Tài liệu Đặc điểm trẻ nghe kém tiếp nhận - Thần kinh mức độ từ nặng đến sâu và các yếu tố liên quan ở trẻ khám thính lực tại bệnh viện nhi đồng 1: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 173
ĐẶC ĐIỂM TRẺ NGHE KÉM TIẾP NHẬN - THẦN KINH MỨC ĐỘ TỪ
NẶNG ĐẾN SÂU VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở TRẺ KHÁM THÍNH LỰC TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Phạm Đoàn Tấn Tài*, Phạm Duy Quang**, Nguyễn Tuấn Như*, Đặng Xuân Hùng***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố quan đến nghe kém tiếp nhận-thần kinh trước ngôn ngữ mức độ
nặng đến sâu ở trẻ khám thính lực tại Bệnh viện Nhi đồng 1.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thu thập dữ liệu từ bệnh án của trẻ nghe kém được chẩn đoán nghe
kém tiếp nhận - thần kinh trước ngôn ngữ từ tháng 6/2014 đến tháng 4/2017. Phân tích hồi qui đa biến được sử
dụng để xác định các yếu tố liên quan với nghe kém từ nặng đến sâu.
Kết quả: Tỷ lệ nghe kém nặng đến sâu là 84% (≥71 dB) ở 382 trẻ được thu dung (tuổi trung bình: 4,8; 7,6%
mẹ mắc rubella và 22,3% mắc sốt phát ban thai kỳ). Gần như toàn bộ 32 trẻ có mẹ mắc rubella thai kỳ b...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm trẻ nghe kém tiếp nhận - Thần kinh mức độ từ nặng đến sâu và các yếu tố liên quan ở trẻ khám thính lực tại bệnh viện nhi đồng 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 173
ĐẶC ĐIỂM TRẺ NGHE KÉM TIẾP NHẬN - THẦN KINH MỨC ĐỘ TỪ
NẶNG ĐẾN SÂU VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở TRẺ KHÁM THÍNH LỰC TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Phạm Đoàn Tấn Tài*, Phạm Duy Quang**, Nguyễn Tuấn Như*, Đặng Xuân Hùng***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố quan đến nghe kém tiếp nhận-thần kinh trước ngôn ngữ mức độ
nặng đến sâu ở trẻ khám thính lực tại Bệnh viện Nhi đồng 1.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thu thập dữ liệu từ bệnh án của trẻ nghe kém được chẩn đoán nghe
kém tiếp nhận - thần kinh trước ngôn ngữ từ tháng 6/2014 đến tháng 4/2017. Phân tích hồi qui đa biến được sử
dụng để xác định các yếu tố liên quan với nghe kém từ nặng đến sâu.
Kết quả: Tỷ lệ nghe kém nặng đến sâu là 84% (≥71 dB) ở 382 trẻ được thu dung (tuổi trung bình: 4,8; 7,6%
mẹ mắc rubella và 22,3% mắc sốt phát ban thai kỳ). Gần như toàn bộ 32 trẻ có mẹ mắc rubella thai kỳ bị nghe
kém nặng 28% đến sâu 69%. Phân tích đa biến cho thấy mẹ mắc rubella hay sốt phát ban trong thai kỳ có tỷ lệ
nghe kém nặng đến sâu cao hơn.
Kết luận: Tình trạng nghe kém tiếp nhận - thần kinh trước ngôn ngữ được chẩn đoán trễ, mức độ nặng sâu
chiếm tỷ lệ cao ở trẻ đến khám thính lực. Tăng cường tiêm ngừa rubella cho phụ nữ trước khi mang thai và tầm
soát rubella thai kỳ; tầm soát nghe kém cho trẻ có nguy cơ và tiến đến tầm soát nghe kém cho mọi trẻ sinh ra là
vấn đề bức thiết.
Từ khoá: nghe kém, trẻ em
ABSTRACT
SEVERE-TO-PROFOUND SENSORINEURAL HEARING LOSS AMONG CHILDREN ATTENDING
AUDIOLOGY UNIT AT THE CHILDREN HOSPITAL 1: CHARACTERISTICS AND ASSOCIATED FACTORS
Pham Doan Tan Tai, Pham Duy Quang, Nguyen Tuan Nhu, Dang Xuan Hung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 173 - 178
Objectives: To determine the prevalence of and factors associated with severe-to-profound prelingual
sensorineural hearing loss among children presenting for evaluation of hearing loss problems at the Audiology
Unit at the Children Hospital 1 in Ho Chi Minh city.
Methods: We collected data from the medical records of children with a diagnosis of prelingual sensorineural
hearing loss during June 2014 - April 2017. Multivariate Regression analysis was used to determine factors
associated with severe-to-profound prelingual sensorineural hearing loss.
Results: Of 382 children enrolled (mean age: 4.8 years; 7.6% and 22.3% were born to mothers acquired
rubella and reporting a presence of rash and fever during pregnancy, respectively), the prevalence of severe-to-
profound hearing loss (≥71 dB) was 84%. Almost all 32 children born to mothers who reported an acquisition of
rubella during pregnancy had severe (28%) to profound (69%) difficulty in hearing. Multivariable analysis
showed that children with mother acquired rubella or rash-fever during pregnancy were associated with the
greater prevalence of severe-to-profound hearing loss.
Conclusion: The was a delay in diagnosis of prelingual sensorineural hearing loss, with a high proportion of
*Bệnh viện Nhi Đồng 1 **Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh ***Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BSCKII. Phạm Đoàn Tấn Tài ĐT: 0908626670 Email: tantaipd.entdr@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 174
severe-to-profound hearing loss, among children presenting for a diagnosis of hearing problems. Enhancement of
rubella immunisation for women before pregnancy and hearing screening programs for ai-risk children towards a
universal newborn hearing screening are urgently needed.
Keywords: hearing loss, children
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghe kém là vấn đề sức khỏe quan trọng ở
trẻ em. Ở 1.000 trẻ sinh sống, khoảng 1,2 đến 1,7
trẻ mắc nghe kém bẩm sinh(4). Chương trình tầm
soát nghe kém cho trẻ sơ sinh đã được triển khai
tại nhiều nước trên thế giới. Tại Hoa Kỳ, 94,8%
trẻ sơ sinh vào năm 2016 được sàng lọc sức nghe
trong vòng 1 tháng sau sanh(8). Việc phát hiện
sớm trước 3 tháng tuổi và can thiệp trước 6
tháng tuổi là hết sức quan trọng, giúp trẻ bệnh
học từ, phát âm, phát triển ngôn ngữ, hành vi,
biểu cảm và hoà nhập xã hội(2).
Giống như các nước đang phát triển khác,
Việt Nam cũng xây dựng và triển khai chương
trình tầm soát nghe kém nhưng chỉ giới hạn cho
trẻ có yếu tố nguy cơ ở một số cơ sở y tế chuyên
khoa tại các đô thị do thiếu nhân lực và cơ sở vật
chất(7). Phần đông trẻ được chẩn đoán nghe kém
khá trễ và không còn nhiều cơ hội can thiệp,
phục hồi chức năng và do đó trẻ bị giới hạn về
phát triển ngôn ngữ hoặc bị câm, khó tiếp thu,
học tập kém. Các vấn đề này ảnh hưởng đến tâm
lý, sự phát triển của chính đứa trẻ cũng như tạo
gánh nặng, áp lực không nhỏ cho gia đình và
toàn xã hội.
Đơn vị Thính học, Bệnh viện Nhi Đồng 1
được thiết lập từ năm 2004, tiếp nhận, chẩn
đoán, chăm sóc và điều trị cho trẻ nghe kém
tại khu vực phía Nam. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi phân tích đặc điểm của trẻ nghe kém
chăm sóc tại Đơn vị Thính học và các yếu tố
liên quan gây nghe kém, đặc biệt ở nhóm trẻ
nghe kém nặng đến sâu, nhóm chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất, nhằm góp phần xây
dựng chương trình phòng ngừa, tầm soát và
can thiệp nghe kém phù hợp với điều kiện
kinh tế và y tế của Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhi được chẩn đoán nghe kém
tiếp nhận - thần kinh tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ
tháng 6/2014 đến tháng 4/2017.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán nghe kém tiếp
nhận - thần kinh tại đơn vị thính lực của bệnh
viện Nhi đồng 1 được lấy liên tục từ tháng
6/2014 cho đến khi đủ cỡ mẫu, mục tiêu là 350
bệnh án được tính theo phương pháp của tác giả
Kelsey và cộng sự, 1996(3).
