Đặc điểm sinh kế của người Khmer từ kết quả điều tra thực trạng kinh tế - Xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 - Lê Thanh Sang

Tài liệu Đặc điểm sinh kế của người Khmer từ kết quả điều tra thực trạng kinh tế - Xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 - Lê Thanh Sang: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ngày nhận bài: 23/2/2018; Ngày phản biện: 25/2/2018; Ngày duyệt đăng: 5/3/2018 (1) Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, e-mail: lethanhsang.vkhxh@gmail.com (2) Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh, e-mail: vokimphuongbvi@gmail.com Số 21 - Tháng 3 năm 2018 ĐẶC ĐIỂM SINH KẾ CỦA NGƯỜI KHMER TỪ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2015* Lê Thanh Sang(1) Võ Thị Kim Phượng(2) Dựa trên kết quả điều tra quốc gia về tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015, bài viết phân tích đặc điểm sinh kế của người Khmer trong đối sánh với các tộc người khác từ quan điểm sinh kế bền vững. Kết quả cho thấy người Khmer phụ thuộc nhiều vào sinh kế nông nghiệp và lao động làm mướn, có thu nhập thấp và tỷ lệ hộ nghèo cao, phản ảnh các nguồn vốn sinh kế hạn chế. So với người Hoa, người Chăm và so với mức bình quân của các dân tộc thiểu số, chất lượng nguồn nhân lực của ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 424 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sinh kế của người Khmer từ kết quả điều tra thực trạng kinh tế - Xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 - Lê Thanh Sang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ngày nhận bài: 23/2/2018; Ngày phản biện: 25/2/2018; Ngày duyệt đăng: 5/3/2018 (1) Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, e-mail: lethanhsang.vkhxh@gmail.com (2) Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh, e-mail: vokimphuongbvi@gmail.com Số 21 - Tháng 3 năm 2018 ĐẶC ĐIỂM SINH KẾ CỦA NGƯỜI KHMER TỪ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2015* Lê Thanh Sang(1) Võ Thị Kim Phượng(2) Dựa trên kết quả điều tra quốc gia về tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015, bài viết phân tích đặc điểm sinh kế của người Khmer trong đối sánh với các tộc người khác từ quan điểm sinh kế bền vững. Kết quả cho thấy người Khmer phụ thuộc nhiều vào sinh kế nông nghiệp và lao động làm mướn, có thu nhập thấp và tỷ lệ hộ nghèo cao, phản ảnh các nguồn vốn sinh kế hạn chế. So với người Hoa, người Chăm và so với mức bình quân của các dân tộc thiểu số, chất lượng nguồn nhân lực của người Khmer thấp hơn. Sự tiếp cận hạn chế hơn với hệ thống giáo dục là thách thức lớn nhất đối với sinh kế bền vững của cộng đồng này trong bối cảnh biến đổi môi trường và hội nhập hiện nay. Từ khóa: Người Khmer; sinh kế; các nguồn vốn sinh kế; chất lượng nguồn nhân lực. 1. Giới thiệu Người Khmer là một trong số 53 tộc người thiểu số ở Việt Nam, có qui mô dân số lớn chỉ sau người Tày, Thái, và Mường, sống tập trung chủ yếu ở Tây Nam Bộ (TNB), và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của vùng. Bài viết này tập trung phân tích các đặc điểm sinh kế của người Khmer trong bối cảnh cộng đồng này đang phải đối mặt với các thách thức ngày càng tăng lên của biến đổi môi trường và hội nhập. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009, dân số người Khmer ở Việt Nam là 1.260.640 người, trong đó 1.183.476 người sống ở TNB, chiếm 93,9% dân số người Khmer trong toàn quốc và 6,9% dân số của toàn vùng. Số liệu mới nhất từ cuộc Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số (DTTS) cho thấy dân số người Khmer ngày 1/7/2015 là 1.283.405 người, trong đó chỉ riêng 9 tỉnh thành TNB có đông người Khmer sinh sống là Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, Vĩnh Long, và Cần Thơ đã chiếm tới 93,6%, các tỉnh thành Đông Nam Bộ chiếm khoảng 5,6%, và chỉ 0,6% sống rải rác ở tất cả các địa phương còn lại trong cả nước (UBDT-UNDP-Arish Aid 2017: 96) 1. 1. Mặc dù cuộc Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 được chính thức bắt đầu từ 1/8/2015, số liệu về dân số của 53 dân tộc thiểu số được báo cáo tại thời điểm 1/7/2015. Do vậy, số liệu về qui mô và phân bố dân số được tính vào ngày 1/7/2015 nhưng kết quả điều tra kinh tế-xã hội được tính vào ngày 1/8/2015. Hơn nữa, số liệu dân số này được báo cáo từ các địa phương trong toàn quốc chứ không phải là kết quả tổng điều tra dân số trực tiếp đến từng hộ nên hai nguồn số liệu trên không đồng nhất về phương pháp thu thập thông tin và số liệu năm 2015 có thể thấp hơn thực tế. Nhận định này được xác nhận khi so sánh tỷ lệ tăng dân số hàng năm của người Khmer từ kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở giai đoạn 1999-2009 (1,78%/năm) thì tỷ lệ này trong giai đoạn 2009-2015 rất thấp (chỉ 0,29%/năm). Tuy vậy, kết quả này không