Tài liệu Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân cao tuổi thuyên tắc phổi tại Bệnh viện Thống Nhất: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 224
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN CAO TUỔI
THUYÊN TẮC PHỔI TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Nguyễn Văn Tân*, Nguyễn Đức Thành**, Nguyễn Ngọc Phương Dung**
TÓM TẮT
Mở đầu: Thuyên tắc phổi là một bệnh lý cấp cứu nội khoa có tỉ lệ tử vong cao, đặc biệt là ở các bệnh nhân cao
tuổi nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, thuyên tắc phổi thường khó chẩn đoán do bệnh
cảnh lâm sàng không đặc hiệu và có thể nhầm lẫn với các bệnh lý khác, đặc biệt trên các bệnh nhân cao tuổi. Phần
lớn bệnh nhân tại bệnh viện Thống Nhất là người cao tuổi nhưng nghiên cứu về thuyên tắc phổi trên các đối
tượng này còn chưa rõ.
Mục tiêu nghiên cứu: khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân cao tuổi bị thuyên tắc
phổi tại bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu là mô tả hàng loạt ca trên 32 bệnh nhân...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân cao tuổi thuyên tắc phổi tại Bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 224
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN CAO TUỔI
THUYÊN TẮC PHỔI TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Nguyễn Văn Tân*, Nguyễn Đức Thành**, Nguyễn Ngọc Phương Dung**
TÓM TẮT
Mở đầu: Thuyên tắc phổi là một bệnh lý cấp cứu nội khoa có tỉ lệ tử vong cao, đặc biệt là ở các bệnh nhân cao
tuổi nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, thuyên tắc phổi thường khó chẩn đoán do bệnh
cảnh lâm sàng không đặc hiệu và có thể nhầm lẫn với các bệnh lý khác, đặc biệt trên các bệnh nhân cao tuổi. Phần
lớn bệnh nhân tại bệnh viện Thống Nhất là người cao tuổi nhưng nghiên cứu về thuyên tắc phổi trên các đối
tượng này còn chưa rõ.
Mục tiêu nghiên cứu: khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân cao tuổi bị thuyên tắc
phổi tại bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu là mô tả hàng loạt ca trên 32 bệnh nhân ≥60
tuổi thuyên tắc phổi được chẩn đoán xác định và so sánh với y văn.
Kết quả: Tuổi trung bình là 75,5 ± 6,07 (tuổi). Phần lớn bệnh nhân đều có nguy cơ bệnh lý thuyên tắc do
huyết khối như hút thuốc lá (40%), tiền căn huyết khối tĩnh mạch sâu (37%), bất động (35%), rối loạn lipid máu
(30%), đột quị (18%). Khó thở là triệu chứng thường gặp nhất (87%). 97% số bệnh nhân thuyên tắc phổi có D-
Dimer tăng. Siêu âm tĩnh mạch có đè ép ghi nhận 46,88% số bệnh nhân thuyên tắc phổi có huyết khối tĩnh mạch
sâu. Nhịp nhanh xoang là dấu hiệu thường gặp nhất của thuyên tắc phổi (68,7%). Có 34,48% số bệnh nhân có
dấu rối loạn chức năng thất phải trên siêu âm tim. Tỷ lệ phân loại theo thang điểm Wells trên bệnh nhân thuyên
tắc phổi: cao 25%, trung bình 56,25%, thấp 18,75%. Nhóm có phân tầng nguy cơ thấp theo thang điểm sPESI
chiếm 32,25%, nhóm có nguy cơ cao chiếm 68,75%. Không có sự liên giữa phân tầng nguy cơ của thuyên tắc
phổi (sPESI) và vị trí huyết khối trên hình ảnh chụp cắt lớp điện toán mạch máu phổi cản quang.
Kết luận: Triệu chứng lâm sàng thuyên tắc phổi đa dạng. Khó thở là triệu chứng thường gặp nhất. Đa số
bệnh nhân thuyên tắc phổi trong nghiên cứu đều có yếu tố nguy cơ thuyên tắc do huyêt khối và thuộc nhóm nguy
cơ trung bình theo thang điểm Wells. Không có sự liên quan giữa phân tầng nguy cơ của thuyên tắc phổi (sPESI)
và vị trí huyết khối trên hình ảnh chụp cắt lớp điện toán mạch máu phổi cản quang.