Tiêu chuẩn loại trừ
Thân nhân không nắm rõ tiền sử sản khoa,
tiền sử gia đình, tiền sử bệnh tật của trẻ và mẹ.
Nghe kém sau ngôn ngữ. Thân nhân không
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang phân tích.
Với phương pháp thiết kế cắt ngang phân
tích, nghiên cứu ghi nhận các thông tin cần thiết
trong nhóm bệnh nhân có sẵn.
Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện
Nhi đồng 1, nơi được trang bị đầy đủ các thiết bị
khảo sát thính học được kiểm chuẩn phù hợp
với việc nghiên cứu.
Các bước tiến hành
Khám tai mũi họng tổng quát.
Tầm soát sức nghe: Đo nhĩ lượng, đo âm ốc
tai, đo thính lực trường tự do (Bảng 1).
Đo xác định ngưỡng nghe: ABR, ASSR, thính
lực đơn âm cho trường hợp tầm soát REFER
hoặc không đáp ứng âm thanh, tuỳ theo lứa tuổi
phát triển tâm thần – vận động.
Bảng 1. Phân độ nghe kém sử dụng trong nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 175
Mức độ Cường độ (dB)
Không nghe kém 0-20 dB
Nhẹ 21-40 dB
Trung bình 41-70 dB
Nặng 71- 90 dB
Sâu >90 dB
Thực hiện bệnh án lâm sàng, thu thập dữ
liệu về tuổi, giới, địa chỉ thường trú, tiền sử
mang thai của mẹ, nơi và thông tin về cuộc sinh,
tình trạng sau sinh của trẻ sự phát triển vận
động của trẻ, tiền sử bệnh, khả năng nghe, ngôn
ngữ và tiền sử nghe kém trong gia đình. Thông
tin về khám lâm sàng, kết quả khám tai và thính
học cũng được thu thập.
Xử lý số liệu – Phân tích số liệu
Số liệu được nhập kép, độc lập vào phần
mềm Epi data 3.0.1. Hai bản nhập được so sánh
để tìm ra các khác biệt.
Các khác biệt được đối chiếu với dữ liệu
gốc của bộ câu hỏi giấy và làm sạch trước khi
đưa vào phân tích thống kê với phần mềm
STATA 14.
Kiểm định χ2 hay Fisher’exact test được sử
dụng để xem xét sự khác biệt trong các nhóm.
Chúng tôi tiến hành các phân tích hồi qui
Poissson đa biến hiệu chỉnh với phương sai
nghiêm ngặt để ước tính tỷ số hiện nhiễm (PR)
của các yếu tố liên quan đến tình trạng nghe kém
nặng và sâu với tỷ lệ cao ở quần thể khảo sát.
Y đức
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch số
2922/QĐ-TĐHYKPNT.
KẾT QUẢ
Bảng 2 trình bày đặc điểm dân số xã hội, tiền
sử bệnh và lâm sàng của 382 trẻ nghe kém được
thu dung từ tháng 6/2014 đến tháng 4/2017.
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Độ tuổi trung bình là 4,82 (độ lệnh chuẩn:
2,75). Hơn ½ các trường hợp nghe kém là nữ.
Phần lớn trẻ thu dung đã sinh tại bệnh viện hay
trung tâm y tế (94,5%) và sinh sống ở tỉnh thuần
nông thôn hay bán đô thị (80,3%).
Tiền sử gia đình, mang thai và sinh của trẻ
nghe kém
Có 4,2% có người thân trong gia đình mắc
nghe kém bẩm sinh; 7,6% trẻ có mẹ mắc bệnh
rubella và 22,3% trẻ có mẹ mắc sốt phát ban
trong quá trình mang thai. Chỉ 3,7% mẹ cho biết
có sử dụng thuốc lúc mang thai.
Có 24,9% trường hợp sinh thiếu tháng và
22% cho biết trẻ đã được giúp sinh. Cân nặng
trung bình lúc sinh của trẻ là 2.563 gram, với
95,7% trẻ có cân nặng lúc sinh ≥ 1500 gram.
Nhiễm trùng ối ghi nhận ở 2,1% các trường
hợp và 4,5% trẻ có nằm viện vì các bệnh lý
khác nhau.
