Tài liệu Đặc điểm rối loạn nội tiết của các trường hợp u thượng thận tiết aldosterone đã phẫu thuật: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nội Tiết 73
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN NỘI TIẾT CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP
U THƯỢNG THẬN TIẾT ALDOSTERONE ĐÃ PHẪU THUẬT
Trần Quang Nam*, Nguyễn Thị Bội Ngọc**, Nguyễn Thy Khuê*
TÓM TẮT
Mở đầu: Cường aldosterone nguyên phát (CANP) là nguyên nhân thường gặp của tăng huyết áp
do nguyên nhân nội tiết. Việc chẩn đoán cường aldosterone nguyên phát đã có nhiều tiến bộ được áp
dụng trong thực hành ở nước ta trong những năm gần đây.
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm rối loạn nội tiết của các bệnh nhân CANP do u thượng thận đã
được phẫu thuật.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
Đối tượng: Bệnh nhân có u tuyến thượng thận tiết aldosterone được phẫu thuật cắt u tại bệnh
viện Nhân dân 115 và bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 01 năm 2010 đến
tháng 12 năm 2014.
Kết Quả: Có 57 bệnh nhân CANP do u thượng thận được nhận vào nghiên cứu, trong đó có
44/57 (77,2%) nữ. Tuổi trung vị là 42 (34-50) năm. Tấ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm rối loạn nội tiết của các trường hợp u thượng thận tiết aldosterone đã phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nội Tiết 73
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN NỘI TIẾT CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP
U THƯỢNG THẬN TIẾT ALDOSTERONE ĐÃ PHẪU THUẬT
Trần Quang Nam*, Nguyễn Thị Bội Ngọc**, Nguyễn Thy Khuê*
TÓM TẮT
Mở đầu: Cường aldosterone nguyên phát (CANP) là nguyên nhân thường gặp của tăng huyết áp
do nguyên nhân nội tiết. Việc chẩn đoán cường aldosterone nguyên phát đã có nhiều tiến bộ được áp
dụng trong thực hành ở nước ta trong những năm gần đây.
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm rối loạn nội tiết của các bệnh nhân CANP do u thượng thận đã
được phẫu thuật.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
Đối tượng: Bệnh nhân có u tuyến thượng thận tiết aldosterone được phẫu thuật cắt u tại bệnh
viện Nhân dân 115 và bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 01 năm 2010 đến
tháng 12 năm 2014.
Kết Quả: Có 57 bệnh nhân CANP do u thượng thận được nhận vào nghiên cứu, trong đó có
44/57 (77,2%) nữ. Tuổi trung vị là 42 (34-50) năm. Tất cả các bệnh nhân đều được khảo sát CANP do
có tăng huyết áp và hạ kali máu. Thời gian trung vị có tăng huyết áp trước là 3 (1-8) năm. Nồng độ
kali trung vị là 2,28 (2,0 – 2,8) mmol/L. Trung vị của Aldosterone huyết tương của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu là 34 (28,5 – 47,3) ng/dL. Trung vị nồng độ renin huyết tương 3,9 (1,1 – 11,1) ng/L.
Trung vị của tỉ số aldosteron huyết tương/nồng độ renin huyết tương là 8,4 (3,8 – 31,3). Đa số bệnh
nhân có u thượng thận trái 32/57 (56,1%). Trung vị của kích thước u thượng thận là 18 (16 – 23,5)
mm. Ghi nhận 4 trường hợp được chẩn đoán là tăng sản thượng thận trên giải phẫu bệnh sau phẫu
thuật, có thể đây là nguyên nhân tăng sản thượng thận 1 bên gây CANP.
Kết luận: Bệnh nhân có tăng huyết áp và hạ kali máu là dấu hiệu chính để tầm soát chẩn đoán
cường aldosteron nguyên phát trong nghiên cứu này. Trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam, những
bệnh nhân tăng huyết áp không hạ Kali thường không được đo aldosterone và renin huyết tương mặc
dù có chỉ định tầm soát theo khuyến cáo. Do đó cần có kế hoạch phát triển xét nghiệm đo tỉ số
aldosteron huyết tương/nồng độ renin huyết tương tầm soát chẩn đoán CANP cho những bệnh nhân
có chỉ định theo khuyến cáo của các hiệp hội nội tiết.