Từ khóa: Thuyên tắc phổi, yếu tố nguy cơ, biểu hiện lâm sàng, Wells Score, sPESI score
ABSTRACT
THE CLINICAL AND LABORATORY CHARACTERISTICS OF ELDERLY PATIENTS WITH
PULMONARY EMBOLISM AT THONG NHAT HOSPITAL
Nguyen Van Tan, Nguyen Duc Thanh, Nguyen Ngoc Phuong Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 224 - 230
Background: Pulmonary embolism (PE) is a medical emergency that has a high mortality rate, especially in
elderly patients if not diagnosed and treated promptly. However, pulmonary embolism is often difficult to
diagnose due to non-specific clinical conditions and may be confused with other conditions, particularly in elderly
patients. The majority of patients in Thong Nhat hospital are elderly, but research on pulmonary embolism on
these subjects is still unclear.
* Bộ môn Lão khoa – Đại học Y Dược TP.HCM ** Bệnh viện Thống Nhất, TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Văn Tân ĐT: 0903739273 Email: nguyenvtan10@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 225
Objectives: To investigate the clinical and laboratory characteristics of elderly patients with pulmonary
embolism at Thong Nhat hospital in Ho Chi Minh City.
Subjects and methods: The study design was to describe a series of cases in 32 patients with ≥60 years of
diagnosed pulmonary embolism and comparable to the literature.
Results: The mean age was 75.5 ± 6.07 (age). The majority of patients were at risk for thromboembolic
disease such as smoking (40%), deep venous thrombosis (DVT) (37%), inactivity (35%), dyslipidemia (30%),
stroke (18%). Shortness of breath was the most common symptom (87%). About 97% of patients with D-Dimer
have increased. DVT recorded in 46.88% of patients. Rapid sinus rhythm was the most common sign of
pulmonary embolism (68.7%) in electrocardiography. About 34.48% of patients had right ventricular
dysfunction in chest echocardiography. Wells score rate of patients with pulmonary embolism: high 25%, average
56.25%, low 18.75%. The sPESI score with low risk stratification group accounted for 32.25%, high risk group
accounted for 68.75%. There is no correlation between the risk stratification of pulmonary embolism (sPESI) and
the location of thrombosis in CT images.
Conclusion: Clinical manifestations of pulmonary embolism was very variety. Shortness of breath was the
most common symptom. Most patients with pulmonary embolism in the study had risk factor for thrombotic and
at an intermediate risk group on a Wells score. There was no association between the risk stratification of
pulmonary embolism (sPESI) and the location of thrombosis in CT images.
Key words: Pulmonary embolism, risk of PE, clinical presentation in PE, Wells Score, sPESI score
MỞ ĐẦU
Thuyên tắc phổi và huyết khối tĩnh mạch sâu
gọi chung là bệnh lý thuyên tắc huyết khối tĩnh
mạch, là một trong ba nguyên nhân tử vong tim
mạch cao nhất, sau nhồi máu cơ tim và đột quỵ
(3).Tại Mỹ và châu Âu, tỉ lệ thuyên tắc phổi mới
mắc là 1,8/1000. Mỗi năm ở Mỹ, tỉ lệ thuyên tắc
phổi ở bệnh nhân nằm viện là 0,4% và có khoảng
200.000 người tử vong vì thuyên tắc phổi(16).
Chẩn đoán xác định thuyên tắc phổi là một thách
thức đối với các bác sỹ lâm sàng, việc phát hiện
nhiều khi là tình cờ. Việc chẩn đoán sớm rất
quan trọng để giúp điều trị ban đầu hiệu quả.
Tuy nhiên, chẩn đoán thuyên tắc phổi thường
khó và dễ bị bỏ sót do bệnh cảnh lâm sàng ít đặc
hiệu, có thể nhầm với các bệnh lý khác(9). Tại Việt
Nam, trước đây thuyên tắc phổi được xem là
bệnh hiếm, tuy nhiên, gần đây đã trở nên phổ
biến hơn nhờ việc chẩn đoán xác định bằng chụp
cắt lớp điện toán mạch máu phổi cản quang.