Bảng 2. Đặc điểm dân số xã hội, tiền sử bệnh và lâm
sàng của trẻ nghe kém
Đặc điểm
Tần số
(n)
Phần trăm
(%)
Dân số xã hội
Tuổi chẩn đoán (N = 382)
<1 8 2,1
1-<2 14 3,7
2-<3 96 25,1
3-<6 172 45,0
≥ 6 92 24,1
Nơi sinh (N = 382)
Bệnh viện 320 83,8
Trung tâm Y tế 41 10,7
Bảo sanh 4 1,1
Nhà 8 2,1
Khác 9 2,4
Thường trú tại TP HCM, Cần Thơ
(N = 376)
74 19,7
Tiền sử gia đình, mang thai và sinh
Gia đình có người nghe kém bẩm sinh 16 4,2
Mẹ bệnh hay chấn thương lúc mang thai (N = 381)
Sốt phát ban 85 22,3
Mắc rubella lâm sàng 29 7,6
Bệnh khác 55 14,4
Thời điểm mẹ bệnh (N = 147)
Dưới 12 tuần 48 32,7
12 -< 24 tuần 75 51,0
≥ 24 tuần 24 16,3
Mẹ sử dụng thuốc khi mang thai
(N = 382)
14 3,7
Sanh giúp (N = 382) 84 22,0
Nhiễm trùng ối trong quá trình chuyển
dạ (N = 373)
8 2,1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 176
Đặc điểm
Tần số
(n)
Phần trăm
(%)
Trẻ khóc ngay sau sinh (N = 368) 334 90,8
Tuổi thai khi sinh (N = 382)
≥ 37 tuần (đủ tháng) 287 75,1
28 - < 37 tuần 91 23,8
< 28 tuần 4 1,1
Cân nặng lúc sinh (N = 376)
> 3000 gram 74 19,7
1500-3000 gram 286 76,1
<1500 gram 16 4,3
Nằm dưỡng nhi sau sinh (N = 380) 84 22,1
Trẻ bệnh phải nằm viện (N = 374) 17 4,5
Lâm sàng
Tự đến khám (N = 381) 381 100
Tuổi phát hiện nghe kém (N = 297)
<1 26 8,8
1-<2 73 24,5
2-<3 77 25,9
3-<6 93 31,3
≥ 6 28 9,4
Tuổi phát âm (N = 340)
<1 103 31,2
1-<2 35 10,3
2-<3 16 4,7
3-<6 8 2,4
≥ 6 0 0
Không phát âm 178 52,4
Yếu tố nguy cơ (N = 382)
0 55 14,4
1 154 40,3
≥2 173 45,3
Phân độ (N = 382)
Độ 1 (21-40 dB): Nghe kém nhẹ 8 2,1
Độ 2 (41-70 dB): Nghe kém trung bình 53 13,9
Độ 3 (71-90 dB): Nghe kém nặng 65 17,0
Độ 4 (>91dB): Nghe kém sâu (điếc) 256 67,0
Đặc điểm lâm sàng của trẻ nghe kém
Có 33,3% các trường hợp nghe kém được
phát hiện trước 2 tuổi và không có trường hợp
nào được phát hiện ở tuyến trước và được
chuyển đến Đơn vị Thính học, Bệnh viện Nhi
Đồng 1.
Phát hiện sau 6 tuổi ghi nhận ở 9,4% số
trường hợp.
Có 31,2% trẻ nghe kém trong nghiên cứu có
những phát âm ê a từ trước 1 tuổi.
Có 02 trường hợp dị tật các cơ quan khác và
01 trường hợp dị tật sọ mặt được ghi nhận trong
số các trẻ được khảo sát.
Tỷ lệ bệnh nhi có một và hai yếu tố nguy cơ
theo Hiệp hội Nghe trẻ em 2007 lần lượt là 40,3%
và 45,3%. Không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào
được ghi nhận ở 14,4% các trường hợp.
Nghe kém mức độ từ nặng đến sâu chiếm
84% các ca bệnh, trong đó nhóm nghe kém sâu
chiếm 67%.
Tất cả các trẻ sinh ra từ mẹ mắc bệnh rubella
trong thai kỳ đều mắc nghe kém từ mức độ
trung bình đến nặng và sâu, trong đó 69% là
nghe kém sâu.
Trẻ càng có nhiều yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ
nghe kém sâu càng cao hơn (12,1%, 37,9% và
50% ở trẻ không có, có một và hai yếu tố nguy
cơ, giá trị p khuynh hướng <0,001).