Từ khóa: cường aldosterone nguyên phát, tăng huyết áp, nồng độ aldosterone huyết tương, nồng
độ renin huyết tương
ABSTRACT
ENDOCRINE DISORDERS IN PATIENTS WITH ADRENAL TUMORS
UNDERWENT SURGERY
Tran Quang Nam, Nguyen Thi Boi Ngoc, Nguyen Thy Khue
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 73– 78
Background: Primary aldosterone’s is common cause of endocrine hypertension. There has been
progress in management of primary aldosteronism.
* Bộ Môn Nội Tiết, Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. ** Bệnh viện Nhân dân 115, TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS Trần Quang Nam ĐT: 0908386382 Email: tranqnam@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 74
Objectives: To assess hormonal dysfunctions in patients with adrenal tumors having surgery.
Method: Retrospective case series report.
Participants: A retrospective review of patients with primary aldosteronism due to adrenal
tumors. These patients underwent adrenalectomy in 2 tertiary hospitals (medical university hospital
and People’s hospital 115) from January 2010 to December 2014.
Results: There were 57 patients who had aldosterone-producing adenoma [44 of 57 patients
(77.2%) were female]. Median age was 42 (34-50) years of age. Hypertension and hypokalemia was the
main reasons for evaluation of primary aldosteronism in majority of patients. Median of hypertension
duration in history was 3 (1-8) years. Median plasma potassium was 2.28 (2.0 – 2.8) mmol/L. Median
plasma aldosterone was 34 (28.5 – 47.3) ng/dL. Median plasma renin was 3.9 (1.1 – 11.1) ng/L.
Median plasma aldosterone concentration to plasma renin concentration ratio was 8.4 (3.8 – 31.3).
Median adrenal tumor size was 18 mm (from 16 to 23.5 mm). Four cases were postoperatively
diagnosed to have unilateral adrenal hyperplasia in pathology.
Conclusion: Hypertension and hypokalemia was the key manifestations for screening of primary
aldosteronism in this study. Plasma aldosterone concentration to plasma renin concentration ratio
should be measured in all patients who have indications of screening for primary aldosteronism
regardless of hypokalemia.
Key words: primary aldosteronism, hypertension, plasma aldosterone concentration, plasma
renin concentration
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cường aldosterone nguyên phát là
nguyên nhân thường gặp của tăng huyết áp
do nguyên nhân nội tiết, do vỏ thượng thận
tăng tiết tự chủ quá mức aldosterone. Tần
suất của CANP trong dân số bệnh nhân tăng
huyết áp thay đổi theo tùy nghiên cứu và
ngưỡng chẩn đoán, dao động từ 2% đến
15%(2,3,6). Đặc điểm lâm sàng có tăng huyết
áp, hạ kali máu và có thể tổn thương cơ
quan (xuất huyết não, nhồi máu não, nhồi
máu cơ tim, loạn nhịp)(5). Cường aldosteron
nguyên phát thường do adenom vỏ thượng
thận bài tiết aldosterone (Aldosterone-
producing adenoma: APA) hoặc tăng sản vô
căn 2 bên thượng thận (idiopathic
hyperaldosteronism: IHA). Ngoài ra, cũng
có thể gặp nguyên nhân tăng sản tuyến vỏ
thượng thận 1 bên (unilateral adrenal
hyperplasia), glucocoticoid-remediable
aldosteronism và ung thư tuyến vỏ thượng
thận (adrenal carcinoma). Các nghiên cứu
bệnh nhân CANP cho thấy chỉ có 9 – 37% có
hạ kali máu và 2/3 số bệnh nhân có kali máu
bình thường. Do đó nếu chỉ dựa vào hạ kali
để chẩn đoán sẽ bị bỏ sót nhiều trường hợp
CANP kali máu bình thường(1). Theo khuyến
cáo của các hiệp hội nội tiết, tỉ số
aldosterone huyết tương/ hoạt tính renin
huyết tương được sử dụng làm xét nghiệm
tầm soát CANP. Nồng độ renin huyết tương
cũng được chấp nhận dùng thay thế cho
hoạt tính renin. Tỉ số aldosterone huyết
tương(ng/dL)/ nồng độ renin huyết (ng/L)
(ARR) dùng tầm soát với ngưỡng giá trị >
3,8 tới 7,7(1). Trong những năm gần đây, ở
Việt Nam tỉ số aldosterone huyết tương/
nồng độ renin huyết tương đã được dùng
khá phổ biến trong chẩn đoán CANP. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi hồi cứu đánh giá
đặc điểm rối loạn nội tiết của các bệnh nhân
có CANP đã được phẫu thuật nhằm rút kinh
nghiệm trong thực hành lâm sàng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu hồi cứu hàng loạt ca
có u tuyến thượng thận tiết aldosterone
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nội Tiết 75
được phẫu thuật cắt u thực hiện tại bệnh
viện Nhân dân 115 và bệnh viện Đại học Y
dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 01
năm 2010 đến tháng 12 năm 2014.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
(1) Bệnh nhân được chẩn đoán u tuyến
thượng thận tiết aldosterone và đã được
phẫu thuật cắt u, (2) Có kết quả giải phẫu
bệnh là u vỏ tuyến thượng thận hoặc tăng
sản tuyến thượng thận.
