Đặc điểm tế bào haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm

Tài liệu Đặc điểm tế bào haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 169 ĐẶC ĐIỂM TẾ BÀO HALLER Ở BỆNH NHÂN VIÊM XOANG HÀM Phạm Bắc Trung*, Lâm Huyền Trân** TÓM TẮT Mở đầu: Tế bào sàng dưới ổ mắt (tế bào Haller) là sự khí hóa tế bào sàng dọc theo trần của xương hàm. Sự phát triển quá mức tế bào Haller làm thay đổi cấu trúc giải phẩu phức hợp lỗ thông xoang và có thể là nguyên nhân gây viêm mũi xoang. Mục tiêu: Đặc điểm tế bào Haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Kết quả: Qua khảo sát 500 xoang hàm (250 bệnh nhân) chúng tôi nhận thấy: Tế bào Haller chiếm 38,8% trong nhóm nghiên cứu và có hình bầu dục. Trong đó đa số có kích thước trung bình (3mm –6mm) và lớn (>6mm). Phần lớn tế bào Haller xuất hiện ở cả hai bên thỉnh thoảng có 2 hoặc 3 tế bào Haller cùng một bên. Tế bào có kích thước trung bình (3mm - 6mm) và kích thước lớn (> 6mm) ở vị trí 1/3 trong và 1/3 giữa chi...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm tế bào haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 169 ĐẶC ĐIỂM TẾ BÀO HALLER Ở BỆNH NHÂN VIÊM XOANG HÀM Phạm Bắc Trung*, Lâm Huyền Trân** TÓM TẮT Mở đầu: Tế bào sàng dưới ổ mắt (tế bào Haller) là sự khí hóa tế bào sàng dọc theo trần của xương hàm. Sự phát triển quá mức tế bào Haller làm thay đổi cấu trúc giải phẩu phức hợp lỗ thông xoang và có thể là nguyên nhân gây viêm mũi xoang. Mục tiêu: Đặc điểm tế bào Haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Kết quả: Qua khảo sát 500 xoang hàm (250 bệnh nhân) chúng tôi nhận thấy: Tế bào Haller chiếm 38,8% trong nhóm nghiên cứu và có hình bầu dục. Trong đó đa số có kích thước trung bình (3mm –6mm) và lớn (>6mm). Phần lớn tế bào Haller xuất hiện ở cả hai bên thỉnh thoảng có 2 hoặc 3 tế bào Haller cùng một bên. Tế bào có kích thước trung bình (3mm - 6mm) và kích thước lớn (> 6mm) ở vị trí 1/3 trong và 1/3 giữa chiếm tỷ lệ cao hơn so với 1/3 ngoài (P<0,05). Tỷ lệ viêm xoang hàm ở bệnh nhân có tế bào Haller chiếm 71,6%. Tế bào Haller bị viêm thì khả năng bị viêm xoang hàm cao gấp 9,66 lần so với không có tế bào Haller hoặc tế bào Haller không bị viêm (P<0,05). Kết luận: Trường hợp tế bào Haller bị viêm thì có liên quan đến viêm xoang hàm. Từ khóa: tế bào Haller, viêm xoang hàm ABSTRACT CHARACTERISTICS OF HALLER CELLS IN MAXILLARY SINUSITIS PATIENTS Pham Bac Trung, Lam Huyen Tran * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 169 - 173 Introduction: Haller’s cell is an ethnocide cell that pneumotises along the roof of maxillary sinus. The overpneumatised patterns of Haller’s cell are suspected as a cause of sinusitis. Objective: Characteristics of haller cells in maxillary sinusitis patients. Method: Cross-sectional descriptive study. Results: We analyzed 500 maxillary sinuses (250 patients) and discovered that Haller’s cells occupied 38.8%. Their shape was oval. Most of their diameters were average (3mm-6mm) and over 6 mm. Most of the samples had bilateral Haller’s cells. Sometimes, there were 2 or 3 ipsilateral Haller’s cells. The Haller’s cells which had the diameters of 3mm-6mm and over 6 mm, locating in the