ảnh hưởng đáng kể đến tỷ trọng phân bố dân số người Khmer với giả định rằng mức thấp hơn này là tương đồng ở tất cả các địa phương Hầu hết người Khmer sống ở nông thôn, chiếm 84,4% dân số năm 2009, trong đó chủ yếu là tại các khu vực ven biển. Sinh kế của người Khmer phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và thủy sản. Năm 2015, tỷ trọng lao động của người Khmer trong lĩnh vực này là 58,0%. Hiện nay, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã được ghi nhận đang ngày càng có nhiều tác động rõ ràng và trực tiếp đến nơi cư trú và sản xuất nông lâm thủy sản, làm cho các hoạt động sinh kế này phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam cho thấy nếu nước biển dâng lên 1m thì 38,9% diện tích TNB sẽ bị ngập, trong đó diện tích của nhiều tỉnh có đông người Khmer sinh sống sẽ bị ngập nặng như Hậu Giang: 80,6%, Kiên Giang: 76,9%, Cà Mau: 57,7%, Sóc Trăng: 50,7%, Bạc Liêu: 48,6%, Đồng thời, nhu cầu lao động trong sản xuất nông nghiệp đang ngày càng giảm do việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật ngày càng trở nên phổ biến. Để canh tác 1 vụ lúa ở TNB, năm 2014 chỉ cần 18,5 ngày công/ ha, so với năm 1966 là 65 ngày công/ha lúa mùa và năm 1974 là 59,5 ngày công/ha lúa mùa. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ thúc đẩy nhanh hơn quá trình này và tạo ra những thay đổi lớn trong cơ cấu việc làm. Bên cạnh đó, qui mô diện tích đất nông nghiệp bình quân nhân khẩu cũng giảm dần do mật độ dân số tăng lên dù diện tích đất nông nghiệp TNB có được mở rộng trong các thập niên trước nhưng hiện nay gần như đã đạt tới ngưỡng. Dân số của TNB tăng lên gần gấp rưỡi sau 35 năm, từ khoảng 11,9 triệu người năm 1979 lên đến 17,5 triệu người năm 2014. Xu hướng tích tụ ruộng đất đang diễn ra ở TNB trong 2 thập niên qua một mặt làm tăng diện tích đất lúa bình quân đối với các hộ sản xuất nông nghiệp nhưng mặt khác cũng làm tăng tỷ lệ hộ nông dân không đất và làm đông đảo thêm đội ngũ những người làm mướn Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 9Số 21 - Tháng 3 năm 2018 ở nông thôn, trong đó có người Khmer. Bên cạnh các yếu tố môi trường và kỹ thuật, các biến động của thị trường thời gian qua cũng đang làm cho thu nhập của người nông dân bị giảm sút và bấp bênh. Các yếu tố trên đang ngày càng gia tốc sức ép đối với cơ hội việc làm trong nông nghiệp và trong khu vực nông thôn TNB nói chung cũng như trong cộng đồng người Khmer nói riêng, dẫn đến xu hướng tìm kiếm các cơ hội việc làm phi nông nghiệp và ngoài không gian sinh kế truyền thống đang tăng lên nhanh chóng. Các quan sát thông thường cũng như các nghiên cứu cho thấy nhiều người Khmer từ TNB di cư lên Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ để kiếm việc làm trong khu vực phi chính thức và cả trong các khu công nghiệp. Ngô Thị Phương Lan (2017) đã trưng ra bằng chứng về mối quan hệ giữa các rủi ro sinh kế với di cư từ thực tiễn nghiên cứu trường hợp ở Trà Vinh và nhận định những khó khăn, bất ổn trong sản xuất nông nghiệp là một yếu tố quan trọng giải thích cho di cư lao động của người Khmer TNB khi nó trở thành một chiến lược sinh kế ngày càng được nhiều người lựa chọn. Cho đến nay, dù có rất nhiều nghiên cứu về sinh kế của người Khmer TNB từ các tiếp cận dân tộc học, xã hội học, và kinh tế học, các nghiên cứu này thường dựa trên các kết quả điều tra mẫu với qui mô nhỏ và trên phạm vi hẹp. Cuộc Điều tra thực trạng kinh tế-xã hội của 53 DTTS năm 2015 là cơ sở dữ liệu chuyên sâu ở cấp độ quốc gia đầu tiên và mới nhất về tất cả các DTTS ở Việt Nam chưa được khai thác rộng rãi. Cơ sở dữ liệu này không chỉ cho phép phân tích các đặc điểm sinh kế của người Khmer mà còn có thể so sánh nó trong mối quan hệ với các DTTS khác, dựa trên các chỉ báo được đo lường đồng nhất. Bài viết này là một khởi đầu trong chuỗi bài viết về các vấn đề sinh kế, di cư và phát triển của người Khmer ở TNB trong bối cảnh biến đổi môi trường và hội nhập, sử dụng các cơ sở dữ liệu khác nhau. Do vậy, bài viết chỉ giới hạn trong việc phân tích cơ sở dữ liệu này về các hoạt động sinh kế và các nguồn vốn sinh kế của người Khmer trong tầm nhìn so sánh với cả nước, với các DTTS nói chung và với các cộng đồng DTTS sống ở vùng đồng bằng là người Hoa và người Chăm – mà một bộ phận của các tộc người thiểu số này đang cộng cư với người Khmer ở TNB, dựa trên tiếp cận khung sinh kế bền vững. 2. Nguồn số liệu và phương pháp phân tích Nguồn số liệu phân tích dựa trên một phần kết quả điều tra thực trạng kinh tế-xã hội của 53 DTTS ngày 01/8/2015 tại các vùng DTTS trong cả nước. Vùng DTTS trong cuộc điều tra này được xác định là địa bàn cư trú có từ 30% dân số là người DTTS trở lên2. Dựa theo tiêu chí này, có 1.099.491 người 2. Xem thêm định nghĩa địa bàn vùng dân tộc thiểu số và hộ dân tộc