Bệnh viện Thống Nhất là bệnh viện tuyến
trung ương của các tỉnh miền Nam, với lượng
bệnh nhân đông, tỉ lệ bệnh nhân cao tuổi chiếm
đa số, bệnh nhân thường có đa bệnh lý phức tạp,
bao gồm các bệnh nội và ngoại khoa kết hợp.
Tuy nhiên, nghiên cứu về thuyên tắc phổi trên
các đối tượng bệnh nhân cao tuổi vẫn chưa được
thực hiện. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu này nhằm khảo sát các đặc điểm lâm sàng
và cận lâm sàng của thuyên tắc phổi cấp ở bệnh
nhân cao tuổi tại bệnh viện Thống Nhất.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
32 bệnh nhân ≥ 60 tuổi nhập khoa Tim mạch
cấp cứu và Can thiệp của bệnh viện Thống Nhất
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ
01/01/2014 đến 31/12/2016, được chẩn đoán xác
định thuyên tắc phổi bằng chụp cắt lớp điện
toán mạch máu phổi có cản quang.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng bệnh án, thu thập số liệu từ bệnh án
và ghi nhận các thông tin của bệnh nhân được
chẩn đoán xác định thuyên tắc phổi từ
01/01/2014 đến 31/12/2016 qua chụp cắt lớp điện
toán mạch máu phổi có cản quang. Qua đó, mô
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 226
tả đặc điểm yếu tố nguy cơ, lâm sàng, cận lâm
sàng, tính toán thang điểm Wells, thang điểm
sPESI. Từ đó, xác định tỉ lệ phân bố các yếu tố
nguy cơ, lâm sàng, cận lâm sàng, phân loại theo
thang điểm Wells, phân loại theo tỉ lệ tử vong
gần thang điểm sPESI.
Định nghĩa các biến số
Chẩn đoán thuyên tắc phổi dựa theo khuyến
cáo của Hội Tim mạch châu Âu năm 2014 về
chẩn đoán và điều trị thuyên tắc phổi; tăng
huyết áp dựa theo Hiệp Hội Ủy ban quốc gia về
ngăn ngừa, phát hiện, đánh giá và điều trị tăng
huyết áp lần 7 (JNC7) cũng như cập nhật JNC8;
đái tháo đường được chẩn đoán theo tiêu chuẩn
của Hiệp Hội đái tháo đường Hoa Kỳ 2015; béo
phì được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của WHO
về thừa cân béo phì; hút thuốc lá được định
nghĩa theo tiêu chuẩn của trung tâm kiểm soát
và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) về
người hút thuốc lá; phân loại rối loạn lipid máu
theo ATP IV (Adult Treatment Panel IV), cao
tuổi được định nghĩa là ≥ 60 tuổi.
Phương pháp phân tích số liệu
Các dữ liệu được xử lý bằng phần mềm Stata
12.0, sự khác biệt được xem là có ý nghĩa thống
kê khi p < 0,05. Đây là nghiên cứu quan sát, các
dữ liệu được thu thập một cách độc lập, riêng
biệt, được giữ bí mật và không can thiệp vào quá
trình điều trị. Nghiên cứu cũng đã được thông
qua hội đồng y đức của bệnh viện nên không vi
phạm về mặt y đức.
KẾT QUẢ
Trong 32 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn được đưa
vào nghiên cứu, tuổi trung bình mẫu nghiên cứu
là 75,5 ± 6,07 tuổi, thấp nhất là 66 tuổi, cao nhất là
89 tuổi. Nhóm tuổi từ 60-75 tuổi chiếm tỉ lệ cao
(53,13%), nhóm tuổi lớn hơn 75 chiếm 46,88%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, do đặc
điểm của khoa Tim mạch cấp cứu và can thiệp,
số bệnh nhân có bệnh mạch vành được chẩn
đoán lúc nhập viện chiếm tỷ lệ cao (59%), các
yếu tố nguy cơ gây thuyên tắc phổi là hút thuốc
lá (40%), tiền căn huyết khối tĩnh mạch sâu
(37%), bất động kéo dài (35%), rối loạn lipid máu
(30%), nhiễm trùng nặng (25%), đột quỵ (18%),
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) (12%), có
phẫu thuật gần đây (12%), bệnh lý ung thư có 2
trường hợp (6,25%).