middle and inner third, were found more than the ones in the outer third (p<0.05). The incidence of maxillary sinusitis was 9.66 times higher in the group which had inflammatory Haller’s cells (p<0.05). Conclusions: There is a relationship between inflammatory Haller’s cells and maxillary sinusitis. Keywords: Haller cell, Maxillary sinusitis * Họcviêncaohọckhóa 2015-2017, ĐHYD TP. HCM, ** Bộ môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Dược Tp HCM Tác giả liên lạc: PGS TS Lâm Huyền Trân, ĐT: 0913120599. Email: huyentranent@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 170 ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm mũi xoang là một trong những bệnh lý thường gặp nhất trong chuyên ngành tai mũi họng. Viêm mũi xoang không chỉ có các triệu chứng trực tiếp liên quan đến mũi xoang mà còn tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống như hành vi, cảm giác đau, mất sức, ảnh hưởng hoạt động thể lực và công tác xã hội(2). Theo các giả thuyết thì sự tắc nghẽn sự dẫn lưu xoang là một trong những yếu tố gây nên tình trạng viêm mũi xoang. Sự thay đổi cấu trúc giải phẩu trong hốc mũi ở những vị trí phức hợp lỗ thông xoang có thể dẫn đến sự tắc nghẽn sự dẫn lưu xoang từ đó dẫn đến tình trạng nhiễm trùng tại chỗ và viêm mũi xoang. Tế bào sàng dưới ổ mắt (tế bào Haller) là sự khí hóa tế bào sàng dọc theo trần của xương hàm. Khi phát triển nó nằm dưới sàng ổ mắt, dính vào trần xoang hàm và tạo nên thành ngoài phễu sàng. Sự phát triển quá mức tế bào Haller làm thay đổi cấu trúc giải phẩu phức hợp lỗ thông xoang và có thể là nguyên nhân gây viêm mũi xoang. Vì nó có thể làm hẹp phểu sàng và cản trở đường lưu thông của xoang hàm vào ngách mũi giữa gây nên viêm xoang hàm – sàng trước(3,4). Đặc điểm giữa tế bào Haller và viêm mũi xoang đã được nghiên cứu ở một số quốc gia trên thế giới nhưng ở Việt Nam thì còn ít tài liệu nghiên cứu về mối liên hệ này. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc điểm tế bào Haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm”. Mục tiêu nghiên cứu Đặc điểm tế bào Haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các bệnh nhân đến khám tại phòng khám Tai Mũi Họng bệnh viện Nguyễn Tri Phương với các triệu trứng của viêm mũi xoang. Tiêu chuẩn chọn bệnh Từ 18 tuổi trở lên, không mắc các bệnh ung thư vùng Tai Mũi Họng và cổ mặt, không có tiền sử phẫu thuật vùng mũi xoang. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi nghiên cứu theo phương pháp cắt ngang, mô tả có phân tích 500 xoang hàm trên phim CT Scan (250 bệnh nhân). Bệnh nhân được thăm khám lâm sàng, nội soi mũi xoang và chụp CT Scan mũi xoang. Chúng tôi ghi nhận các dữ kiện sau: Xác định có sự hiện diện của tế bào Haller hay không đồng thời đo lường kích thước, vị trí, hình dạng và xác định tế bào Haller có bị viêm hay không. Xác định xoang hàm có bị viêm hay không, xác định sự thông thoáng hay bít tắt của lỗ thông xoang hàm. Cỡ mẫu 250 ca. Phương pháp đánh giá Phân loại tế bào Haller qua CT Scan: Chúng tôi đo kích thước tế bào Haller theo phương ngang và chia làm 3 mức độ: độ 1 tế bào Haller nhỏ hơn 3mm, độ 2 tế bào Haller có kích thước từ 3mm – 6mm, độ 3 tế bào Haller có