Tiêu chuẩn loại trừ
(1) Chẩn đoán trước mổ là u tuyến
thượng thận tiết aldosterone nhưng không
được phẫu thuật vì các lý do: bệnh nhân từ
chối phẫu thuật, có nhiều bệnh lý nặng đi
kèm không thể thực hiện phẫu thuật được,
quá chỉ định phẫu thuật. (2) Giải phẫu bệnh
của khối u sau mổ là tổn thương mô không
phải là tuyến thượng thận. (3) Hồ sơ không
đủ dữ liệu để phân tích.
Phương pháp thu thập số liệu
Thông qua hệ thống quản lý hồ sơ bệnh án
của bệnh viện xác định danh sách bệnh nhân
có u thượng thận. Số liệu của bệnh nhân được
thu thập từ bệnh án có chẩn đoán u tuyến
thượng thận đã phẫu thuật cắt u.
Các bệnh nhân được thu thập các số liệu
sau: tuổi, giới tính, hoàn cảnh phát hiện, các
triệu chứng, tiền căn bệnh lý; Các dấu hiệu
lâm sàng: tăng huyết áp (THA), yếu liệt cơ;
Xét nghiệm sinh hóa: kali máu, dự trữ kiềm
máu, đo nồng độ aldosterone huyết tương,
nồng độ renin huyết tương, nghiệm pháp ức
chế aldosteron bằng tải truyền NaCl 0,9%
2000ml truyền tĩnh mạch trong 4 giờ; Kết
quả hình ảnh học: chụp cắt lớp điện toán
(computerized tomography: CT), hoặc chụp
cộng hưởng từ (Magnetic resonance
imaging: MRI) của tuyến thượng thận; Chẩn
đoán trước mổ; hội chẩn với chuyên khoa
nội tiết trước phẫu thuật, diễn tiến phẫu
thuật, phương pháp phẫu thuật; kết quả giải
phẫu bệnh.
Xác định chẩn đoán trong nghiên cứu
Chẩn đoán cường aldosteron nguyên phát
Chẩn đoán cường aldosteron nguyên
phát khi bệnh nhân có các đặc điểm sau: (1)
tăng huyết áp và kali máu giảm; (2) nồng độ
aldosteron máu > 15 ng/dL, renin trong giới
hạn tham chiếu hoặc thấp hơn; (3)
Aldosterone huyết tương > 10 ng/dL sau
nghiệm pháp ức chế bằng tải NaCL.
Chẩn đoán bướu thượng thận tiết
aldosteron (hội chứng Conn)
Khi thỏa các đặc điểm: (1) Đã được chẩn
đoán xác định cường aldosteron nguyên phát;
(2) Chụp CT thượng thận có u thượng thận 1
bên, và thượng thận đối bên bình thường; (3)
Giải phẫu bệnh là bướu vỏ thượng thận hoặc
tăng sản thượng thận. 3) Sau cắt bướu kali
máu bình thường mà không uống bù kali.
- Xác định kích thước bướu thượng thận
dựa vào kết quả chụp CT hoặc chụp MRI
tuyến thượng thận là đường kính lớn nhất
của bướu tính bằng mm.