Bảng 1. Một số yếu tố nguy cơ liên quan đến thuyên
tắc phổi
Yếu tố nguy cơ Kết quả, n(%)
Huyết khối tĩnh mạch 12 (37,5%)
Đột quỵ 6 (18,75%)
Nhiễm trùng cấp 8 (25%)
Chấn thương 4 (12,5%)
Hút thuốc lá 13 (40,63%)
Thừa cân (BMI ≥ 23) 11 (35,48%)
RL Lipid máu 9 (30%)
COPD 4 (12,5%)
Phẫu thuật gần đây 4 (12,5%)
Bất động kéo dài 11 (35,48%)
Dùng Hormon Không ghi nhận
Ung thư 2 (6,25%)
Tuổi > 80t 9 (28,13%)
Bảng 2. Các triệu chứng lâm sàng
Các triệu chứng Kết quả, n(%)
Khó thở 28 (87,5%)
Đau ngực 15 (46,88%)
Ho ra máu 1 (3,13%)
Sưng, đau chân 5 (15,62%)
Nhịp tim nhanh (>100 lần/phút) 20 (62,5%)
Choáng (HA tối đa <90mmHg) 2 (6,25%)
Tím tái 2 (6,25%)
Bảng 3. Thay đổi cận lâm sàng
Cận lâm sàng (số ca làm/tổng) Biểu hiện cận lâm sàng Kết quả, n(%)
Khí máu động mạch (32/32) Giảm Oxy máu 25 (78,12%)
Bình thường 7 (21,88%)
D-Dimer (32/32) Tăng 31 (97%)
Không tăng 1 (3%)
NT-proBNP (30/32) Tăng 17 (53,13%)
Không tăng 13 (30,62%)
Tropinin T-hs (32/32) Tăng 25 (63%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 227
Cận lâm sàng (số ca làm/tổng) Biểu hiện cận lâm sàng Kết quả, n(%)
Không tăng 7 (37%)
ECG (32/32) Nhịp nhanh xoang 20 (62,5%)
S1Q3T3 4 (12,5%)
Block nhánh phải, thay đổi ST-T 10 (31,25%)
Bình thường 5 (15,62%)
Xquang ngực thẳng (32/32) Bình thường 4 (12%)
Bất thường (phổi sáng, cung ĐM phổi phồng, tràn dịch phổi,
bóng tim to)
28 (88%)
Siêu âm tim (28/32) Rối loạn chức năng thất phải 11 (34,37%)
Tăng áp động mạch phổi tâm thu 18 (56,25%)
Siêu âm mạch máu chi dưới (29/32) Huyết khối 15 (46,88%)
Suy van tĩnh mạch 8 (25%)
Bảng 4. Vị trí huyết khối động mạch phổi trên chụp
cắt lớp điện toán mạch máu phổi có cản quang
Các dấu hiệu Kết quả, n(%)
Huyết khối trong thân chung động mạch phổi 2 (6,25%)
Huyết khối động mạch phổi phải hoặc trái 16 (50%)
Huyết khối động mạch phổi thùy 14 (43,75%)
Tổng số 32 (100%)
Đa số bệnh nhân (87,5%) có triệu chứng khó
thở lúc nhập viện, về triệu chứng thực thể, phần
lớn bệnh nhân (70%) có nhịp tim nhanh, 2 bệnh
nhân (6,25%) có dấu hiệu choáng, 2 bệnh nhân
có biểu hiện tím tái (6,25%).
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự
liên quan giữa phân tầng nguy cơ của thuyên
tắc phổi (sPESI) và vị trí huyết khối trên hình
ảnh chụp cắt lớp điện toán mạch máu phổi cản
quang (p > 0,05).
Bảng 5. Tỉ lệ các phân loại theo các thang điểm Wells
và sPESI
Thang điểm Nguy cơ Kết quả n (%)
Wells score
Thấp (<2) 6 (18,75%)
Trung bình (2-6) 18 (56,25%)
Cao (>6) 8 (25%)
sPESI Thấp 10 (31,25%)
Cao 22 (68,75%)
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện
tại bệnh viện Thống Nhất, nơi có tỉ lệ bệnh
nhân cao tuổi cao hơn các nơi khác, vì vậy độ
tuổi trung bình trong nghiên cứu cao hơn các
nghiên cứu trước đó ở trong và ngoài nước. Ở
trong nước, tác giả Phan Thanh Lan nghiên
cứu tỉ lệ thuyên tắc phổi ở bệnh viện Chợ Rẫy
(n = 60) ghi nhận tuổi trung bình là 54,1 tuổi(15).
