Tài liệu Đặc điểm rối loạn thần kinh nhận thức ở bệnh nhân parkinson: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 178
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN THẦN KINH NHẬN THỨC
Ở BỆNH NHÂN PARKINSON
Trần Thị Hồng Ny*, Trần Công Thắng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn thần kinh nhận thức (RLTKNT) là triệu chứng ngoài vận động thường gặp và gây
hậu quả nặng nề ở bệnh nhân Parkinson.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn thần kinh nhận thức ở bệnh nhân Parkinson và các yếu tố liên quan.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Bệnh nhân được chẩn đoán bệnh
Parkinson theo tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng của MDS 2015 và đánh giá rối loạn thần kinh nhận thức
(RLTKNT) theo tiêu chuẩn của DSM-5.
Kết quả: 81 bệnh nhân Parkinson với tuổi trung bình khởi phát bệnh parkinson là 57 ± 10,77 và thời gian
mắc bệnh là 5,17 ± 3,67. Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson 65,4%; trong đó, RLTKNT nhẹ chiếm 25,9% còn
RLTKNT điển hình chiếm tỉ lệ cao hơn 39,5%. Trong các bệnh nhân Parkinson có RLTKNT, đa số bệnh nhân...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm rối loạn thần kinh nhận thức ở bệnh nhân parkinson, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 178
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN THẦN KINH NHẬN THỨC
Ở BỆNH NHÂN PARKINSON
Trần Thị Hồng Ny*, Trần Công Thắng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn thần kinh nhận thức (RLTKNT) là triệu chứng ngoài vận động thường gặp và gây
hậu quả nặng nề ở bệnh nhân Parkinson.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn thần kinh nhận thức ở bệnh nhân Parkinson và các yếu tố liên quan.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Bệnh nhân được chẩn đoán bệnh
Parkinson theo tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng của MDS 2015 và đánh giá rối loạn thần kinh nhận thức
(RLTKNT) theo tiêu chuẩn của DSM-5.
Kết quả: 81 bệnh nhân Parkinson với tuổi trung bình khởi phát bệnh parkinson là 57 ± 10,77 và thời gian
mắc bệnh là 5,17 ± 3,67. Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson 65,4%; trong đó, RLTKNT nhẹ chiếm 25,9% còn
RLTKNT điển hình chiếm tỉ lệ cao hơn 39,5%. Trong các bệnh nhân Parkinson có RLTKNT, đa số bệnh nhân có
rối loạn chức năng điều hành (94,3%), nhớ lại có trì hoãn (96,2%) và thị giác không gian (92,6%); còn các lĩnh
vực nhận thức như trí nhớ tức thì và ngôn ngữ cũng chiếm tỉ lệ khá cao, lần lượt là 75,5% và 81,1%. Trong các
rối loạn hành vi tâm thần, rối loạn hành vi ban đêm chiếm tỷ lệ cao nhất 72,8% và kế đến là các triệu chứng ăn
uống bất thường và trầm cảm, chiếm tỉ lệ lần lượt là 46,9%; 42%. Các yếu tố liên quan đến RLTKNT ở bệnh
nhân Parkinson gồm: tuổi, tuổi khởi phát bệnh, tiền sử gia đình bệnh Parkinson, trình độ học vấn thấp, độ nặng
của các triệu chứng vận động.
Kết luận: Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson khá cao (65,4%), trong đó các lĩnh vực nhận thức thường
bị ảnh hưởng nhất là chức năng điều hành, nhớ lại có trì hoãn và thị giác không gian. Các yếu tố liên quan đến
RLTKNT ở bệnh nhân parkinson gồm: tuổi, tuổi khởi phát bệnh, tiền sử gia đình mắc bệnh parkinson, trình độ
học vấn thấp và độ nặng của các triệu chứng vận động.
Từ khóa: bệnh Parkinson, rối loạn thần kinh nhận thức, suy giảm nhận thức, sa sút trí tuệ
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF NEUROCOGNITIVE IN PARKINSON’S DISEASE
Tran Thi Hong Ny, Tran Cong Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 178 - 183
Background: The neurocognitive disorders are common non-motor symptoms and cause severe
consequences in patients with Parkinson’s disease (PD).
Objective: The aim of the study was to define the prevalence and characteristics of the neurocognitive
disorder (NCD) in PD and to define the risk factors for the NCD in PD.
Method: A cross sectional study. Using MDS clinical diagnostic criteria for PD (2015) and DSM-5
diagnostic criteria for NCD (2013).