Nồng độ Aldosterone huyết tương và
nồng độ renin huyết tương được lấy mẫu
cùng thời điểm và định lượng bằng phương
pháp ELISA (Enzyme-Linked Immuno
Sorbent Assay). Ở cả Bệnh viện Nhân dân
115 và Bệnh viện Đại học Y Dược, 2 xét
nghiệm này được gửi đo ở trung tâm Y khoa
MEDIC, 254 Hòa Hảo, quận 10, TP Hồ Chí
Minh. Giá trị tham chiếu của nồng độ
Aldosterone huyết tương là: 1,3 – 31,5 ng/dL
(tư thế nằm) và 2,5 – 31,5 ng/dL (tư thế
đứng) và nồng độ renin huyết tương là: 4,6-
31,9 ng/L (tư thế nằm) và 7,5 – 42,3 ng/L (tư
thế đứng).
Nghiên cứu được thực hiện sau khi đề
cương nghiên cứu được thông qua hội đồng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 76
y đức của Đại Học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh và Bệnh viện Nhân dân 115.
Xử lý thống kê
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống
kê SPSS 16.0. Các biến số liên tục được trình
bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn
nếu có phân phối bình thường, hoặc trung
vị nếu có phân phối không bình thường. Các
biến số rời được trình bày dưới dạng tỷ lệ
phần trăm.
KẾT QUẢ
Trong thời gian hơn 4 năm có 57 trường
hợp CANP đã phẫu thuật được thu thập. Đa
số là nữ chiếm 77,2%. Tỉ lệ tăng huyết áp là
98,2%. Hầu hết tất cả các bệnh nhân đều có
tăng huyết áp và hạ kali máu. Số người bị
yếu chi được ghi nhận có 52,6% bệnh
nhân. (bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm của các bệnh nhân u tuyến
thượng thận tiết aldosterone
Đặc điểm lâm sàng (N=57) Kết quả
Giới tính nữ, n (%) 44 (77,2)
Tuổi, năm 42 (34 – 50)
¥
Tăng huyết áp, n(%) 56 (98,2)
Thời gian tăng huyết áp, năm 3 (1 – 8)
¥
Yếu chi do hạ kali máu, n (%) 30 (52,6)
Kali máu* , mmol/L 2,28 (2,0 – 2,8)
¥
Dự trữ kiềm** (mmol/L) (n=11) 29,2 (22,4 – 31,5)
¥
¥ trình bày trung vị (khoảng tứ vị)
* 55 ca có kết quả kali máu, **Có 11 ca được đo dự
trữ kiềm
Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều có
nồng độ renin trong giới hạn tham chiếu
hoặc nhỏ hơn giới hạn tham chiếu. Tỉ số
nồng độ aldosterone/nồng độ renin huyết
tương trung vị là 8,4. Đa số bệnh nhân có tỉ
số này lớn hơn 3,8 là ngưỡng dùng để tầm
soát CANP được khuyến cáo khi sử dụng
xét nghiệm nồng độ renin. Tất cả các bệnh
nhân được thực hiện nghiệm pháp ức chế
bằng tải muối NaCl đều có aldosterone
không ức chế được dưới 10 ng/dL sau
nghiệm pháp. (bảng 2).
Bảng 2: Kết quả các xét nghiệm nồng độ
aldosterone, renin huyết tương và nghiệm pháp
ức chế bằng tải NaCl
Xét nghiệm Kết quả
Aldosterone huyết tương (ng/dL)
(n=48)
34 (28,5 –
47,3)
Aldosterone > 15 ng/dL (n =48) 46 (80,7%)
Renin huyết tương (pg/L) (n=42) 3,9 (1,1 – 11,1)
Tỷ số aldosterone / renin (n=42) 8,4 (3,8 – 31,3)
Tỷ số aldosterone / renin > 3,8 (n=42) 32 (56,1%)
Nồng độ adosterone sau nghiệm pháp
ức chế bằng truyền muối NaCL 0,9%
(ng/dL) (n=41)
33,5
(27,1 – 39,2)
Nồng độ aldosterone > 10 ng/dL sau
nghiệm pháp ức chế bằng tải NaCL
40 (97,6%)
£Trung vị (khoảng tứ vị)
U thượng thận bên trái chiếm đa số
trong dân số nghiên cứu (56,1%). Trước
phẫu thuật cắt u thượng thận, tất cả các
bệnh nhân đều được hội chẩn với bác sĩ
chuyên khoa nội tiết để đánh giá và điều trị
phối hợp.