kích thước lớn hơn 6mm. Về vị trí tế bào Haller so với ổ mắt, chúng tôi chia làm 3 mức độ: Tế bào Haller đến 1/3 trong ổ mắt, tế bào Haller đến 1/3 giữa ổ mắt và tế bào Haller đến 1/3 ngoài ổ mắt, Xác định tế bào Haller có bị viêm hay không dựa vào độ dày niêm mạc của chúng qua phim CT Scan. KẾT QUẢ Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ cao hơn ở bệnh nhân nam với tỷ lệ bệnh nhân Nam là 36,4% và Nữ là 63,6%, với độ tuổi trung bình là 46,06 ± 15,7 và lý do vào viện thường gặp nhất là nhức đầu 42,8% và chảy mũi 31,2%. Phân tích 500 xoang hàm (250 bệnh nhân) tỷ lệ xoang hàm viêm chiếm tỷ lệ cao 71,2%. Đặc điểm tế bào Haller Khảo sát 500 xoang hàm (250 bệnh nhân) chúng tôi nhận thấy có 306 xoang không có tế bào Haller chiếm 61,2% và 194 xoang có tế bào Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 171 Haller chiếm 38,8%. Hình dạng tế bào Haller chúng tôi quan sát được trên phim CT Scan có hình dạng hình bầu dục. Trong đó tế bào Haller bị viêm có 81 trường hợp chiếm 41,8%. Về kích thước tế bào Haller chúng tôi nhận thấy đa số có kích thước lớn (>6mm) 43,8% và trung bình (3mm – 6mm) 51,5%. Về số lượng tế bào Haller chúng tôi nhận thấy có 172 trường hợp có một tế bào Haller chiếm 88,7%, có 17 trường hợp có hai tế bào Haller chiếm 8,8%, chỉ có 5 trường hợp có ba tế bào Haller chiếm 2,6%. Về vị trí và kích thước: chúng tôi nhận thấy tế bào Haller có kích thước trung bình (3-6mm) và kích thước lớn (>6mm) ở vị trí 1/3 trong và 1/3 giữa chiếm tỉ lệ cao hơn so với 1/3 ngoài. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê ( 2 =4.95, P = 0.292 > 0.05). Tần suất viêm xoang hàm ở bệnh nhân có tế bào Haller Chúng tôi nhận thấy trong 194 trường hợp có tế bào Haller thì viêm xoang hàm chiếm tỷ lệ khá cao 139 trường hợp chiếm 71,6%. Trong khi tỷ lệ không viêm xoang hàm chỉ 55 trường hợp chiếm 28,4%. Mặc khác trong 306 trường hợp không có tế bào Haller thì tỷ lệ viêm xoang hàm có 217 trường hợp chiếm 70,9%. Trong khi tỷ lệ không viêm xoang hàm chỉ 89 trường hợp chiếm 29,1%. Biểu đồ 1. Tỷ lệ viêm xoang hàm ở nhóm có và không có tế bào Haller Mối tương quan giữa tế bào Haller bị viêm với viêm xoang hàm Bảng 1. Liên quan giữa tình trạng tế bào Haller bị với viêm xoang hàm. Đặc điểm Viêm xoang hàm OR (KTC 95%) P Có Không Tế bào Haller bị viêm Có 77 (95,1%) 4 (4,9%) 9.66 (3.46 - 26.93) <0.05 Không 279 (66,6%) 140 (33,4%) Chúng tôi nhận thấy tế bào Haller bị viêm thì khả năng bị viêm xoang hàm cao gấp 9,66 lần, KTC 3.46 - 26.93. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê P < 0.05. Mối tương quan giữa vị trí tế bào Haller và tắc lỗ thông xoang hàm Trong những xoang hàm viêm có tắc lỗ thông xoang thì tỉ lệ xuất hiện tế bào Haller ở 1/3 giữa bằng 1,53 (0,78 – 3,02) và 1/3 ngoài bằng 1,08 (0,11 – 10,71) so với vị trí 1/3 trong nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê P > 0,05. Bảng 2. Liên quan giữa vị trí tế bào Haller với tắc lỗ thông xoang hàm. Đặc điểm Tắc lỗ thông xoang OR (KTC 95%) P Có Không Vị trí tế bào Haller 1/3 trong 31 (23,7%) 100 (76,3%) 1 1/3 giữa 19 (32,2%) 40 (67,8%) 1,53 (0,78 – 3,02) 0,22 1/3 ngoài 1 (25%) 3 (75%) 1,08 (0,11 – 10,71) 0,95 Mối tương quan giữa tần suất xuất hiện tế bào Haller và tắc lỗ thông xoang hàm Trên những xoang xuất hiện tế bào Haller thì tắc lỗ thông xoang hàm chỉ bằng 0,71 (0,48 – 1,06) so với không có tế bào Haller và sự khác biệt này không có ý nghĩa thông kê P = 0,096 > 0,05. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 172 Bảng 3. Liên quan giữa vị trí tế bào Haller với tắc lỗ thông xoang hàm. Đặc điểm Tắc lỗ thông xoang OR (KTC 95%) P Có Không Tế bào Haller Có 51 (33,3%) 143 (66,7%) 0,71 (0,48 – 1,06) 0,096 Không 102 (26,3%) 204 (73,7%) BÀN LUẬN Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ cao hơn ở bệnh nhân nam với tỷ lệ bệnh nhân Nam là 36,4% và Nữ là 63,6%. Tỷ lệ bệnh nhân nữ cao hơn nam có thể do giới nữ quan tâm đến bệnh tật nhiều hơn nam (triệu chứng đau đầu cũng là một yếu tố thường gặp ở nữ giới quan tâm). Về tỷ lệ xuất hiện tế bào Haller kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Stackpole, Cao Thị Hoàng Vân[1, 6]. Tuy nhiên có một số kết quả nghiên cứu khác cho kết quả thấp hơn như tác giả Wani, Raina hoặc cao hơn như tác giả Võ Hiếu Bình(5,7,8). Bảng 4. So sánh tỷ lệ tế bào Haller. Tác giả Năm nghiên cứu Quốc gia Mẫu nghiên cứu Tần suất Stackpole và CS (6) 1997 Mỹ N = 154 34,4% Võ Hiếu Bình (7) 2007 Việt Nam N = 200 56% Wani, Asif A. và CS (8) 2009 Ấn Độ N = 150 8,66% Cao Thị Hoàng Vân (1) 2011 Việt Nam N = 250 33,2% Raina, A. và CS (5) 2012 Anh N = 600 16% Chúng tôi 2017 Việt Nam N = 250 38,8% Về kích thước của tế bào Haller:Chúng tôi nhận thấy tế bào Haller có kích thước lớn (>6mm) và trung bình (3-6mm) chiếm tỷ lệ cao hơn so với tế bào Haller có kích thước nhỏ (<3mm). Cụ thể kích thước lớn có 85 trường hợp, trung bình có 100 trường hợp, nhỏ có 9 trường hợp. Điều này có nghĩa nếu hiện diện tế bào Haller thì đa số tế bào Haller có kích thước trung bình hoặc lớn hay gặp ở Việt Nam. Với kết quả tác giả Stackpole(6) thì tế bào Haller có kích thước lớn có 17 trường hợp, trung bình có 31 trường hợp và nhỏ có 38 trường hợp. Có một số tác giả cho kết quả kích thước tế bào Haller cụ thể như Võ Hiếu Bình đo kích thước tế bào có kích thước trung bình là 6,5mm với N = 200, Cao Thị Hoàng Vân đo tế bào tế bào Haller có kích thước trung bình là 8,1mm với N = 250(1,7). Về số lượng tế bào Haller: Chúng tôi nhận thấy có 172 trường hợp có một tế bào Haller chiếm 88,7%, có 17 trường hợp có hai tế bào Haller chiếm 8,8%, chỉ có 5 trường hợp có ba tế bào Haller chiếm 2,6%. Điều này có nghĩa nếu có tế bào Haller thì có một tế bào Haller chiếm tỷ lệ cao. Về vị trí chúng tôi gặp nhiều nhất là ở 1/3 trong với 131 trường hợp, 1/3 giữa là 59 trường hợp và 1/3 ngoài chỉ có 4 trường hợp. Tế bào Haller có kích thước trung bình (3mm - 6mm) và kích thước lớn (> 6mm) ở vị trí 1/3 trong và 1/3 giữa chiếm tỉ lệ cao hơn so với 1/3 ngoài. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (2= 4.95, P = 0.292 > 0.05). Tần suất viêm xoang hàm ở bệnh nhân có tế bào Haller Chúng tôi nhận thấy trong 194 trường hợp có tế bào Haller thì viêm xoang hàm chiếm tỷ lệ khá cao 139 trường hợp chiếm 71,6%. Trong khi tỷ lệ không viêm xoang hàm chỉ 55 trường hợp chiếm 28,4%. Kết quả của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Stackpole là 47,4%. Trong 306 trường hợp không có tế bào Haller thì tỷ lệ viêm xoang hàm có 217 trường hợp chiếm 70,9%(6). Trong khi tỷ lệ không viêm xoang hàm chỉ 89 trường hợp chiếm 29,1%. Kết quả này cũng tương đương với đặc điểm của nhóm có tế bào Haller. Mối tương quan giữa tế bào Haller bị viêm với viêm xoang hàm Chúng tôi nhận thấy tế bào Haller bị viêm thì khả năng bị viêm xoang hàm cao gấp 9,66 lần, KTC 3.46 - 26.93 so với không có tế bào Haller hoặc tế bào Haller không bị viêm. Như vậy khi tế bào Haller bị viêm thì khả năng viêm xoang hàm cao hơn so với không có tế bào Haller hoặc tế bào Haller không viêm. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 173 Mối tương quan giữa vị trí tế bào Haller và tắc lỗ thông xoang hàm Trong những xoang hàm viêm có tắc lỗ thông xoang thì tỉ lệ xuất hiện tế bào Haller ở 1/3 giữa bằng 1,53 (0,78 – 3,02) và 1/3 ngoài bằng 1,08 (0,11 – 10,71) so với vị trí 1/3 trong nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê P > 0,05. Trong những xoang xuất hiện tế bào Haller thì tắc lỗ thông xoang hàm chỉ bằng 0,71 (0,48 – 1,06) so với không có tế bào Haller và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê P > 0,05. Với kết quả nêu trên, chúng ta thấy rằng về tổng thể thì tế bào Haller không ảnh hưởng gì đến sự tắc nghẽn lỗ thông xoang hàm. KẾT LUẬN Về lâm sàng và nội soi mũi xoang chúng ta không thể đánh giá được có sự hiện diện của tế bào Haller hay không. CT Scan giúp ta đánh giá chính xác sự hiện diện của tế bào Haller cũng như xác định được các đặc điểm của tế bào Haller như: vị trí, kích thước, số lượng, tình trạng tế bào Haller bị viêm và hình dạng tế bào Haller.Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan giữa tế bào Haller và viêm xoang hàm. Chỉ có trường hợp tế bào Haller bị viêm thì có liên quan đến viêm xoang hàm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cao Thị Hoàng Vân (2011). Khảo sát sự liên quan giữa tế bào Haller và viêm xoang mạn tính. Luận văn Thạc sĩ Y học. ĐH Y dược Tp HCM. 2. Huỳnh Khắc Cường, Đặng Xuân Hùng (2016). Viêm mũi xoang. NXB Y học, Hà Nội. 3. Huỳnh Khắc Cường, Nguyễn Đình Bảng, Nguyễn Ngọc Minh, Trần Cao Khoát (2006). Cập nhật chẩn đoán và điều trị bệnh lý mũi xoang. NXB Y học, Tp HCM. 4. Nguyễn Hữu Khôi, Phạm Kiên Hữu, Nguyễn Hoàng Nam (2005). Phẫu thuật nội soi mũi xoang kèm Atlas minh họa. NXB ĐH Quốc Gia, Tp. HCM. 5. Raina A, Guledgud MV, Patil K (2012). Infraorbital ethmoid (Haller's) cells: a panoramic radiographic study. Dentomaxillofac Radiol, 41(4:305-8. 6. Stackpole SA, Edelstein DR (1997). The anatomic relevance of the Haller cell in sinusitis. Am J Rhinol, 11(3):219-23. 7. Võ Hiếu Bình (2007). Hình dạng - vị trí - kích thước tế bào Haller và xương giấy trong phẩu thuật nội soi mũi xoang nhằm tránh mổ vào hốc mắt. Y Học Tp. Hồ Chí Minh, 11(1):120 -4. 8. Wani AA, Kanotra S, Lateef M, Ahmad R, Qazi SM, Ahmad S (2009). CT scan evaluation of the anatomical variations of the ostiomeatal complex. Indian J Otolaryngol Head Neck Surg, 61(3): 163-8. Ngày nhận bài báo: 11/09/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_te_bao_haller_o_benh_nhan_viem_xoang_ham.pdf
Tài liệu liên quan