Results: 81 patients with PD with age of onset of PD is 57 ± 10.77 and duration of PD is 5.17 ± 3.67
years and 90% patients is at the mild to moderate stages. By assessing cognitive function, we recorded
prevalence of NCD in PD was 65.4%; of which the proportion of mild and major respective account for
*Phòng khám Đa khoa Tiền Lân, ** Bộ môn Thần Kinh, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Trần Thị Hồng Ny ĐT: 01223588568 Email: drhongny@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 179
25.9% and 39.5%. In patients PD with NCD, the majority of patients have executive dysfunction (94.3%),
delayed recall (96.2%) and visuospatial (92.6%); while the prevalance of cognitive domains such as memory
dysfunction was 75.5%, language dysfunction was 81.1%. In the psychiatric behavioral disorders,
nighttime behavior had high prevalence with 72.8% and followed by the prevalence of appetite/eating and
depression for 46.9% and 42%. Risk factors for NCD in PD include: age, onset age of PD, family history of
PD, low level of education and the severity of motor symptoms. Risk factors for NCD in PD include age at
the time of the study, the age onset of PD, family history of PD, low level of education and the severity of the
motor symptoms.
Conclusion: There is a high prevalence of NCD in PD (65.4%). The cognitive domains such as executive
function, delayed recall, and visual spatial, commonly affected in patients PD with NCD.
Keywords: Parkinson's disease, neurocognitive disorder, cognitive impairment, dementia
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh nhân Parkinson có nguy cơ SSTT gấp 6
lần so với dân số chung và trong quá trình bệnh
có đến 80% bệnh nhân tiến triển thành SSTT(1).
Theo Hội rối loạn vận động, tỉ lệ hiện mắc của
SSTT do bệnh Parkinson là 22-48% và SGNT nhẹ
là 19-55%(5,6). Bệnh gây khó khăn cho hoạt động
sống hằng ngày của bệnh nhân và hậu quả là
mất khả năng tự lập, giảm chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân và người chăm sóc, là yếu tố
nguy cơ của chăm sóc tại nhà, tăng nguy cơ té
ngã và thậm chí làm tăng tỉ lệ tử vong ở bệnh
nhân Parkinson(3). Tại Việt Nam, tuổi thọ được
cải thiện do đóbệnh nhân mắc bệnh Parkinson
và SSTT do bệnh Parkinson ngày càng nhiều. Tỉ
lệ hiện mắc của SGNT và SSTT ở bệnh nhân
Parkinson nhìn chung khá cao, dao động từ
41,8% - 51% tùy theo nghiên cứu. Tuy nhiên các
nghiên cứu còn hạn chế về số lượng, quy mô và
mức độ chuyên sâu, chủ yếu tập trung vào các
triệu chứng vận động, cũng như chưa áp dụng
các tiêu chuẩn mới vào chẩn đoán.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ rối loạn thần kinh nhận thức ở
bệnh nhân Parkinson.
Khảo sát đặc điểm của rối loạn thần kinh
nhận thức ở bệnh nhân Parkinson.
Xác định các yếu tố liên quan đến rối loạn
thần kinh nhận thức ở bệnh nhân Parkinson.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm tất cả bệnh nhân Parkinson đến khám
và điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.
HCM từ 01/03/2016 đến 31/05/2016 thỏa mãn tiêu
chuẩn chọn bệnh và tiêu chuẩn loại trừ.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán bệnh Parkinson
theo tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng bệnh
Parkinson của MDS năm 2015(8).
Bệnh nhân đến khám bệnh trong thời gian
nghiên cứu.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại ra
Bệnh nhân sảng, trầm cảm nặng hoặc bệnh
tâm thần phân liệt.
Bệnh nhân SSTT thể Lewy.
Bệnh nhân có khiếm khuyết thị giác hoặc
thính giác, mất ngôn ngữ.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Phương pháp đánh giá chức năng nhận
thức
Sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán RLTKNT của
DSM-5 với thang điểm đánh giá nhận thức
Montreal (MoCA) và thang điểm đánh giá hoạt
động sống hằng ngày IADL giúp phân loại
RLTKNT nhẹ và điển hình. Bệnh nhân được
chẩn đoán RLTKNT nhẹ nếu MoCA< 26 và
IADL > 7 điểm (đối với nữ) hoặc > 4 điểm (đối
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 180
với nam). Bệnh nhân được chẩn đoán RLTKNT
điển hình nếu: MoCA < 26 và IADL ≤ 7 điểm (đối
với nữ) hoặc ≤ 4 điểm (đối với nam).