Có 4 bệnh nhân có giải phẫu bệnh là
tăng sản thượng thận. Những trường hợp
này trước phẫu thuật, kali máu thấp từ 2 –
3,15 mmol/L, tất cả bệnh nhân này sau phẫu
thuật kali trở về bình thường. Tỉ số
aldosterone/renin ở những bệnh nhân này
lần lượt là 3,4; 11,4; 30,8 và 52,5. Kích thước
u thượng thận dao động từ 12mm tới
37 mm. (bảng 3).
Bảng 3. Vị trí và giải phẫu bệnh của u tuyến
thượng thận tiết aldosterone
Đặc điểm (n = 57) Kết quả
Vị trí
u thượng thận
Bên phải, n (%) 25 (43,9)
Bên trái, n (%) 32 (56,1)
Kích thước u (mm) 18 (16 – 23,5)
£
U vỏ tuyến thượng thận, n (%) 53 (93)
Tăng sản thượng thận, n (%) 4 (7)
£Trung vị (khoảng tứ vị)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nội Tiết 77
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi 57
trường hợp u tuyến thượng thận tiết
aldosterone đã được phẫu thuật có tuổi
trung vị là 44 năm, đa số là nữ 77,2%. Trong
nghiên cứu này, tăng huyết áp, hạ kali máu
là dấu hiệu lâm sàng chính để định hướng
bác sĩ đi tìm chẩn đoán CANP. Tuy nhiên
theo những nghiên cứu gần đây dùng tỉ số
aldosterone/renin để tầm soát cho thấy chỉ
có 9-37% bệnh nhân có hạ kali máu(4). Như
vậy, tăng huyết áp với kali máu bình thường
là biểu hiện thường thấy hơn ở bệnh nhân
cường aldostetone nguyên phát. Như vậy,
dấu hiệu hạ kali có độ nhạy và độ đặc hiệu
thấp trong chẩn đoán CANP.
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi đều được đo tỉ số
aldosterone/renin huyết tương để tầm soát
chẩn đoán khi có chỉ định. Trong thực hành
hiện nay ở Việt Nam, đây là sự cải thiện
đáng kể trong xử trí các trường hợp nghi
nghờ có CANP. Nghiên cứu về u thượng
thận tiết aldosterone trước đây đã được báo
cáo những năm 2006 thì lúc đó chỉ có rất ít
bệnh nhân được đo tỉ số aldosterone/renin
huyết tương. Vào thời điểm lúc đó chẩn
đoán chỉ hoàn toàn dựa vào bệnh nhân có
tăng huyết áp kèm hạ kali máu, sau đó cho
chụp CT tuyến thượng thận phát hiện ra u
thượng thận 1 bên để xác định chẩn đoán
CANP(8). Mặc dù trong nghiên cứu này tất
cả các trường hợp u thượng thận có tăng tiết
aldosterone đã áp dụng tỉ số
aldosterone/renin huyết tương để chẩn đoán
trước khi phẫu thuật, nhưng thực tế tỉ số
này vẫn chưa được dùng theo khuyến cáo
để tầm soát CANP cho các trường hợp có
chỉ định theo khuyến cáo nhưng kali máu
bình thường (ví dụ: tăng huyết áp nặng,
tăng huyết áp kháng trị)(5). Chính vì lý do
đó, hiện nay chúng tôi vẫn chưa xác định
được trường hợp nào có CANP với kali máu
bình thường. Ngưỡng của tỉ số nồng độ
aldosterone/nồng độ renin huyết tương
dùng để tầm soát CANP vẫn chưa được xác
định cho thực hành ở nước ta, do đó trong
tương lai cần có nghiên cứu để xác định
ngưỡng này để có thể phát hiện tốt hơn
CANP.
Kích thước trung vị của u thượng thận
tiết aldosterone trong nghiên cứu của chúng
tôi là 18 mm, cũng tương tự với nghiên cứu
hồi cứu CANP trước đây được báo cáo là
20,3 mm(8). Kết quả trên cũng phù hợp với
các nghiên cứu ở nước ngoài thì đường kính
trung bình của u tiết aldosterone trong
khoảng 1.6 cm đến 1.8 cm(7,10).