Các yếu tố liên quan đến nghe kém mức độ từ
nặng đến sâu
Phân tích đa biến cho thấy cha/mẹ khai trẻ
chưa từng phát âm khi đến khám có nguy cơ
nghe kém mức độ từ nặng đến sâu cao hơn
nhóm trẻ có phát âm khi dưới 12 tháng tuổi là
15% (PR = 1,15 [KTC 95%: 1,04 – 1,27], p = 0,008).
Mẹ mắc bệnh rubella (PR = 1,15 [KTC 95%:
1,02 – 1,29], p = 0,018) hay sốt phát ban thai kỳ
(PR = 1,20 [KTC 95%: 1,11 – 1,30], p <0,001) có
nguy cơ nghe kém mức độ từ nặng đến sâu cao
hơn mẹ không mắc bệnh trong lúc mang thai là
15 - 20%.
So với nhóm tham chiếu, bệnh nhi nữ sống ở
tỉnh thuần nông thôn hay khu bán đô thị có tỷ lệ
nghe kém nặng đến sâu cao hơn (Hình 1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 177
Hình 1. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến nghe kém nặng đến sâu
BÀN LUẬN
Tóm tắt kết quả chính
Nghiên cứu hồi cứu này với mẫu tương đối
lớn bệnh nhi nghe kém cho thấy tình trạng nghe
kém tiếp nhận – thần kinh trước ngôn ngữ được
chẩn đoán trễ, mức độ nặng sâu chiếm tỷ lệ cao
ở hầu hết các trẻ đến khám thính lực. Ở trẻ có
biểu hiện nghe kém, nghe kém từ nặng đến sâu
hay gặp hơn ở bệnh nhi đến từ tỉnh thuần nông /
bán đô thị, không phát âm trước 12 tháng tuổi và
đặc biệt ở mẹ bị mắc bệnh rubella hay sốt phát
ban trong quá trình mang thai.
Ý nghĩa của kết quả
Việc phát hiện và chẩn đoán trễ với tình
trạng nghe kém từ nặng đến sâu cao đã hạn chế
kết quả phục hồi sức nghe cho trẻ nghe kém.
Nâng cao hiệu quả chương trình tầm soát cho trẻ
nguy cơ cao, cải thiện chất lượng phục hồi chức
năng nghe cho trẻ nghe kém và mở rộng chương
trình sàng lọc sức nghe cho tất cả trẻ sơ sinh là
hết sức cần thiết. Song song đó, cần nâng cao tỷ
lệ được can thiệp trợ thính với công nghệ phù
hợp, vì dưới 2% trẻ em khiếm thính tại nước ta
có sử dụng máy trợ thính(5).
Chúng tôi ghi nhận gần 30% trẻ khảo sát có
mẹ mắc bệnh rubella hay sốt phát ban trong quá
trình mang thai, thấp hơn kết quả khảo sát trẻ
nghe kém tại Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật
Thuận An tại tỉnh Bình Dương vào năm 2011 -
2012 (32% có mẹ mắc rubella thai kỳ xác định và
13% nghi ngờ mắc bệnh rubella(5). Như y văn đã
báo cáo, trẻ sinh ra từ mẹ mắc bệnh rubella hay
sốt phát ban thai kỳ trong khảo sát này cũng có
tỷ lệ bị nghe kém từ nặng đến sâu cao hơn. Các
phát hiện này cho thấy việc không chích ngừa
rubella và nhiễm rubella trong thai kỳ hiện vẫn
là vấn đề y tế tại Việt Nam và tình trạng này sẽ
tiếp tục làm xuất hiện thêm các trẻ nghe kém
bẩm sinh. Tác giả Miyakawa và cộng sự ước tính
tỷ lệ nhiễm rubella bẩm sinh lên đến 151/100.000
trẻ sinh sống và hàng năm có 3.788 trường hợp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 178
mắc rubella bẩm sinh tại Việt Nam(6). Trước bối
cảnh đó, việc truyền thông về tác hại của bệnh
rubella và cách phòng tránh bằng tiêm ngừa
vắcxin rubella cho phụ nữ trước mang thai, bên
cạnh việc tầm soát bằng huyết thanh chẩn đoán
các trường hợp có triệu chứng hoặc tiếp xúc với
người bị nhiễm bệnh rubella cần được quan tâm
và thực hiện đúng mức.