KẾT QUẢ
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ nam và nữ tương đương nhau. Độ
tuổi trung bình của bệnh nhân là 62,17 ±
10,39.Trình độ học vấn tương đối thấp, trung
bình là 8,77 ± 4,73 năm. Đa số bệnh nhân trong
mẫu nghiên cứu lao động chân tay với 74,1%.
Tỉ lệ bệnh nhân sống ở nông thôn 40,7% và
thành thị 59,3%. Tiền căn gia đình mắc bệnh
Parkinson 9,9% và SSTT là 3,7%.
Tuổi khởi phát bệnh Parkinson trung bình
là 57 ± 10,77 với thời gian mắc bệnh Parkinson
trung bình là 5,17 ± 3,67 năm và90% bệnh
nhân ở giai đoạn nhẹ đến trung bình theo
điểm MDS-UPDRS.
Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson
Bảng 1: Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson
RLTKNT Tần số Tỷ lệ (%)
Không RLTKNT 28 34,6
RLTKNT
Nhẹ 21 25,9
Điển hình 32 39,5
Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson khá
cao chiếm 65,4%. Trong đó, RLTKNT nhẹ chiếm
25,9% còn RLTKNT điển hình chiếm tỉ lệ cao
hơn 39,5%.
Đặc điểm của RLTKNTở bệnh nhân
Parkinson
Trong 53 bệnh nhân Parkinson có RLTKNT,
đa số bệnh nhân có rối loạn chức năng điều hành
(94,3%), nhớ lại có trì hoãn (96,2%), thị giác
không gian (92,6%), ngôn ngữ (81,1%) và trí nhớ
tức thì (75,5%).
Các rối loạn hành vi tâm thần ở bệnh nhân
Parkinson
Rối loạn hành vi ban đêm chiếm tỷ lệ cao
nhất 72,8%. Các triệu chứng như ăn uống bất
thường, trầm cảm, lo âu, mất kiên nhẫn, lãnh
đạm chiếm tỉ lệ lần lượt là 46,9%; 42%; 33,3%;
27,1%; 25,9%. Các triệu chứng như rối loạn vận
động, kích động, ảo giác, hưng cảm ít gặp hơn
với tỉ lệ dưới 10%.
Các yếu tố liên quan đến RLTKNT ở bệnh nhân
Parkinson
Các yếu tố có liên quan đến RLTKNT ở bệnh
nhân Parkinson gồm: Tuổi tại thời điểm nghiên
cứu, tuổi khởi phát bệnh, tiền sử gia đình mắc
bệnh Parkinson, trình độ học vấn thấp, nghề
nghiệp, địa dư, độ nặng của các triệu chứng vận
động. Các yếu tố không liên quan đến RLTKNT
ở bệnh nhân Parkinson gồm: giới tính, hút thuốc
lá, tiếp xúc với thuốc trừ sâu và diệt cỏ, nguồn
nước, giai đoạn bệnh theo Hoehn và Yahr, thời
gian mắc bệnh.
Bảng 2: Các yếu tố liên quan đến RLTKNT ở bệnh
nhân Parkinson
Các yếu tố
Không
RLTKNT
N (%)
RLTKNT
N (%)
P
Tuổi
<60 14 (56) 11 (44)
0,007
≥60 14 (25) 42 (75)
Học vấn
<8 năm 3 (7,7) 36 (92,3)
< 0,001
≥8 năm 25 (59,5) 17 (40,5)
Nghề nghiệp
LĐCT 14 (23,3) 46 (76,7)
< 0,001
LĐTO 14 (66,7) 7 (33,3)
Địa dư
T.Thị 22 (45,8) 26 (54,2)
0,01
N.Thôn 6 (18,2) 27 (81,8)
TSGĐ PD
Có 7 (87,5) 1 (12,5)
0,02*
Không 21 (28,8) 52 (71,2)
Tuổi khởi
phát PD
<65 25 (40,3) 37 (59,7)
0,049
≥65 3 (15,8) 16 (84,2)
Chú thích: LĐCT (lao động chân tay), LĐTO (lao động trí
óc), T.Thị (thành thị), N.Thôn (nông thôn). TSGĐ PD (tiền
sử gia đình mắc bệnh Parkinson).