thiểu số trong Phương án điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015, ban hành kèm theo Quyết định số 407/QĐ-TCTK ngày 29 tháng 5 năm 2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê. Các nhóm dân tộc thiểu số có dân số từ 10.000 người trở xuống (theo kết quả Tổng điều tra dân số DTTS ở TNB sống tại các địa bàn vùng DTTS, chiếm 79,38% tổng số người DTTS ở TNB. Vì 93,7% người Khmer sống ở TNB nên kết quả này cũng có tính đại diện cao cho cộng đồng người Khmer ở TNB. Khung sinh kế bền vững của Bộ Phát triển Quốc tế (Department for International Development- DFID) Vương quốc Anh được sử dụng để định hướng các phân tích trong điều kiện số liệu cho phép. Khung sinh kế bền vững này cung cấp một cách hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế của con người và các mối quan hệ cơ bản giữa chúng. Một cách cụ thể, khung sinh kế bền vững chỉ ra các quá trình và các cấu trúc đang chuyển đổi sẽ tạo ra bối cảnh dễ bị tổn thương đối với các sinh kế, hình thành các tương tác đa chiều với các nguồn lực sinh kế, từ đó dẫn đến các chiến lược sinh kế và tạo ra các kết quả sinh kế. Các chiến lược sinh kế được hình thành trên cơ sở vận dụng các nguồn lực sinh kế mà con người có thể tiếp cận và phát huy để thích nghi với các bối cảnh sinh kế và các kết quả sinh kế có thể tác động trở lại đối với các nguồn lực sinh kế này, bao gồm vốn tự nhiên, vốn con người, vốn vật chất, vốn tài chính, và vốn xã hội. Tuy nhiên, do chưa thể tiếp cận số liệu gốc, bài viết không phân tích đầy đủ các yếu tố được nêu ra trong Khung sinh kế bền vững mà chỉ tính toán một số chỉ báo liên quan từ các bảng số liệu được tổng hợp trong báo cáo được xuất bản, không thể phân tách thành các chỉ báo chi tiết và đầy đủ hơn. Các bảng số liệu trong báo cáo kết quả điều tra 53 DTTS năm 2015 liên quan đến người Hoa không tách riêng cho TNB, nên dù tỷ trọng dân số người Hoa ở TNB khá cao, chỉ sau Đông Nam Bộ (ĐNB) (20,5% so với 65,9% ở ĐNB và 13,6% ở tất cả các vùng còn lại), kết quả này không đại diện cho cộng đồng người Hoa TNB. Tương tự, tính đại diện từ kết quả cuộc điều tra đối với người Chăm ở TNB càng thấp hơn vì chỉ có 9,4% người Chăm sống ở vùng này trong khi đến 79,1% sống ở Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung (đông nhất ở Ninh Thuận). Do vậy, sự so sánh này ít có ý nghĩa khi nhìn trong phạm vi TNB và cần thận trọng khi tham khảo nhưng rõ ràng là có ý nghĩa hơn nhiều và mang tính đại diện cao khi so sánh sinh kế của người Khmer với hai cộng đồng DTTS sống ở khu vực đồng bằng là người Hoa và người Chăm trong phạm vi quốc gia. Đây là những vấn đề cần lưu ý khi so sánh các đặc điểm sinh kế của người Khmer với các tộc người này 3. Hoạt động sinh kế chính Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2015 cho thấy, tỷ lệ người Khmer từ 15 tuổi trở lên sống tại vùng DTTS có việc làm chiếm 75,4%, trong đó nam là 55,1% so với chỉ 44,9% của nữ trong tổng số lao động có việc làm. Các tỷ lệ và nhà ở 2009) được điều tra toàn bộ tại địa bàn vùng dân tộc thiểu số, các nhóm dân tộc thiểu số còn lại được điều tra chọn mẫu dựa trên qui mô dân số. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 10 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 này đối với người Hoa và người Chăm tương ứng là 66,1%, 58,4%, 41,6% và 74,0%, 54,4%, 45,6%. Mở rộng cho 53 DTTS thì các tỷ lệ tương ứng là 86,1%, 52,0%, 48,0% và cho tất cả 54 dân tộc (theo kết quả điều tra lao động việc làm 2015 của TCTK3) thì các tỷ lệ tương ứng là 76,1%, 51,5%, 48,5%. Điều này cho thấy sự tham gia lao động tạo thu nhập của người Khmer khá tương đồng với người Chăm và với cả nước nhưng cao hơn người Hoa và thấp hơn đáng kể so với trung bình của 53 DTTS. Tỷ lệ tham gia lao động của nam và nữ cũng khá tương đồng với người Chăm và cả nước, nhưng tỷ lệ nữ người Khmer tham gia lao động tạo thu nhập thấp hơn so với trung bình của 53 DTTS và cả nước. Tỷ lệ tham gia lao động thấp hơn có thể phản ảnh ở một mức độ nhất định vị thế kinh tế thấp và sự phụ thuộc nhiều hơn của phụ nữ người Khmer vào công việc nội trợ, chăm sóc gia đình. Tỷ trọng lao động của người Khmer trong ngành nông lâm thủy sản là 58,0%, trong ngành công nghiệp-xây dựng là 25,0%, và trong ngành dịch vụ là 17,0%. So với người Chăm thì cơ cấu này ít có sự khác biệt dù tỷ trọng lao động làm việc trong ngành dịch vụ của người Chăm cao hơn (tương ứng là 59,9%, 16,2%, 23,9%), nhưng nông nghiệp không phải là sinh kế chính của người Chăm ở TNB. So với người Hoa thì sự khác biệt về các hoạt động sinh kế rất rõ nét khi chỉ 26,9% lao động người Hoa làm việc trong ngành nông lâm thủy sản, nhưng có đến 49,0% trong ngành dịch vụ. So với nhiều DTTS khác thì lao động người Khmer làm việc trong ngành nông lâm thủy sản thấp hơn (tỷ trọng tương ứng