Đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm da tiết bã khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu Đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm da tiết bã khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 313 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN VIÊM DA TIẾT BÃ KHÁM TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Tchiu Bích Xuân*, Lê Ngọc Diệp** TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm da tiết bã. Đối tượng và phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca. Tổng cộng 126 bệnh nhân viêm da tiết bã được chọn vào nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 05/2016. Các số liệu được thu thập dựa trên phỏng vấn trực tiếp và khám lâm sàng. Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân nam chiếm 53,2%. Tuổi trung vị là 27,5 tuổi. Trung vị thời gian bệnh là 36 tháng. Tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng ngứa chiếm 76,2%. Vị trí thương tổn thường gặp nhất ở da đầu (96,0%) và mặt (78,6%). Trung vị độ nặng là 1,6 điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng của bệnh giữa nam và nữ (2,1 ± 1,1 điểm so với 1,6 ± ...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm da tiết bã khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 313 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN VIÊM DA TIẾT BÃ KHÁM TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Tchiu Bích Xuân*, Lê Ngọc Diệp** TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm da tiết bã. Đối tượng và phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca. Tổng cộng 126 bệnh nhân viêm da tiết bã được chọn vào nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 05/2016. Các số liệu được thu thập dựa trên phỏng vấn trực tiếp và khám lâm sàng. Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân nam chiếm 53,2%. Tuổi trung vị là 27,5 tuổi. Trung vị thời gian bệnh là 36 tháng. Tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng ngứa chiếm 76,2%. Vị trí thương tổn thường gặp nhất ở da đầu (96,0%) và mặt (78,6%). Trung vị độ nặng là 1,6 điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng của bệnh giữa nam và nữ (2,1 ± 1,1 điểm so với 1,6 ± 1,0 điểm; p = 0,01). Điểm trung bình DLQI là 8,9 ± 5,2 điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa độ nặng của bệnh với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (OR = 4,8; KTC 95%: 2,1-10,7; p < 0,001). Kết luận: Bệnh nhân viêm da tiết bã thường có triệu chứng ngứa. Đa số bệnh nhân đều có thương tổn trên da đầu. Nam giới bị bệnh nặng hơn so với nữ (p=0,01). Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bị ảnh hưởng ở mức độ trung bình. Độ nặng của bệnh liên quan có ý nghĩa thống kê với chất lượng cuộc sống (p<0,001). Từ khóa: Viêm da tiết bã ABSTRACT CLINICAL CHARACTERISTICS AND QUALITY OF LIFEIN SEBORRHEIC DERMATITIS PATIENTSAT HOCHIMINH CITY HOSPITAL OF DERMATO-VENEREOLOGY Tchiu Bich Xuan, Le Ngoc Diep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 313- 319 Objectives: To determine the clinical characteristics of seborrheic dermatitis and its impact on patients’ quality of life. Methods: Case series. A total of 126 patients with seborrheic dermatitis were enrolled into the study from 10/2015 to 05/2016. The data was collected by interviewing and examination. Results: 53.2% of cases