Hình 1. Mối liên quan giữa điểm MoCA với điểm
MDS-UPDRS III giai đoạn TẮT.
r = -0,448
p = 0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 181
BÀN LUẬN
Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson
Tỉ lệ hiện mắc của RLTKNT ở bệnh nhân
Parkinson rất chênh lệch giữa các nghiên cứu do
sự khác biệt về thiết kế nghiên cứu, tiêu chuẩn
chẩn đoán bệnh Parkinson, cách đánh giá chức
năng nhận thức và định nghĩa SSTT, độ bao quát
của dân số mục tiêu và cấu trúc dân số riêng
biệt.Thật vậy, theo MDS tỉ lệ hiện mắc của SSTT
do bệnh Parkinson là 22-48% và SGNT nhẹ là 19-
55%(5,6). Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ
RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson khá cao 65,4%.
Trong đó, RLTKNT nhẹ chiếm 25,9% và
RLTKNT điển hình chiếm tỉ lệ cao hơn 39,5%.
Kết quả này có thể do tuổi trung bình của bệnh
nhân Parkinson trong nhóm nghiên cứu khá cao
62,17 ± 10,39; trình độ học vấn trung bình tương
đối thấp 8,77 ± 4,73 và đa số bệnh nhân lao động
chân tay (74,1%); có thể ảnh hưởng đến tình
trạng nhận thức của bệnh nhân. Hơn nữa,
nghiên cứu của chúng tôi chẩn đoán bệnh
Parkinson dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán lâm
sàng bệnh Parkinson của MDS năm 2015 và
thang điểm MoCA - thang điểm có độ nhạy cao
trong tầm soát RLTKNT ở bệnh Parkinson. Khác
với các nghiên cứu nước ngoài, nghiên cứu của
chúng tôi tỉ lệ bệnh nhân RLTKNT điển hình cao
hơn RLTKNT nhẹ, tương tự các nghiên cứu ở
Việt Nam. Điều này có lẽ do đa số bệnh nhân ở
Việt Nam chỉ đến khám khi bệnh đã nặng và
ảnh hưởng đến các hoạt động sống hàng ngày.
Đồng thời, ở nước ta vấn đề về sức khỏe chưa
được quan tâm đúng mức, đời sống người dân
còn nhiều khó khăn và không có các câu lạc bộ
dành cho bệnh nhân Parkinson để bệnh nhân có
cơ hội tìm hiểu các vấn đề liên quan. Hơn nữa,
việc đánh giá chức năng nhận thức thường quy
ở bệnh nhân Parkinson chưa được thực hiện tại
các bệnh viện.
Đặc điểm của RLTKNT ở bệnh nhân
Parkinson
Trong 53 bệnh nhân Parkinson có RLTKNT,
đa số bệnh nhân có rối loạn chức năng điều hành
(94,3%), nhớ lại có trì hoãn (96,2%) và thị giác
không gian (92,6%). Các lĩnh vực nhận thức như
tư duy trừu tượng, ngôn ngữ và trí nhớ tức thì
cũng chiếm tỉ lệ khá cao, lần lượt là 90,6%; 81,1%
và 75,5%. Nghiên cứu của Litvan ghi nhận bệnh
nhân parkinson có sa sút trí tuệ khó khăn hơn
trong chức năng điều hành công việc là chính,
ngoài ra trí nhớ về ngữ nghĩa và chi tiết thì suy
giảm, đồng thời có khiếm khuyết về thị giác
không gian(7). Điều này được lý giải dựa vào quá
trình sinh bệnh học của RLTKNT ở bệnh nhân
Parkinson. Tổn thương con đường phóng chiếu
từ các tế bào Dopaminergic từ thể vân đến thùy
trán làm ảnh hưởng đến chức năng điều hành là
chính. Bên cạnh đó, sự suy giảm của các tế bào
Cholinergic ở nhân nền Meynert phía trước với
đường phóng chiếu lên thùy trán liên quan đến
chức năng điều hành, sau đó đến các nhân nền
trung gian với đường phóng chiếu lên thùy đính
liên quan chức năng thị giác không gian, sự chú
ý và cuối cùng giảm tế bào ở nhân nền phía sau
ảnh hưởng đến trí nhớ.