Phân tích cũng phát hiện mối liên quan giữa
trẻ sống ở nông thôn hoặc khu bán đô thị có liên
quan đến mức độ nghe kém từ nặng đến sâu
cao. Lý do đằng sau mối liên quan này có thể là
sự kém tiếp cận vắc xin ngừa rubella ở phụ nữ
mang thai ở vùng nông thôn hay bán đô thị.
Không ai trong số 1998 phụ nữ mang thai tại
Nha Trang, 2009-2010 có chích vắcxin ngừa bệnh
rubella khi mang thai(6) và tỷ lệ này chỉ 4% ở 2 xã
của huyện Ba Vì, Hà Nội vào năm 2016(1).
Khảo sát của chúng tôi ghi nhận bệnh nhi nữ
có tỷ lệ kém mức độ nặng đến sâu cao hơn bệnh
nhi nam. Cần thêm các nghiên cứu trong tương
lai để xác định mối liên quan này.
Giới hạn nghiên cứu
Khảo sát này có nhiều giới hạn trong thiết kế
và cách thu thập số. Vì đây là thiết kế nghiên
cứu cắt ngang nên chúng tôi không thể làm rõ
tuần tự thời gian của các mối liên quan với tình
trạng nghe kém mức độ nặng đến sâu. Thêm
vào đó, thông tin được hồi cứu từ bệnh án của
bệnh nhi nên các thông tin chi tiết giải thích về
tiêm chủng, tiền sử bệnh, hành vi và lối sống của
mẹ giải thích cho mối liên quan giữa giới tính và
nơi cư trú với tình trạng nghe kém từ nặng đến
sâu đã không thể thu thập được trong khảo sát.
Các mối tương quan này cần được làm rõ ở các
nghiên cứu trong tương lai, từ đó có các chiến
lược can thiệp phù hợp và tập trung cho các
quần thể có nguy cơ với nghe kém nặng đến sâu.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tiếp cận và
chẩn đoán muộn tình trạng nghe kém tiếp nhận
- thần kinh trước ngôn ngữ ở trẻ đến khám thính
lực. Tình trạng nghe kém nặng sâu chiếm tỷ lệ
cao. Tăng cường tiêm ngừa rubella cho phụ nữ
trước khi mang thai và tầm soát rubella thai kỳ;
tầm soát nghe kém cho trẻ có nguy cơ và tiến
đến tầm soát nghe kém cho mọi trẻ sinh ra là vấn
đề bức thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Minh Trí, Vũ Thị Thu Nga, Đỗ Thị Thanh Toàn (2017).
“Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tiêm phòng vắcxin
rubella của phụ nữ tuổi sinh đẻ tại 2 xã thuộc huyện Ba Vì, Hà
Nội năm 2016”. Tạp chí Y học Dự phòng, 27:86-92.
2. Itano Y (2014). “Principles and guidelines for early intervention
after confirmation that a child is deaf or hard of hearing”.
Journal of Deaf Studies and Deaf Education, 19:143–175.
3. Kelsey JL, Whittemore AS, Evans AS, et al (1996). “Methods of
sampling and estimation of sample size”, in: Kelsey JL,
Whittemore AS, Evans AS, et al, Methods in observational
epidemiology, 2nd, pp. 311-340. Oxford University Press, New
York.
4. Korver AM, Konings S, Dekker FW (2010). “Newborn hearing
screening vs later hearing screening and developmental
outcomes in children with permanent childhood hearing
impairment”. JAMA, 304:1701–1708.
5. Lam AMK, Stringer P, Toizumi M (2016). “An international
partnership analysis of a cohort of Vietnamese children with
hearing impairment”. Speech, Language and Hearing, 19:27–35.
6. Miyakawa M, Yoshino H, Yoshida LM (2013). “Seroprevalence
of rubella in the cord blood of pregnant women and congenital
rubella incidence in Nha Trang, Vietnam”. Vaccine, 32:1192–
1198.
7. Olusanya BO, Swanepoel DW, Chapchap MJ (2007). “Progress
towards early detection services for infants with hearing loss in
developing countries”. BMC Health Services Research, 7:14–28.
8. US Centers for Disease Control and Prevention (2016). “Hearing
screening summary”. CDC, URL:
https://www.cdc.gov/ncbddd/hearingloss/2016-data/01-data-
summary.html.
Ngày nhận bài báo: 20/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 173_6199_2213315.pdf