were male. Median age of participants was 27.5 years. The median duration of disease was 36 months. Itchiness was observed in 76,2 % of the study population. The most involved areas were scalp (96.0%) and face (78.6%). The median severity score was 1,6 points. There was statistically significant difference between men and women in severity of disease (men: 2.1 ± 1.1 points vs. women: 1.6 ± 1.0 points; p = 0.01). The mean DLQI score was 8,9 ± 5,2 points. There was statistically significant difference between the two DLQI categories regarding severity of disease (OR = 4.8; 95% CI: 2.1-10.7; p < 0.001). Conclusion: Patients usually had symptom of itchiness. The majority of cases had involvement of scalp. Male patients had more severe disease than female (p = 0,01). Seborrheic dermatitis had a moderate impact on the * Bộ môn Da liễu Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch ** Bộ môn Da Liễu Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS.BS. Tchiu Bích Xuân ĐT: 0986127255 Email: tchiubichxuan@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 314 quality of life. More severe disease was significantly associated with higher DLQI scores (p < 0.001). Keywords: Seborrheic dermatitis ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm da tiết bã là bệnh da mạn tính thường gặp ảnh hưởng đến trẻ nhỏ và người lớn. Bệnh ở trẻ nhỏ tự khỏi trong ba tháng tuổi đầu nhưng bệnh ở người lớn thường kéo dài. Tỉ lệ bệnh chiếm 1-5% dân số chung nhưng tỉ suất mới mắc thì cao hơn nhiều(3). Theo thống kê tại các bệnh viện và phòng khám da liễu, viêm da tiết bã là một trong mười bệnh thường gặp nhất ở các bệnh nhân đến khám với tỉ lệ 2,2-3,2%(2,7). Bệnh có thể liên quan với nấm Malassezia, bất thường hệ miễn dịch, hoạt động tuyến bã và tính nhạy cảm bệnh nhân. Thương tổn thường là những dát, mảng giới hạn rõ bề mặt tróc vảy mỡ màu vàng, đỏ hay nâu phân bố ở những vùng có nhiều tuyến bã như: da đầu, mặt, ngực, lưng. Mặc dù có nhiều thuốc được dùng để điều trị bệnh, nhưng việc điều trị chỉ nhằm kiểm soát bệnh chứ không thể chữa khỏi hoàn toàn(3). Những triệu chứng, sự tái phát của bệnh và tác động về mặt thẩm mỹ đã ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bị ảnh hưởng về mọi mặt: thực thể, tâm lý, hoạt động hằng ngày, những hoạt động trong thời gian nhàn rỗi, công việc làm và học tập, mối quan hệ với người xung quanh và những khó khăn của việc điều trị gây ra(10,13). Khi bệnh càng nặng thì chất lượng cuộc sống càng bị ảnh hưởng(12,13). Trên thế giới và tại Việt Nam, hiện có ít nghiên cứu khảo sát về đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm da tiết bã. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm làm rõ về đặc điểm lâm sàng của bệnh viêm da tiết bã ở nước ta và đánh giá mức độ ảnh hưởng của bệnh đến đời sống của bệnh nhân. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca gồm 126 bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên được chẩn đoán viêm da tiết bã trên lâm sàng đến khám tại Bệnh viện Da Liễu TPHCM từ tháng 10/2015 đến tháng 05/2016. Những bệnh nhân được chọn vào mẫu là những người chưa từng được điều trị hay đã ngưng điều trị với thuốc thoa, dầu gội ít nhất 2 tuần và ngưng điều trị với thuốc kháng nấm uống ít nhất 4 tuần. Đối với những trường hợp chẩn đoán không rõ ràng, bệnh nhân có các bệnh da khác hay bệnh hệ thống nghiêm trọng mà có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống được loại trừ ra nghiên cứu. Những trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được phỏng vấn trực tiếp. Nội dung phỏng vấn bao gồm: giới tính, năm sinh, nơi ở hiện tại, dân tộc, trình độ học vấn, thời gian bệnh, tình trạng bệnh, sự tái phát bệnh, tình trạng ngứa. Sau đó bệnh nhân được khám lâm sàng ghi nhận vị trí thương tổn, phân loại độ nặng của bệnh theo hệ thống điểm SDASI (Seborrheic dermatitis area severity index). Hệ thống điểm SDASI dựa vào mức độ hồng ban, tróc vảy, dày da của chín vùng khác nhau. Điểm triệu chứng của mỗi vị trí được nhân cho hằng số tương ứng của mỗi vị trí đó và tổng điểm SDASI có giá trị từ 0 đến 12,6 điểm (4). Cuối cùng, bệnh nhân được đánh giá chất lượng cuộc sống bằng bảng câu hỏi chỉ số chất lượng cuộc sống về bệnh da DLQI (Dermatology Life Quality Index). Chúng tôi sử dụng bảng câu hỏi này với sự cho phép của tác giả Andrew Y Finlay. Bảng DLQI bao gồm 10 câu hỏi, điểm mỗi câu được chấm từ 0 đến 3 điểm tùy theo mức độ ảnh hưởng. Điểm DLQI được tính bằng cách lấy tổng số điểm của mỗi câu hỏi và có giá trị từ 0 đến 30 điểm. Điểm số càng cao chất lượng cuộc sống càng bị giảm sút và được phân thành các mức độ: 0-1 điểm: không ảnh hưởng đến cuộc sống, 2-5 điểm: ảnh hưởng ít, 6-10 điểm: ảnh hưởng trung bình, 11-20 điểm: ảnh hưởng nhiều, 21-30 điểm: ảnh hưởng rất nhiều(15). Xử lí và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16. Dùng phép kiểm Chi bình phương hay Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 315 phép kiểm Fisher’s chính xác để so sánh hai tỉ lệ. Dùng phép kiểm Independent-Samples T hay phép kiểm One-Way Anova để so sánh hai hay nhiều số trung bình. Nếu biến định lượng không tuân theo phân phối chuẩn thì sử dụng các phép kiểm định phi tham số. Các kiểm định có p < 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. Các yếu tố liên quan được phân tích bằng mô hình hồi quy logistic đa biến để kiểm soát tác động của các yếu tố còn lại. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm dịch tễ và đặc điểm lâm sàng Tỉ lệ bệnh nhân nam chiếm 53,2%. Bệnh nhân có độ tuổi 16-57 tuổi. Tuổi trung vị là 27,5 tuổi, bách phân vị thứ 25 là 22 tuổi và bách phân vị thứ 75 là 37 tuổi. Nhóm tuổi thường gặp nhất là 20-29 tuổi (46,0%), kế đến là nhóm 30-39 tuổi (23,0%) và nhóm 40-49 tuổi (15,9%), bệnh ít gặp ở nhóm 16-19 tuổi (9,5%) và nhóm ≥ 50 tuổi (5,6%). Đa số bệnh nhân đều đang sống tại TPHCM (81,7%). Trình độ học vấn bao gồm: cấp 1 và 2 (21,4%), cấp 3 (22,2%), cao đẳng, đại học (56,3%). Trung vị thời gian bệnh là 36 tháng với bách phân vị thứ 25 là 12 tháng và bách phân vị thứ 75 là 61,5 tháng. Tình trạng bệnh bao gồm bệnh lần đầu, mạn tính tái phát và kéo dài liên tục với tỉ lệ lần lượt là 5,6%; 47,6%; 46,8%. Đối với bệnh nhân bị bệnh mạn tính tái phát, 65,0% bệnh nhân tái phát trên 5 lần mỗi năm. Bệnh nhân có triệu chứng ngứa chiếm 76,2%, với tỉ lệ ngứa nhẹ, trung bình và nặng lần lượt là 32,5%; 29,4%; 14,3%. Vị trí thương tổn thường gặp ở da đầu (96,0%) và mặt (78,6%), kế đến là tai (61,1%) và sau tai (48,4%). Thương tổn ít gặp ở lưng (7,9%), ngực (7,1%), cổ (1,6%). Tỉ lệ bệnh nhân chỉ có thương tổn trên da đầu chiếm 13,5%. Trung vị độ nặng của bệnh là 1,6 điểm với bách phân vị thứ 25 là 1,0 điểm và bách phân vị thứ 75 là 2,6 điểm. Chất lượng cuộc sống Điểm trung bình DLQI là 8,9 ± 5,2 điểm, thấp nhất là 1 điểm và cao nhất là 21 điểm. Điểm DLQI cao nhất ở câu số 2 (gây bối rối, mặc cảm) và câu số 7 (ảnh hưởng đến công việc, học tập). 