Các rối loạn hành vi tâm thần ở bệnh nhân
Parkinson
Rối loạn hành vi ban đêm chiếm tỷ lệ cao
nhất 72,8% và kế đến là các triệu chứng như ăn
uống bất thường, trầm cảm, lo âu, mất kiên
nhẫn, lãnh đạm chiếm tỉ lệ lần lượt 46,9%; 42%;
33,3%; 27,1%; 25,9%. Những triệu chứng này liên
quan đến rối loạn hoạt động của hệ
Dopaminergic và hệ Serotonergic. Trong đó,
nguyên nhân của rối loạn giấc ngủ ban ngày và
ban đêm là sự phối hợp của nhiều yếu tố từ thay
đổi hóa thần kinh và bệnh học thần kinh liên
quan đến Parkinson, cũng như các tác dụng của
thuốc, rối loạn cảm xúc và các triệu chứng vận
động. Ngủ ngày quá nhiều có liên quan đến
SGNT, đặc biệt là sự chú ý, trí nhớ công việc,
chức năng điều hành, thị giác không gian. Một
số nghiên cứu cũng ghi nhận các rối loạn ngoài
vận động như rối loạn hành vi trong giai đoạn
giấc ngủ REM, ngủ ngày quá nhiều có liên quan
đến SGNT(2).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 182
Trong các rối loạn hành vi tâm thần, ảo thị là
một trong những đặc trưng tâm thần kinh của
PD và thậm chí giúp phân biệt PD với những rối
loạn khác của hội chứng Parkinson. Ảo thị phổ
biến ở bệnh nhân Parkinson và đặc biệt là bệnh
nhân có SSTT. Mối liên quan giữa ảo thị và SSTT
có lẽ do ảo thị liên quan đến cả bệnh học thể
Lewy trong thùy trán và những khiếm khuyết
hệ Cholinergic(2). Nghiên cứu của chúng tôi cũng
ghi nhận 6 bệnh nhân có ảo giác (7,4%) và tất cả
đều là ảo thị.
Các yếu tố liên quan đến RLTKNT ở bệnh
nhân Parkinson
Tuổi của bệnh nhân ở thời điểm nghiên cứu
Tỉ lệ RLTKNT ở nhóm bệnh nhân ≥ 60 tuổi
(75%) cao hơn nhiều so với bệnh nhân < 60 tuổi
(44%). Đồng thời, khi phân tích mối tương quan
giữa điểm MoCA với tuổi của bệnh nhân cũng
cho thấy điểm MoCA ở bệnh nhân Parkinson có
tương quan nghịch ở mức độ vừa với tuổi của
bệnh nhân; nghĩa là tuổi bệnh nhân càng cao thì
điểm MoCA càng thấp tương đương với tỉ lệ
RLTKNT càng cao. Điều này phù hợp với sinh
bệnh học theo thời gian của RLTKNT ở bệnh
nhân Parkinson. Cả SSTT và bệnh Parkinson là
bệnh lý thoái hóa gây hủy hoại các tế bào thần
kinh của não bộ và diễn tiến nặng dần theo thời
gian. Do đó, tuổi ở bệnh nhân Parkinson là một
trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của
SSTT, chủ yếu vì tuổi càng cao thì tăng nguy cơ
thoái hóa thần kinh và bệnh lý mạch máu. Hơn
nữa bệnh học của PDD là sự phối hợp của bệnh
học Alzheimer với những thay đổi ở vỏ não và
bệnh học thể Lewy của bệnh Parkinson ở dưới
vỏ. Trong khi đó, bệnh học Alzheimer liên quan
đến tuổi với sự hình thành các mảng βeta
amyloid và đám rối vi sợi thần kinh, từ đó ảnh
hưởng đến chức năng nhận thức.
Tuổi khởi phát bệnh Parkinson
Tuổi khởi phát bệnh Parkinson có tương
quan nghịch ở mức độ vừa với RLTKNT ở bệnh
nhân Parkinson; tức là, tuổi khởi phát bệnh càng
cao thì điểm MoCA càng thấp, đồng nghĩa với tỉ
lệ RLTKNT càng cao. Vì tuổi là yếu tố nguy cơ
nổi bật của SSTT trong dân số chung. Bệnh nhân
mắc bệnh trễ hơn cũng đồng nghĩa với bệnh
nhân lớn tuổi hơn và những nguy cơ đi kèm với
tuổi cũng cao hơn(2).
Độ nặng của các triệu chứng vận động
Qua phân tích, chúng tôi ghi nhận điểm
MDS-UPDRS III giai đoạn TẮT càng cao thì
điểm MoCA của bệnh nhân càng thấp, tương
đương với khả năng RLTKNT càng cao. Thời
gian mắc bệnh lâu hơn thì những tổn thương
các tế bào của hệ Dopaminergic và hệ
Cholinergic ngày càng nặng nề và mất chức
năng; vì vậy các triệu chứng vận động nặng
hơn và chức năng nhận thức của bệnh nhân sẽ
suy giảm càng nhiều.