Rất thú vị là sau khi phẫu thuật kết quả
giải phẫu bệnh cho thấy có 4 trường hợp là
tăng sản thượng thận. Những bệnh nhân
này trước phẫu thuật có bệnh cảnh điển
hình là tăng huyết áp và hạ kali máu và trên
kết quả CT thượng thận kích thước u
thượng thận to rõ rệt. Hơn nữa sau phẫu
thuật huyết áp và kali máu trở về bình
thường. Như vậy, có lẽ đây là những trường
hợp tăng sản thượng thận 1 bên (unilateral
adrenal hyperplasia) gây tăng tiết
aldosterone, do đó sau phẫu thuật bệnh
nhân cũng có cơ hội cải thiện huyết áp và
kali máu. Cần phân biệt với trường hợp tăng
sản thượng thận 2 bên tăng tiết aldosterone
không có chỉ định phẫu thuật mà chỉ dùng
thuốc điều trị nội khoa(1). Tăng sản thượng
thận 1 bên là nguyên nhân ít gặp. Theo tác
giả Young cho thấy trong nguyên nhân gây
CANP, tăng sản thượng thận 1 bên chiếm
2%, adenone vỏ thượng thận tiết
aldosterone 1 bên chiếm 35%, đa số do tăng
sản thượng thận 2 bên chiếm 60%(9).
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, bệnh nhân có
tăng huyết áp và hạ kali máu là chỉ định
chính để tầm soát chẩn đoán cường
aldosteron nguyên phát bằng tỉ số
aldosterone huyết tương/renin huyết tương.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 78
Tuy nhiên trong thực tế, bệnh nhân CANP
không hạ Kali thường gặp hơn, do đó nhiều
khả năng một số bệnh nhân CANP không
được phát hiện. Nên quan tâm sử dụng tỉ số
aldosterone huyết tương/renin huyết tương
trong một số trường hợp khác như tăng
huyết áp ở người trẻ, tăng huyết áp kháng
trị. Ngoài ra, cần có thêm các nghiên cứu để
xác định giá trị và ngưỡng tầm soát của tỉ số
aldosterone huyết tương/renin huyết tương
trong thực hành ở nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Funder JW, Carey RM, Fardella C, Gomez-Sanchez CE,
Mantero F, Stowasser M, et al (2008), "Case detection,
diagnosis, and treatment of patients with primary
aldosteronism: an endocrine society clinical practice
guideline". J Clin Endocrinol Metab, 93(9), 3266-3281.
2. Gordon RD (1994), "High incidence of primary
aldosteronism in 199 patients referred with
hypertention." Clinical And Experimental Pharmacology
And Physiology, 21;315-318.
3. Loh KC, Koay ES, Khaw MC, Emmanuel SC, Young
WF Jr (2000), "Prevalence of primary aldosteronism
among Asian hypertensive patients in Singapore". J
Clin Endocrinol Metab, 85(8), 2854-2859.
4. Mulatero P (2004), "Increased Diagnosis of Primary
Aldosteronism, Including Surgically Correctable
Forms, in Centers from Five Continents". J Clin
Endocrinol Metab 89: 1045–1050.
5. Nishikawa T, Omura M, Satoh F, Shibata H, Takahashi
K, Tamura N, et al (2011), "Guidelines for the
diagnosis and treatment of primary aldosteronism--the
Japan Endocrine Society 2009". Endocr J, 58(9), 711-721.
6. Piaditis G, Markou A, Papanastasiou L, Androulakis
II, Kaltsas G (2014) "Progress in aldosteronism: a
review of the prevalence of primary aldosteronism in
pre-hypertension and hypertension". Eur J Endocrinol,
172(5), R191-203.
7. Trần Quang Nam, Mukherjee JJ, Lee KO (2003), "Nhận
xét 23 trường hợp cường Aldosterone nguyên phát
được chẩn đoán tại bệnh viện trường đại học quốc gia
Singapore". Y học thành phố Hồ Chí Minh, chuyên đề
nội tiết, tập 7 (phụ bản của số 1), 39-44.
8. Trần Quang Nam, Nguyễn Thy Khuê (2011), " Nhận
xét các rối loạn nội tiết của bệnh nhân có bướu tuyến
thượng thận trước phẫu thuật". Y học thành phố Hồ Chí
Minh, Tập 15(Phụ bản của Số 1), 240-247.
9. Young WF (2007), "Primary aldosteronism: renaissance
of a syndrome". Clin Endocrinol (Oxf), 66(5), 607-618.
10. Young WFJr, Klee GG (1988), "Primary aldosteronism.
Diagnostic evaluation". Endocrinol Metab Clin North
Am, 17(2), 367-395.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/01/2017
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_roi_loan_noi_tiet_cua_cac_truong_hop_u_thuong_than.pdf