2,4% bệnh nhân không bị ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Những bệnh nhân còn lại có chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng ở mức độ ít, trung bình, nhiều và rất nhiều với tỉ lệ lần lượt là 27,0%; 35,7%; 33,3%; 1,6%. Như vậy, tỉ lệ bệnh nhân có chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng ở mức trung bình đến rất nhiều (từ 6-30 điểm) là 70,6%. Liên quan giữa yếu tố dịch tễ với độ nặng của bệnh Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng trung bình của bệnh giữa nam và nữ (p = 0,01). Độ nặng trung bình của bệnh ở nam cao hơn nữ. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng của bệnh giữa các nhóm tuổi, nơi ở, trình độ học vấn (p > 0,05). Bảng 1: Liên quan giữa yếu tố dịch tễ và độ nặng của bệnh Yếu tố dịch tễ Độ nặng trung bình p Giới tính Nam 2,1 ± 1,1 0,01 Nữ 1,6 ± 1,0 Tuổi < 30 1,9 ± 1,0 0,66 ≥ 30 1,8 ± 1,1 Nơi ở TPHCM 1,9 ± 1,1 0,45 Khác 2,0 ± 1,0 Trình độ học vấn Cấp 1,2 2,0 ± 1,1 0,49 Cấp 3 1,7 ± 1,0 Đại học, cao đẳng 1,9 ± 1,1 Liên quan giữa yếu tố dịch tễ, đặc điểm lâm sàng với chất lượng cuộc sống Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, tuổi, nơi ở, trình độ học vấn với chất lượng cuộc sống. Trung vị thời gian bệnh, tình trạng ngứa, vị trí chỉ ở da đầu, trung vị độ nặng liên quan có ý nghĩa thống kê với chất lượng cuộc sống (p < 0,05). Không có sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng bệnh, sự tái phát, vị trí thương tổn ở mặt với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 316 Bảng 2: Liên quan giữa yếu tố dịch tễ và chất lượng cuộc sống Yếu tố dịch tễ Điểm DLQI p 0 – 5 (n = 37) 6 – 30 (n = 89) Giới tính, n (%) Nam 15 (40,5) 52 (58,4) 0,07 Nữ 22 (59,5) 37 (41,6) Nhóm tuổi, n (%) < 30 18 (48,6) 52 (58,4) 0,31 ≥ 30 19 (51,4) 37 (41,6) Nơi ở, n (%) TPHCM 32 (86,5) 71 (79,8) 0,37 Khác 5 (13,5) 18 (20,2) Trình độ học vấn, n (%) Cấp 1, 2 11 (29,7) 16 (18,0) 0,25 Cấp 3 9 (24,3) 19 (21,3) Cao đẳng, đại học 17 (45,9) 54 (60,7) Bảng 3: Liên quan giữa đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống Đặc điểm lâm sàng Điểm DLQI p 0 - 5 6 - 30 Trung vị thời gian bệnh (tháng) 24 42 0,006 Tình trạng bệnh, n (%) Bệnh lần đầu 3 (15,0) 4 (8,5) 0,42 Mạn tính tái phát 17 (85,0) 43 (91,5) Bệnh lần đầu 3 (15,0) 4 (8,7) 0,43 Kéo dài liên tục 17 (85,0) 42 (91,3) Mạn tính tái phát 17 (50,0) 43 (50,6) 0,95 Kéo dài liên tục 17 (50,0) 42 (49,4) Tái phát, n (%) ≤ 5 lần/năm 8 (47,1) 13 (30,2) 0,22 ˃ 5 lần/năm 9 (52,9) 30 (69,8) Ngứa, n (%) Trung bình, nhiều 6 (16,2) 49 (55,1) < 0,001 Không hay ít 31 (83,8) 40 (44,9) Vị trí, n (%) Mặt 27 (73,0) 72 (80,9) 0,32 Không bị mặt 10 (27,0) 17 (19,1) Chỉ bị da đầu 9 (24,3) 8 (9,0) 0,04 Khác 28 (75,7) 81 (91,0) Trung vị độ nặng (điểm) 1,0 2,2 < 0,001 Bảng 4: Phân tích đa biến các đặc điểm lâm sàng liên quan đến chất lượng cuộc sống Đặc điểm lâm sàng OR KTC 95% p Thời gian bệnh 1,012 0,997-1,027 0,11 Ngứa 2,262 0,727-7,036 0,16 Chỉ bị da đầu 0,884 0,247-3,166 0,85 Độ nặng bệnh 4,771 2,131-10,684 < 0,001 Nếu điểm độ nặng tăng 1 điểm thì nguy cơ chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bị ảnh hưởng ở mức trung bình đến rất nhiều tăng 4,8 lần (p < 0,001). BÀN LUẬN Đặc điểm lâm sàng Trung vị thời gian bệnh là 36 tháng. Kết quả này cũng khá phù hợp với một số nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới. Nghiên cứu của tác giả Lý Hữu Đức cho thấy thời gian bệnh trung bình là 2,4 năm(8). Theo nghiên cứu của tác giả Araya M. và tác giả Oztas P. thì thời gian bệnh trung bình là 3 năm và 3,4 năm (1,10). Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Park S. Y. và tác giả Peyri J. ghi nhận thời gian bệnh trung bình dài hơn so với nghiên cứu của chúng tôi là 6,7 năm và 7 năm (11,12). Nguyên nhân có thể do tuổi trung bình của các bệnh nhân tham gia vào hai nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi nên dẫn đến thời gian bệnh cũng kéo dài hơn. Tỉ lệ bệnh mạn tính tái phát (47,6%) và tỉ lệ bệnh kéo dài liên tục (46,8%) gần bằng nhau, mỗi tỉ lệ này chiếm gần một nửa. Theo nghiên cứu của tác giả Araya M. thì tỉ lệ bệnh mạn tính tái phát (68,1%) cao hơn tỉ lệ bệnh kéo dài liên tục (20,5%) (1). Kết quả của chúng tôi khác so với tác giả Araya M. có thể do định nghĩa về tình trạng bệnh giữa hai nghiên cứu khác nhau. Chúng tôi quy ước tình trạng bệnh như sau: bệnh lần đầu là bệnh mới khởi phát và thời gian kéo dài dưới 3 tháng; bệnh mạn tính tái phát là bệnh từ 3 tháng trở lên, bệnh tự khỏi hay do điều trị, và tái phát lại sau 1-2 tuần; bệnh kéo dài liên tục là bệnh từ 3 tháng trở lên, triệu chứng kéo dài liên tục hay bị tái lại trong vòng 1 tuần. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 317 Đối với bệnh nhân bị bệnh mạn tính tái phát, 65,0% bệnh nhân tái phát trên 5 lần mỗi năm. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lý Hữu Đức với tỉ lệ là 31/49 bệnh nhân (63,3%)(8). Bệnh nhân có triệu chứng ngứa chiếm 76,2%, với tỉ lệ ngứa nhẹ, trung bình và nặng lần lượt là 32,5%; 29,4%; 14,3%. Theo nghiên cứu của tác giả Araya M. thì tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng ngứa là 78,9%(1). Kết quả của chúng tôi ghi nhận phù hợp với tác giả Araya M. Vị trí thương tổn thường gặp nhất là da đầu và mặt với tỉ lệ 96,0% và 78,6%. Theo ghi nhận của các nghiên cứu khác, da đầu và mặt cũng chính là hai vị trí thường gặp. Nghiên cứu của tác giả Araya M. cho thấy tỉ lệ ở mặt và da đầu là 75,3% và 59,0%(1). Nghiên cứu của tác giả Peyri J. cho thấy tỉ lệ ở mặt và da đầu là 87,7% và 70,3%(12). Điều này cũng phù hợp với cơ chế bệnh sinh của bệnh khi mà bệnh có liên quan đến hoạt động tuyến bã. Thương tổn thường xuất hiện chủ yếu ở những vùng da có nhiều tuyến bã hoạt động như mặt, da đầu. Tuy nhiên, chỉ có lượng chất bã được tạo ra không phải là yếu tố nguy cơ quyết định khả năng mắc bệnh. Thành phần lipid trên bề mặt da mới là yếu tố liên quan đến bệnh. Bệnh nhân bị viêm da tiết bã có sự thay đổi thành phần chất bã, tăng triglycerides và cholesterol, giảm squalene và axit béo tự do(3). Tỉ lệ bệnh nhân chỉ bị trên da đầu chiếm 13,5%. Nghiên cứu của tác giả Szepietowski J. C. ở Ba Lan cho thấy tỉ lệ này là 30,8% (13). Tỉ lệ bệnh nhân chỉ bị trên da đầu theo ghi nhận của chúng tôi thấp hơn so với tác giả Szepietowski J. C. có thể do gàu da đầu là tình trạng thường gặp và bệnh nhân có thể dễ dàng mua được dầu gội trị gàu trên thị trường, hay do gàu không ảnh hưởng gì đến sức khỏe của bệnh nhân nên bệnh nhân cảm thấy không cần thiết đến khám tại bệnh viện. Trung vị độ nặng của bệnh là 1,6 điểm. Nghiên cứu của tác giả Emre S. cũng dựa theo hệ thống điểm SDASI, cho thấy độ nặng trung bình là 2,3 ± 1,0 điểm(6). Chất lượng cuộc sống Điểm trung bình DLQI là 8,9 ± 5,2 điểm. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của tác giả Araya M. với điểm trung bình DLQI là 8,1 ± 6,0 điểm (1). Tuy nhiên, điểm trung bình DLQI theo ghi nhận của chúng tôi lại cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Szepietowski J. C. với 6,9 ± 5,3 điểm và nghiên cứu của tác giả Oztas P. với 3,9 ± 2,8 điểm(10,13). So sánh với một số bệnh da khác tại Việt Nam, điểm trung bình DLQI của bệnh nhân viêm da tiết bã gần bằng so với bệnh chàm bàn tay bàn chân (8,56 ± 3,38 điểm) nhưng thấp hơn so với bệnh chàm thể tạng (11,07 ± 6,22 điểm) và mụn trứng cá (12,95 ± 5,4 điểm)(5,9,14). Điểm DLQI cao nhất ở câu số 2 (gây bối rối, mặc cảm) và câu số 7 (ảnh hưởng đến công việc, học tập). Nghiên cứu của tác giả Araya M. cho thấy điểm DLQI cao nhất ở câu số 1 (triệu chứng như: ngứa, đau, nhức, rát) và câu số 2 (gây bối rối, mặc cảm)(1). Theo tìm hiểu của chúng tôi, có nhiều nguyên nhân gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và bệnh ảnh hưởng đa dạng đến đời sống của bệnh nhân. Bệnh nhân cảm thấy bối rối, mặc cảm là do thương tổn xuất hiện trên mặt và gàu da đầu gây mất thẩm mỹ. Người xung quanh thường nói mặt bệnh nhân bị nhiễm nấm, họ thường hỏi tại sao mặt của bệnh nhân bị đỏ. Bệnh nhân phải trang điểm để che thương tổn, phải để tóc dài hay đội nón để che bớt gàu. Động tác gãi đầu làm bệnh nhân cảm thấy ngại ngùng, xấu hổ với mọi người. Bệnh nhân lo lắng vì bệnh không khỏi dù đã đi điều trị, không biết bệnh có lây hay không, sợ bệnh di truyền cho con. Về công việc mua sắm, chăm sóc nhà cửa hoặc vườn tược, triệu chứng ngứa gây bực bội khiến bệnh nhân không muốn đi mua sắm, bệnh nhân sợ gàu bay vào thức ăn nên không dám nấu ăn, sợ gàu bay làm bẩn nhà cửa. Việc lựa chọn trang phục cũng bị ảnh hưởng, bệnh nhân phải đội nón để che bớt gàu, gàu rớt nhiều xuống áo nên bệnh nhân phải tránh chọn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 318 những trang phục màu đen. Về hoạt động xã hội, giải trí thì triệu chứng ngứa gây khó chịu đôi lúc khiến bệnh nhân không muốn đi chơi với bạn bè; bệnh nhân cảm thấy thiếu tự tin khi tham gia những hoạt động xã hội, giải trí; ngại ra ngoài tiếp xúc ánh nắng vì thấy mặt đỏ nhiều hơn. Khi tham gia hoạt động thể thao, mồ hôi ra nhiều gây ngứa nhiều hơn. Về công việc và học tập, nhiều bệnh nhân vì đi khám bệnh phải nghỉ học hay nghỉ làm; triệu chứng ngứa còn làm bệnh nhân phải ngưng công việc để gãi đầu, làm mất tập trung vào công việc; mất tự tin trong công việc giao tiếp. Đối với người thân xung quanh, bệnh làm cho người thân cảm thấy lo lắng và khuyên bệnh nhân đi khám bệnh. Việc điều trị cũng ảnh hưởng đến cuộc sống của bệnh nhân. Bệnh nhân mất thời gian chờ lâu khi đi khám bệnh, mất thời gian xin giấy chuyển tuyến và đi lại nhiều bệnh viện. Bệnh nhân gặp nhiều khó khăn mỗi khi đi khám bệnh do nhà xa. Đôi khi mùi xà bông gội đầu đặc trị gây khó chịu. Liên quan giữa yếu tố dịch tễ với độ nặng của bệnh Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng trung bình của bệnh giữa nam và nữ (p = 0,01). Độ nặng trung bình của bệnh ở nam cao hơn nữ. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng của bệnh giữa các nhóm tuổi, nơi ở và trình độ học vấn (p > 0,05). Nghiên cứu của tác giả Peyri J. cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng của các triệu chứng giữa các nhóm tuổi, bệnh nhân trên 60 tuổi biểu hiện hồng ban, thâm nhiễm và triệu chứng ngứa nặng hơn (12). Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Park S. Y. lại ghi nhận có mối tương quan nghịch giữa tuổi và độ nặng của bệnh. Bệnh nhân ở nhóm dưới 30 tuổi có điểm độ nặng cao hơn. Bệnh nhân ở nhóm từ 60 tuổi trở lên có điểm độ nặng thấp hơn(11). Bệnh nhân lớn tuổi nhất tham gia vào nghiên cứu của chúng tôi là 57 tuổi nên chưa thể đánh giá được độ nặng của bệnh ở nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi. Chúng tôi mong rằng những nghiên cứu về sau với quy mô lớn hơn sẽ khảo sát trên nhiều nhóm tuổi, đặc biệt là bệnh ở trẻ em và người cao tuổi. Liên quan giữa yếu tố dịch tễ, đặc điểm lâm sàng với chất lượng cuộc sống Về yếu tố dịch tễ, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, tuổi, nơi ở, trình độ học vấn với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Nghiên cứu của tác giả Szepietowski J. C. với mẫu gồm 3000 ca và cũng sử dụng bảng câu hỏi DLQI để đánh giá chất lượng cuộc sống. Kết quả cho thấy nữ giới bị ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống hơn so với nam. Bệnh nhân lớn tuổi có chất lượng cuộc sống tốt hơn. Những bệnh nhân trình độ học vấn tiểu học có chất lượng cuộc sống tốt hơn những bệnh nhân trình độ học vấn trung học hay đại học(13). Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân có thể do cỡ mẫu nhỏ và nghiên cứu còn chưa khảo sát được chất lượng cuộc sống của nhóm bệnh nhân cao tuổi. Phân tích đơn biến về mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng với chất lượng cuộc sống cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng bệnh, sự tái phát, vị trí thương tổn trên mặt với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Thời gian bệnh, tình trạng ngứa, vị trí chỉ ở da đầu, độ nặng của bệnh liên quan có ý nghĩa thống kê với chất lượng cuộc sống (p < 0,05). Tuy nhiên, khi phân tích đa biến các đặc điểm lâm sàng liên quan đến chất lượng cuộc sống cho thấy chỉ độ nặng của bệnh liên quan có ý nghĩa thống kê với chất lượng cuộc sống. Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác. Nghiên cứu của tác giả Peyri J. cũng cho thấy những bệnh nhân có triệu chứng nhẹ-trung bình có tổng điểm Skindex-29 thấp hơn những bệnh nhân có triệu chứng nặng-rất nặng, điều này chứng tỏ rằng chất lượng cuộc sống càng bị ảnh hưởng khi triệu chứng bệnh càng nặng(12). Mặt khác, nghiên cứu của tác giả Szepietowski J. C. cho thấy bệnh nhân chỉ bị gàu da đầu có chất Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 319 lượng cuộc sống tốt hơn so với bệnh nhân bị viêm da tiết bã hay bệnh nhân vừa bị gàu vừa bị viêm da tiết bã (p < 0,001)(13). KẾT LUẬN Tỉ lệ bệnh nhân nam chiếm 53,2%. Tuổi trung vị là 27,5 tuổi. Trung vị thời gian bệnh là 36 tháng. Tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng ngứa chiếm 76,2%. Vị trí thương tổn thường gặp nhất ở da đầu và mặt với tỉ lệ lần lượt là 96,0% và 78,6%. Trung vị độ nặng là 1,6 điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng của bệnh giữa nam và nữ (2,1 ± 1,1 điểm so với 1,6 ± 1,0 điểm; p = 0,01). Điểm trung bình DLQI là 8,9 ± 5,2 điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa độ nặng của bệnh với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (OR = 4,8; KTC 95%: 2,1-10,7; p < 0,001). Như vậy, nam giới bị bệnh nặng hơn so với nữ và độ nặng của bệnh liên quan có ý nghĩa thống kê với chất lượng cuộc sống. Do đó, việc điều trị tích cực làm giảm độ nặng của bệnh sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Araya M et al. (2015). Clinical Characteristics and Quality of Life of Seborrheic Dermatitis Patients in a Tropical Country. Indian Journal of Dermatology, 60 (5): 519. 2. Bilgili M E et al (2013). Prevalence of skin diseases in a dermatology outpatient clinic in Turkey. A cross-sectional, retrospective study. Journal of Dermatological Case Reports, 7 (4): 108-112. 3. Collins D C and Hivnor C (2012). Seborrheic Dermatitis. Fitzpatrick's Dermatology in General Medicine, Vol. 1, 8th edition, pp. 259-266. McGraw-Hill, Inc. 4. Comert A et al (2007). Efficacy of oral fluconazole in the treatment of seborrheic dermatitis: a placebo-controlled study. American Journal of Clinical Dermatology, 8 (4): 235-238. 5. Đào Thị Tú Trinh và Nguyễn Tất Thắng (2014). Đặc điểm lâm sàng, các yếu tố liên quan và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân chàm bàn tay, bàn chân tại bệnh viện Da liễu TPHCM. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 18 (1): 110-116. 6. Emre S et al (2012). The association of oxidative stress and disease activity in seborrheic dermatitis. Archives of Dermatological Research, 304 (9): 683-687. 7. Furue M et al (2011). Prevalence of dermatological disorders in Japan: a nationwide, cross-sectional, seasonal, multicenter, hospital-based study. The Journal of Dermatology, 38 (4): 310- 320. 8. Lý Hữu Đức và cs (2008). Yếu tố nguy cơ trong viêm da tiết bã. Sinh hoạt khoa học kỹ thuật Da Liễu khu vực phía nam Kỳ I, 19- 25. 9. Nguyễn Thị Hồng Nhung và Lê Ngọc Diệp (2014). Đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân mụn trứng cá tại bệnh viện Da Liễu TPHCM. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 18 (1): 89-96. 10. Oztas P et al (2005). Psychiatric tests in seborrhoeic dermatitis. Acta dermato-venereologica, 85 (1): 68-69. 11. Park SY et al (2016). Clinical manifestation and associated factors of seborrheic dermatitis in Korea. European Journal of Dermatology, 26 (2): 173-176. 12. Peyri J, Lleonart M (2007). Clinical and therapeutic profile and quality of life of patients with seborrheic dermatitis. Actas Dermo-Sifiliográficas, 98 (7): 476-482. 13. Szepietowski JC et al (2009). Quality of life in patients suffering from seborrheic dermatitis: influence of age, gender and education level. Mycoses, 52 (4): 357-363. 14. Trình Ngô Bỉnh và Lê Ngọc Diệp (2016). Chất lượng cuộc sống bệnh nhân chàm thể tạng người lớn tại bệnh viện da liễu TPHCM. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 20 (2): 40-44. 15. The Department of Dermatology at Cardiff University "DLQI Instructions for use and scoring", life/dermatology-quality-of-life-index-dlqi/dlqi-instructions- for-use-and-scoring/. Ngày nhận bài báo: 12/12/2017 Ngày nhận xét phản biện bài báo: 11/01/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/04/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_lam_sang_va_chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_viem.pdf
Tài liệu liên quan