Trình độ học vấn thấp
Nhóm bệnh nhân có trình độ học vấn < 8
năm có RLTKNT (92,3%) cao hơn rất nhiều so
với nhóm bệnh nhân có số năm được đào tạo ≥ 8
năm (40,5%) và trình độ học vấn càng cao thì khả
năng RLTKNT càng thấp. Nghiên cứu cũng
nhận thấy, trình độ học vấn trung bình của bệnh
nhân trong mẫu nghiên cứu tương đối thấp (8,78
± 4,73 năm) góp phần lý giải cho điểm MoCA
trung bình của bệnh nhân chỉ là 21,04 ± 5,25.
Trình độ học vấn cao có thể bù lại cho SGNT do
bảo tồn chức năng nhận thức hơn. Bệnh nhân có
trình độ học vấn cao có chức năng nhận thức tốt
hơn và có mối liên quan giữa trình độ học vấn
với các bài kiểm tra tâm thần kinh nhạy với rối
loạn chức năng thùy trán. Bên cạnh đó, trình độ
học vấn thấp còn liên quan đến ảo giác và có xu
hướng trầm cảm, hoang tưởng hệ thống và rối
loạn giấc ngủ. Mối liên quan giữa trình độ học
vấn cao với giảm nguy cơ rối loạn nhận thức, vì
vậy giáo dục có thể điều chỉnh biểu hiện rối loạn
nhận thức ở PD(4).
KẾT LUẬN
Tỉ lệ RLTKNT ở bệnh nhân Parkinson khá
cao 65,4%. Trong đó, RLTKNT nhẹ chiếm 25,9%
và điển hình chiếm tỉ lệ cao hơn 39,5%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 183
Các lĩnh vực nhận thức thường bị ảnh hưởng
ở bệnh nhân Parkinson có RLTKNT gồm: rối
loạn chức năng điều hành (94,3%); nhớ lại có trì
hoãn (96,2%); thị giác không gian (92,6%); ngôn
ngữ 81,1% và trí nhớ tức thì (75,5%). Các rối loạn
hành vi tâm thần thường gặp ở bệnh nhân
Parkinson:các rối loạn hành vi ban đêm, ăn uống
bất thường, trầm cảm, lo âu, mất kiên nhẫn, các
triệu chứng còn lại hiếm gặp hơn.
Các yếu tố liên quan đến RLTKNT gồm: tuổi
tại thời điểm nghiên cứu, tuổi mắc bệnh
Parkinson, trình độ học vấn thấp, lao động chân
tay, địa dư, tiền sử gia đình mắc bệnh Parkinson
và độ nặng của triệu chứng vận động. Trong đó,
trình độ học vấn thấp và lao động chân tay là
yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aarsland D, Andersen K, Larsen MD, et al (2003). Prevalence
and characteristics of dementia in Parkinson’s disease.Arch
Neurol, 60: 387–392.
2. Aarsland D, Kurz MW (2010).The epidemiology of dementia
associated with Parkinson's disease.Brain Pathol, 20 (3): 633-9.
3. Aarsland D, Larsen JP, Tandberg E, et al (2000). Predictors of
nursing home placement in Parkinson’s disease: a population-based,
prospective study.J Am Geriatr Soc, 48: 938 –942.
4. Cohen OS, Vakil E, Tanne D, et al. (2007). Educational level as
a modulator of cognitive performance and neuropsychyatric
features in Parkinson disease.Cogn Behav Neuro, 20 (1): 68-72.
5. Emre M, Aarsland D, Brown R, et al (2007). Clinical diagnostic
criteria for dementia associated with Parkinson’s disease.Mov
Disord, 22: 1689-1707.
6. Goldman JG, Litvan I (2011). Mild cognitive impairment in
Parkinson’s disease.Minerva Med: 441-459.
7. Litvan I, Goldman JG, et al (2012). Diagnostic criteria for mild
cognitive impairment in Parkinson's disease: Movement
Disorder Society Task Force guidelines.Movement Disorders, 27
(3): 349–356.
8. Postuma RB, Berg D, et al. (2015). MDS clinical diagnostic
criteria for Parkinson's disease.Mov Disord, 30 (12): 1591-601.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_roi_loan_than_kinh_nhan_thuc_o_benh_nhan_parkinson.pdf