ láy là một
trong những yếu tố đặc sắc của ngôn ngữ
thơ nói chung, thơ điếu nói riêng của
Nguyễn Đình Chiểu, góp phần quan trọng
tạo nên sự thấm thía, dư ba cho nhiều vần
thơ viết tự đáy lòng của tác giả. Các từ
láy được lựa chọn, vận dụng, tổ chức
trong các câu thơ/ bài thơ một cách hợp
lý, góp phần hữu hiệu trong biểu đạt nội
dung tư tưởng, giãi bày cảm xúc, tâm
trạng của nhà thơ và nhân dân trước sự ra
đi của người anh hùng cứu nước. Từ láy
trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
còn thể hiện chân thực sắc thái phương
ngữ Nam Bộ, như là dấu ấn khắc ghi hiện
thực một thời bi thương và hào hùng của
lịch sử vùng Lục tỉnh Nam Kỳ...
Chú thích:
(1)
Ngô Viết Dinh: Đến với thơ Nguyễn Đình
Chiểu, Nxb Thanh niên, 2002, tr.676.
(2) (3)
Nhiều tác giả: Thế kỷ XIX nhìn về nhân vật
lịch sử Phan Thanh Giản, Tạp chí Xưa và
nay phối hợp với Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức Hội thảo khoa học, 2003, tr.274 - 279.
(4)
Trần Thị Ngọc Lang: Phương ngữ Nam Bộ
những khác biệt về từ vựng - ngữ nghĩa so
với phương ngữ Bắc Bộ, Nxb KHXH Hà
Nội, 1985, tr.123.
(5)
Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu: Thơ văn
Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà văn, 2005,
tr.886.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng
Việt, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
2. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa
tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
3. Ngô Viết Dinh (2002), Đến với thơ Nguyễn
Đình Chiểu, Nxb Thanh niên.
4. Nhiều tác giả (2003), “Thế kỷ XIX nhìn về
nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản”, Tạp chí
Xưa và nay phối hợp với Trung tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức Hội thảo khoa học.
5. Hoàng Văn Hành (1985), Từ láy trong tiếng
Việt, Nxb Khoa học Xã hội.
6. Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu (2005),
Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà
văn.
7. Nguyễn Nguyên Trứ (1970), “Một số suy
nghĩ xung quanh việc xác định từ láy đôi
trong tiếng Việt hiện đại”, Tạp chí Ngôn
ngữ (số 2), tr.52.
8. Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn
Thạch Giang (1982), Nguyễn Đình Chiểu
toàn tập, tập 2, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 09/3/2017 Biên tập xong: 15/4/2017 Duyệt đăng: 20/4/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 86_328_2215138.pdf