đối với 53 DTTS là 81,9%) do hầu hết các DTTS sống ở vùng trung du và rừng núi, nhưng người Khmer vẫn phụ thuộc nhiều vào các hoạt động sinh kế này. Cơ cấu nghề nghiệp của những người Khmer đang làm việc cho thấy phần lớn họ là lao động giản đơn (47,4%), lao động có kỹ thuật trong nông lâm thủy sản (21,8%) và thợ thủ công (13,8%). So với 53 DTTS nói chung thì tỷ trọng lao động giản đơn người Khmer thấp hơn nhiều trong khi lao động có kỹ thuật trong nông lâm thủy sản và thợ thủ công cao hơn nhiều, cho thấy có sự phát triển cao hơn về kỹ năng nghề nghiệp của lao động người Khmer. Tuy nhiên, số các nhà lãnh đạo, các nhà chuyên môn kỹ thuật là người Khmer không có sự vượt trội, thậm chí thấp hơn ở một số lĩnh vực. So với cộng đồng người Chăm và người Hoa thì tỷ trọng nghề nghiệp của những người Khmer đang làm việc phản ảnh những hạn chế rõ rệt. Tỷ trọng lao động người Khmer là nhà chuyên môn kỹ thuật bậc cao và bậc trung chỉ chiếm 1,3% và 0,9% trong khi tỷ trọng tương ứng ở người Hoa là 3,3% và 2,1%, ở người Chăm là 3,0% và 3,2% (xem bảng 1). Số người làm 3. Cuộc Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 không có số liệu về người Kinh, nên UBDT-UNDP-Arish Aid (2017: 142) đã sử dụng kết quả cuộc Điều tra lao động việc làm 2015 của Tổng cục Thống kê đại diện cho tất cả 54 dân tộc trong cả nước để có một cái nhìn so sánh. nhân viên dịch vụ, bảo vệ, bán hàng, thường đòi hỏi các kỹ năng nhất định, cũng thấp hơn nhiều so với người Hoa và người Chăm. Bảng 1: Cơ cấu nghề nghiệp của lao động đang làm việc người Khmer so với người Hoa, người Chăm, 53 DTTS và tất cả 54 dân tộc: 01/8/2015 Nghề nghiệp Tất cả 54 dân tộc (**) 53 DTTS Khmer Hoa Chăm Nhà lãnh đạo 1,1 0,5 0,2 0,6 0,2 Chuyên môn kỹ thuật bậc cao 6,5 1,3 1,3 3,3 3,0 Chuyên môn kỹ thuật bậc trung 3,2 1,4 0,9 2,1 3,2 Nhân viên 1,8 0,5 0,5 3,2 0,6 Dịch vụ cá nhân, bảo vệ, bán hàng 16,6 4,2 9,2 32,4 12,7 LĐ có kỹ thuật trong nông lâm thủy sản 10,4 9,9 21,8 5,1 17,5 Thợ thủ công, thợ khác có liên quan 12,0 4,7 13,8 10,9 8,1 Thợ lắp ráp và vận hành máy móc 8,5 2,1 4,9 11,8 3,5 Lao động giản đơn 39,9 75,4 47,4 30,6 51,2 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 (**) Điều tra lao động việc làm 2015 của Tổng cục Thống kê Nguồn: UBDT-UNDP-Arish Aid. 2017. Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số: 142-143. 4. Thu nhập từ hoạt động sinh kế Kết quả điều tra (xem bảng 2) cho thấy, năm 2015 thu thập bình quân nhân khẩu của người Khmer khoảng 1,529 triệu/tháng, cao hơn chút ít so với thu nhập của người Chăm là khoảng 1,329 triệu/tháng, và chỉ bằng khoảng một nửa mức thu nhập của người Hoa. Cơ cấu thu nhập của người Khmer phụ thuộc chủ yếu vào tiền lương, tiền công (49,9%) và từ sản xuất nông lâm thủy sản (30,7%). Phần thu nhập từ các hoạt động phi nông lâm thủy sản của người Khmer chiếm tỷ trọng thấp, trong khi tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động này cao gấp từ 2 đến 3 lần ở cộng đồng người Chăm và người Hoa, phản ảnh sự khác biệt trong cơ cấu nghề nghiệp. Mặc dù so với 53 DTTS, cơ cấu thu nhập của người Khmer dựa vào nguồn tiền lương, tiền công cao hơn và ít phụ thuộc vào nông lâm thủy sản hơn nhưng không có sự khác biệt nào đối với nguồn thu từ các hoạt động phi nông lâm thủy sản. Tóm tại, phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông lâm thủy sản và tiền công của lao động giản đơn kể cả trong nông nghiệp và ngoài nông nghiệp là một đặc điểm quan trọng trong các hoạt động sinh kế của người Khmer, phản ảnh những hạn chế nhất định về các nguồn vốn sinh kế của cộng đồng này. Bảng 2: Thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng và cơ cấu thu nhập của người Khmer so với người Hoa, người Chăm và 53 DTTS: 01/8/2015 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 11Số 21 - Tháng 3 năm 2018 Dân tộc TNBQNK /tháng (1000đ) Tỷ trọng các nguồn thu (%) Tiền lương, tiền công Nông lâm thủy sản Phi nông lâm thủy sản Khác Khmer 1.529,4 49,9 30,7 9,7 9,7 Hoa 2.933,4 40,4 14,7 32,7 12,1 Chăm 1.329,0 51,1 22,3 20,2 6,4 53 DTTS 1.161,4 39,6 42,1 9,9 8,4 Nguồn: UBDT. 2016. Kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 dân tộc thiểu số năm 2015, Biểu số 3/TN. 5. Các nguồn vốn sinh kế Sự hạn chế về các hoạt động sinh kế và kết quả sinh kế trên phản ảnh những hạn chế về các nguồn vốn sinh kế, trong đó có nguồn vốn nhân lực. Thực trạng về trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ của người Khmer cho thấy nguồn vốn nhân lực còn hạn chế, xét trên nhiều chỉ báo cụ thể như sau: Về học vấn, 40,5% dân số người Khmer chưa tốt nghiệp tiểu học, 37,2% tốt nghiệp tiểu học, 13,1% tốt nghiệp trung học cơ sở và chỉ 9,2% tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên. Mức học vấn này thấp hơn nhiều so với người Hoa và người Chăm, khi tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên của hai cộng đồng này tương ứng là 21,8% và 18,1%. Số người Khmer từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết chỉ chiếm 74,5%, thấp hơn nhiều so với người Hoa (92,0%), người Chăm (79,7%), trung bình của 53 DTTS (79,8%) và trung bình của cả nước (94,7%). Đáng lưu ý hơn là phụ nữ người Khmer bất lợi hơn khi chỉ có 68,0% trong số này biết đọc biết viết, thấp hơn rất nhiều so với các nhóm so sánh (tương ứng là 89,1%, 74,3%, 73,4%, và 93,0%). Đối với học sinh - nguồn nhân lực tương lai, tỷ lệ học sinh người Khmer trong độ tuổi đi học, đi học đúng cấp cũng thấp đáng báo động là 22,7%, thấp hơn rất nhiều so với không chỉ học sinh người Hoa (63,2%), người Chăm (41,8%), mà còn so với mức bình quân của 53 DTTS (32,3%), trong đó có nhiều DTTS sống ở những vùng núi cao, phân tán, rất khó khăn để học sinh đến trường lớp. Tương tự, tỷ lệ người Khmer từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chỉ chiếm 3,5%, trong đó 0,3% là sơ cấp nghề, 1,0% là trung cấp, 0,8% là cao đẳng, và 1,4% là đại học trở lên. Tỷ trọng lao động người Khmer được đào tạo chuyên môn kỹ thuật thấp hơn nhiều so với người Chăm (8,7%), người Hoa (9,5%), người DTTS nói chung (6,2%) và tất cả các dân tộc (19,9%). Trình độ học vấn thấp, ít được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của nguồn lao động hiện nay và sự hạn chế trong tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh là những thách thức đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai – yếu tố quan trọng hàng đầu để cải thiện sinh kế và phát triển sinh kế bền vững của cộng đồng người Khmer. Đối với các hoạt động nông lâm thủy sản thì nguồn vốn tự nhiên là rất quan trọng, mà quan trọng nhất đối với nông dân chính là đất nông nghiệp. Kết quả điều tra năm 2015 cho thấy, diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ người Khmer là 4.724,2m2, khá tương đồng với hai cộng đồng cư trú ở đồng bằng là người Hoa và người Chăm nhưng thấp hơn đáng kể so với mức bình quân của 53 DTTS là 7.268,0m2/ hộ, vì các DTTS khác sống ở vùng trung du và miền núi nên mật độ dân số thấp hơn. Tuy nhiên, điều đáng nói là có đến 72,7% số hộ người Khmer có nhu cầu cần thêm đất nông nghiệp, chứng tỏ nguồn vốn tự nhiên này chưa đáp ứng nhu cầu sinh kế của hộ. Với qui mô trung bình là 4,1 nhân khẩu/hộ thì bình quân mỗi nhân khẩu chỉ đạt 1.152m2, rõ ràng là ít khi sinh kế của hộ chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Đánh giá về các biến đổi môi trường, các báo cáo của Chính phủ và các nghiên cứu cho thấy tình trạng khai thác các nguồn tài nguyên đất, nước thiếu bền vững, và nước biển dâng, xâm nhập mặn, lũ lụt, hạn hán cùng các hiện tượng thời tiết cực đoan khác đang làm cho nguồn lực tự nhiên này bị suy giảm và trở nên khan hiếm hơn, tác động tiêu cực hơn đối với sinh kế nông lâm thủy sản. Đối với nguồn vốn vật chất của sinh kế, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt gia đình, và công cụ sản xuất là những yếu tố chính. Nhà ở vừa là một chỉ báo phản ảnh điều kiện sống và an sinh xã hội của dân cư nhưng ở một khía cạnh khác lại là một nguồn vốn sinh kế vì nó liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các hoạt động sinh kế khi nhà vừa là nơi ở, vừa có thể là kho cất trữ nguyên liệu, sản phẩm, là không gian sản xuất, kinh doanh chính hoặc một số công đoạn nào đó đối với một số sinh kế nhất định, và là nơi tái sản xuất sức lao động của hộ. Chất lượng nhà ở thể hiện tập trung chất lượng của nguồn vốn vật chất này. Kết quả khảo sát năm 2015 (xem bảng 3) cho thấy, đối với hộ người Khmer, nhà bán kiên cố là phổ biến nhất, chiếm 54,2%, nhưng tỷ lệ nhà tạm cũng cao, tới 48,3%, trong khi chỉ 7,5% là nhà kiên cố. So với 2 cộng đồng DTTS cư trú ở đồng bằng và gần gũi là người Chăm và người Hoa cũng như với 53 DTTS nói chung và tất cả 54 dân tộc trong cả nước thì chất lượng nhà ở của các hộ người Khmer là thấp nhất, thể hiện các đặc điểm của địa bàn cư trú TNB nhưng cũng phản ảnh những hạn chế về nguồn lực vật chất của cộng đồng thiểu số này. Bảng 3: Tỷ lệ nhà kiên cố, bán kiên cố, nhà tạm của hộ người Khmer so với người Hoa, người Chăm, 53 DTTS và tất cả 54 dân tộc: 01/8/2015 Dân tộc Tổng số Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà tạm Tất cả các dân tộc (***) 100,0 46,7 43,7 9,6 Hộ DTTS (ĐT DTTS 2015) 100,0 14,5 70,2 15,3 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 12 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 Khmer 100,0 7,5 54,2 48,3 Hoa 100,0 46,0 49,6 4,4 Chăm 100,0 9,8 83,4 6,8 (***) Điều tra dân số giữa kỳ 2014 của Tổng cục Thống kê Nguồn: UBDT-UNDP-Arish Aid. 2017. Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số: 123. Việc tiếp cận với lưới điện, nước sạch, và nhà xí hợp vệ sinh giúp cải thiện đời sống, đảm bảo tiện nghi và sức khỏe của nguồn nhân lực. Ngoài ra, nguồn điện này cũng có thể sử dụng một phần cho sinh kế của hộ như tưới tiêu nước hoặc các hoạt động sản xuất kinh doanh khác của hộ gia đình mà không được tách riêng do qui mô nhỏ. Vì vậy, đây cũng là một nguồn vốn vật chất của sinh kế cần được tính đến. Hộ người Khmer có sự tiếp cận phổ biến và tương đồng với người Hoa, người Chăm về điện thắp sáng và nước hợp vệ sinh, nhưng tỷ lệ sử dụng nhà vệ sinh tự hoại/bán tự hoại còn thấp (xem bảng 4). Với sự mở rộng nhanh của dịch vụ cung cấp điện, nước sạch trong những năm qua và các chính sách trợ giúp dành cho khu vực nông thôn và cộng đồng DTTS, hầu hết hộ DTTS đã sử dụng điện và nước hợp vệ sinh. Đối với người Khmer, các tỷ lệ này 98,0% và 93,9%, khá tương đồng với người Chăm và thấp hơn chút ít so với người Hoa nhưng cao hơn đáng kể so với 53 DTTS nói chung. Đối với nhà vệ sinh, chỉ mới 36,6% số hộ Khmer sử dụng hố xí tự hoại hoặc bán tự hoại trong khi 54,1% sử dụng các loại hố xí khác và còn 9% số hộ không có hố xí. Tình trạng sử dụng “cầu cá” hoặc các loại hố xí đơn giản vẫn còn khá phổ biến ở TNB. Bảng 4: Tỷ lệ sử dụng điện, nước sinh hoạt, và các loại nhà vệ sinh của hộ người Khmer so với người Hoa, người Chăm, và 53 DTTS: 01/8/2015 Tổng số hộ DTTS 53 DTTS Khmer Hoa Chăm (3.040.956) (313.709) (178.968) (37.902) 100,0 100,0 100,0 100,0 Hộ có điện lưới 93,9 98,0 99,6 98,8 Hộ dùng nước hợp vệ sinh 73,3 93,9 97,2 94,8 Hộ sử dụng hố xí tự hoại /bán tự hoại 27,8 36,6 89,5 54,2 Hộ sử dụng hố xí khác 53,7 54,1 9,0 14,4 Hộ không có hố xí 17,9 9,0 1,2 31,2 Không xác định 0,6 0,4 0,3 0,2 Nguồn: UBDT-UNDP-Arish Aid. 2017. Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số: 135-137 Tương tự, các đồ dùng gia đình như điện thoại, tivi, đài, máy vi tính, phương tiện đi lại, chủ yếu là để phục vụ cho nhu cầu của các thành viên trong hộ gia đình, nhưng ở một mức độ nhất định, các phương tiện này cũng được sử dụng trực tiếp cho các hoạt động sinh kế hoặc gián tiếp nhờ tiếp cận với các thông tin kỹ thuật, thị trường, chính sách, và là kết quả được tích lũy thành nguồn lực vật chất từ các hoạt động sinh kế. Do vậy, đây cũng là những chỉ báo thể hiện nguồn vốn vật chất của sinh kế hộ gia đình. Xét trên hầu hết các chỉ báo ở bảng 5, hộ người Khmer chỉ đạt mức trung bình hoặc thấp hơn trung bình khi so sánh với các DTTS khác. Trong điều kiện hội nhập và kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, tỷ lệ hộ người Khmer có máy vi tính và có internet chỉ chiếm 4,8% và 4,1% tương ứng, thấp nhất và thấp xa so với không chỉ người Hoa, mà cả người Chăm và mức trung bình của 53 DTTS. Điều này cho thấy những hạn chế nhất định của cộng đồng người Khmer trong quá trình hội nhập. Bảng 5: Tỷ lệ sở hữu đồ dùng gia đình của hộ người Khmer so với người Hoa, người Chăm, và 53 DTTS: 01/8/2015 Tổng số hộ DTTS Hộ DTTS Khmer Hoa Chăm (3.040.956) (313.709) (178.968) (37.902) 100,0 100,0 100,0 100,0 Điện thoại 75,2 72,3 92,9 72,0 Máy vi tính 7,7 4,8 46,6 10,3 Internet 6,5 4,1 47,1 7,7 Đài/ radio/ cát sét 6,9 11,4 15,9 14,2 Tivi 84,9 87,2 97,9 89,6 Xe máy 80,6 68,5 92,6 82,0 Ô tô 1,5 1,0 3,5 0,6 Quạt điện 75,2 83,8 96,7 87,6 Điều hòa nhiệt độ 2,8 1,4 30,9 1,5 Nguồn: UBDT-UNDP-Arish Aid. 2017. Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số: 132-134, 150-152, 156-159. Tài sản sinh kế, nghề thủ công truyền thống hoặc dịch vụ du lịch phản ảnh những đặc điểm, qui mô sinh kế cũng như khả năng phát huy văn hóa truyền thống để làm du lịch. Nhìn chung, các tài sản sinh kế ở bảng 6 cho thấy qui mô sinh kế của hộ người Khmer phản ảnh tính chất nhỏ lẻ của nền kinh tế tiểu nông ở Việt Nam (chỉ 2,2% số hộ có máy kéo/máy cày, 25,1% số hộ có máy bơm nước, thấp hơn rất nhiều so với các DTTS nói chung) và thiên về sản xuất hơn là chế biến sản phẩm nông nghiệp (chỉ 0,2% số hộ có máy xay xát, thấp hơn rất nhiều so với các DTTS còn lại). Số hộ làm nghề thủ công truyền thống hoặc dịch vụ du lịch cũng không đáng kể. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 13Số 21 - Tháng 3 năm 2018 Bảng 6: Tài sản sinh kế, nghề thủ công và dịch vụ du lịch: 01/8/2015 Hộ DTTS Khmer Hoa Chăm Con trâu/ hộ 0,6 0,1 0,1 0,1 Con bò/ hộ 0,6 0,5 0,1 1,0 Con lợn/ hộ 1,8 1,0 0,6 0,5 Máy kéo/ máy cày 14,1 2,2 1,9 3,3 Máy xay xát 9,0 0,2 2,2 0,7 Máy bơm nước 34,1 25,1 31,5 10,3 % hộ có nghề thủ công truyền thống 1,8 0,8 0,4 3,2 Số hộ có làm dịch vụ, du lịch 0,3 0,2 0,2 0,3 Nguồn: UBDT-UNDP-Arish Aid. 2017. Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số: 147-149, 153-155. Nguồn vốn tài chính dù không được thể hiện trực tiếp ở đây, nhưng với thu nhập từ sinh kế như đã trình bày ở trên và tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của người Khmer sống ở vùng DTTS năm 2015 là 14,8% và 10,3% thì khó có thể tích lũy và đầu tư đáng kể để cải thiện sinh kế từ các khoản thu nhập trên. Hơn nữa, với gần 1/2 số lao động người Khmer làm các công việc giản đơn, chủ yếu làm mướn, có thể thấy nhu cầu về nguồn vốn tài chính là không đáng kể. Trồng trọt, nuôi bò, thủy sản, và phát triển những nghề phi nông nghiệp qui mô nhỏ là những hoạt động sinh kế đòi hỏi vốn đầu tư. Việc nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật nhằm phát triển sinh kế mới đòi hỏi đầu tư dài hạn. Đây là những thách thức rất khó vượt qua của đa số các hộ người Khmer hiện nay. Với những nguồn lực hạn chế như trên, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các DTTS nói chung và với người Khmer nói riêng là hết sức quan trọng. Ngoài hai chương trình quốc gia là Chương trình giảm nghèo và Chương trình xây dựng nông thôn mới dành cho hộ nghèo và khu vực nông thôn nói chung, các chương trình dành riêng cho vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số như Chương trình 134, 135 đã đầu tư để (1) phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội: đường bộ, thủy lợi, điện lưới, nước sạch, trường lớp, trạm y tế, cơ sở đào tạo nghề, bưu điện, tại các vùng DTTS và (2) hỗ trợ trực tiếp cho các hộ DTTS trong phát triển sinh kế, cho vay vốn làm ăn, cấp bảo hiểm y tế, cấp học bổng, đào tạo miễn phí, giới thiệu việc làm, Đây là nguồn vốn xã hội rất to lớn được huy động nhằm cải thiện điều kiện sống và nâng cao các nguồn vốn sinh kế của các cộng đồng DTTS nói chung và người Khmer nói riêng, góp phần rút ngắn khoảng cách trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng. Tuy nhiên, mức độ đầu tư ở cấp hộ gia đình và khả năng huy động các nguồn vốn xã hội này của hộ gia đình người Khmer vào việc phát triển sinh kế chưa đạt được hiệu quả cao. Các chính sách này mặc dù có những tác động tích cực nhưng chưa sâu rộng trong cộng đồng người Khmer và các bất ổn sinh kế hiện nay là yếu tố chính của di cư lao động người Khmer đến các thành phố để tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp 6. Một số bàn luận về sinh kế của người Khmer Với địa bàn cư trú tập trung ở khu vực nông thôn, sinh kế truyền thống của cộng đồng người Khmer phụ thuộc nhiều vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp và liên quan. Những hộ không có đất cũng phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp vì phần lớn họ làm mướn trong lĩnh vực này. Rất ít hộ người Khmer làm việc trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Tuy nhiên, sinh kế nông nghiệp truyền thống đang phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, bấp bênh và khó khăn do các yếu tố kỹ thuật, môi trường, thị trường, và điều kiện sản xuất ngày càng bất lợi. Mặc dù thu nhập từ sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm tương đối so với các lĩnh vực khác, xu hướng mất đất, thiếu đất sản xuất vẫn tăng lên do mật độ dân số tăng, do chuyển đổi chức năng của đất, và do cả những khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy, chuyển đổi sinh kế, trong đó chuyển từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; từ không gian sinh kế truyền thống, gần gũi với gia đình, cộng đồng gắn liền với văn hóa Phật giáo Nam tông sang hướng mở rộng không gian sinh kế hoặc tách khỏi không gian sinh kế truyền thống có vẻ là một lựa chọn đang ngày càng tăng lên của nhiều người lao động Khmer để thích ứng với bối cảnh mới. Tuy nhiên, trình độ học vấn thấp, ít được đào tạo chuyên môn kỹ thuật và ít tiếp cận hơn với hệ thống giáo dục đào tạo có thể là một rào cản lớn nhất hiện nay đối với cộng đồng này để chuyển đổi và phát triển sinh kế bền vững. Các cuộc nghiên cứu về di cư lao động của người Khmer đã nêu ở phần trước cho thấy phần lớn họ làm trong khu vực phi chính thức ở thành thị, mà ở đó việc tiếp cận với các chính sách an sinh xã hội rất hạn chế. Kể cả với những lao động người Khmer làm việc trong các khu công nghiệp thì thu nhập cũng rất thấp, phải chi tiêu tiết kiệm và phải sống trong những khu nhà trọ thiếu tiện nghi và an toàn. Liệu rằng di cư có phải là một chiến lược sinh kế bền vững hay chỉ là một giải pháp tạm thời? Đâu là các chiến lược thay thế có triển vọng hơn? Đây có lẽ là những vấn đề rất lớn cần phải được thảo luận thấu đáo. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực là thành tố rất quan trọng để phát triển sinh kế bền vững nhưng nguồn vốn này ở cộng đồng người Khmer có nhiều hạn chế. Phan Văn Dốp (2012) đã lý giải về mối quan hệ này như sau: Học vấn thấp và không có tay nghề dẫn đến công việc không ổn định, thu nhập thấp, và do vậy không thể hỗ trợ việc học hành của con cái tạo thành “cái vòng lẩn quẩn” không thoát ra được. Ngoài đòi hỏi về tri thức và kỹ năng, nhận thức về sự khác biệt văn hóa và ngôn ngữ liệu có phải là một rào cản đối với lao động người Khmer trong việc thâm nhập một cách bình đẳng vào thị trường lao động nói riêng và các Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 14 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 lĩnh vực khác của xã hội nói chung? Các chính sách đối với cộng đồng người Khmer có những tác động tích cực không thể phủ nhận, nhưng cách tiếp cận chính sách và nhận thức của những người thực hiện chính sách đã thực sự tạo ra hiệu lực, hiệu quả cao của các chính sách rất tốn kém và nhiều tham vọng cho đến nay hay chưa? Hệ thống giáo dục đối với học sinh người Khmer, đào tạo nghề nghiệp đối với lao động trẻ người Khmer, và phương thức hỗ trợ sinh kế dành cho người Khmer, là những vấn đề trung tâm cần phải được đánh giá một cách toàn diện. Mục tiêu phát triển bao trùm và bền vững sẽ không thể đạt được nếu sinh kế của cộng đồng người Khmer dù có sự cải thiện nhưng khoảng cách với phần còn lại ngày càng trở nên cách biệt. Tài liệu tham khảo [1] Bộ Tài nguyên Môi trường, (2016), Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, NXB. Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội; [2] Tổng cục thống kê, (2010), Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. NXB. Thống kê, Hà Nội; [3] Ủy ban Dân tộc, (2016). Kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 dân tộc thiểu số năm 2015, Biểu số 3/TN. thuc-trang-kt-xh-53-dan-toc-thieu-so-nam-2015. htm. Truy cập lúc 9h10 ngày 10 tháng 2 năm 2018; [4] UBDT-UNDP- Arish Aid, (2017). Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu (dựa trên kết quả phân tích số liệu điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015). library/poverty/bao-cao-53-dan-tc.html. Truy cập lúc 9g15 ngày 14/1/2018; [5] Phan Văn Dốp, (2003). “Trình độ học vấn của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long và một số vấn đề xã hội”, trang 135-156, in trong sách Phát triển giáo dục vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB. Đại học Quốc gia TPHCM; [6] Nguyễn Thị Hòa, (2009), “Lao động nữ di cư giúp việc nhà từ Đồng bằng sông Cửu Long tới Thành phố Hồ Chí Minh (Nghiên cứu tại phường 9 thị xã Trà Vinh)”, Kỷ yếu hội thảo Việt Nam học lần thứ ba, trang 350-374; [7] Ngô Thị Phương Lan, (chủ biên - 2017),“Bất ổn sinh kế và di cư lao động của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long”, in trong sách Sinh kế tộc người trong bối cảnh Việt Nam đương đại, NXB. Đại học Quốc gia TPHCM, TPHCM; [8] Trần Hữu Quang, (2016), Báo cáo tổng hợp đề tài “Nhận diện những mô thức ứng xử kinh tế của nông hộ châu thổ sông Cửu Long ngày nay”. Mã số I3.1-2012.13. Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia; [9] Ngô Thị Thu Trang và các cộng sự, (2016), “Thích ứng sinh kế của người nhập cư Khmer tại quận ven đô: Điển cứu tại phường Bình Trị Đông B và phường An Lạc, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ, tập 19, số X2, trang 89-104; [10] Trương Hoàng Trương, (2016), Báo cáo đề tài “Việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 (Trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer)”, Sở Khoa học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh; [11] Lê Thanh Sang và Nguyễn Đặng Minh Thảo, (2017), “Chuyển dịch dân số vùng Tây Nam Bộ trong tầm nhìn so sánh với cả nước và các vùng khác ở Việt Nam: 1979-2014.” Tạp chí Khoa học Xã hội (TPHCM), số 5-225, trang 1-14; [12] DFID, (1999), Sustainable Livelihoods Guidance Sheets, https://www.eldis.org/vfile/ upload/1/document/0901/section2.pdf. Truy cập lúc 9g10 ngày 10 tháng 2 năm 2018. * Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp quốc gia: “Vấn đề dân số và di dân trong phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ”, mã số KHCN-TNB/14-19 KHMER LIVELIHOOD CHARACTERISTICS FROM THE INVESTIGATION RESULT SOCIO-ECONOMIC SITUATION OF THE 53 ETHNIC MINORITIES IN 2015 Le Thanh Sang Vo Thi Kim Phuong Abstract: Based on results of the national survey on ethnic minorities in 2015, this paper analyzes livelihood characteristics of the Khmer in comparison with other ethnic groups from the perspective of sustainable livelihoods. The results show that the Khmer heavily depend on agriculture and hired manual labor with low income and have high poverty rates, reflecting limited livelihood capitals. Compared to the Chinese, the Cham and the ethnic minorities in average, the quality of human resources of the Khmer is lower while the access to the education system is more limited that is the biggest challenge for sustainable livelihoods of the Khmer in the context of environmental change and integration today. Keywords: The Khmer; livelihoods; livelihood capitals; quality of human resources.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf140_618_1_pb_2814_2151960.pdf