Một nghiên cứu khác được thực hiện tại bệnh
viện Bạch Mai, tác giả Hoàng Bùi Hải đã ghi
nhận độ tuổi trung bình trong nghiên cứu là
54 ± 17,24(5). Tại Thái Lan, tác giả
Reechaipichitkul W nghiên cứu về dịch tễ học
và điều trị thuyên tắc phổi cũng ghi nhận tuổi
trung bình trong nghiên cứu là 54,1 ± 17,1(15). Ở
châu Âu, tác giả Stein PD mô tả đặc điểm lâm
sàng của bệnh nhân thuyên tắc phổi cấp qua
nghiên cứu PIOPED II cũng ghi nhận tuổi
trung bình là 57 ± 17(17). Qua khảo sát, chúng
tôi ghi nhận 18 bệnh nhân là nữ giới, chiếm tỷ
lệ 56,25%, nam giới có 14 bệnh nhân, chiếm tỷ
lệ 43,75%, sự khác biệt về giới không đáng kể,
cũng tương tự như những nghiên cứu của các
tác giả khác(2, 13, 17).
Các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, bệnh
động mạch vành, bệnh phổi mạn tính chiếm
phần lớn trong dân số nghiên cứu. Trong đó, hội
chứng vành cấp được chẩn đoán lúc nhập viện
chiếm tỉ lệ cao (59%). Các yếu tố nguy cơ thuyên
tắc phổi khác được ghi nhận là hút thuốc lá
chiếm tỉ lệ 40%, tiền căn huyết khối tĩnh mạch
sâu cũng chiếm tỉ lệ khá cao (37%). Gần 40% số
bệnh nhân huyết khối tĩnh mạch sâu không có
triệu chứng lâm sàng có bằng chứng thuyên tắc
phổi dựa trên kết quả scan thông khí tưới máu
phổi(12). Ngược lại khoảng 70% bệnh nhân
thuyên tắc phổi sẽ tìm thấy huyết khối tĩnh mạch
sâu ở chân(7). Theo tác giả Phan Thanh Lan, số
bệnh nhân có bệnh lý tim phổi như tăng huyết
áp, bệnh mạch vành, bệnh phổi tắc nghẽn mạn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 228
tínhđược chẩn đoán trước nhập viện chiếm tỉ
lệ cao nhất 56%, tiếp theo là bất động kéo dài
45%, có phẫu thuật gần đây 33,3%, liệt nửa
người, đột quỵ 18,3%, nhiễm trùng nặng 13,3%(5).
Tác giả Reechaipichitkul W ghi nhận trong
nghiên cứu 59,8% bệnh nhân có bệnh ung thư,
55,6% có huyết khổi tĩnh mạch sâu ở chân, 22,5%
có bất động(15). Theo tác giả Stein PD, bất động
chiếm tỷ lệ cao nhất là 25%, có phẫu thuật trong
ba tháng gần đây chiếm 25%, tiền căn thuyên tắc
huyết khối 10%, chấn thương 8%, COPD 5%, đột
quỵ, liệt 4%(16).
Các nghiên cứu trong và ngoài nước cho
thấy khó thở, đau ngực, nhịp tim nhanh là các
triệu chứng phổ biến nhất ở bệnh nhân thuyên
tắc phổi. Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương
đồng với các nghiên cứu khác: theo tác giả
Hoàng Bùi Hải, khó thở gặp trong 82,5%, tỉ lệ
này là 79% theo tác giả Stein PD(16), tác giả
Jouveshomme S(7) ghi nhận 79% bệnh nhân khó
thở. Trong nghiên cứu của chúng tôi, đau ngực
chiếm tỉ lệ 46%, ho ra máu 3%. Kết quả này
tương đồng với ghi nhận của tác giả Phan Thanh
Lan (40% đau ngực, 8,3% ho ra máu)(5). Nhịp tim
nhanh là một triệu chứng thực thể hay gặp,
trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ 62%,
tương đồng với kết quả của tác giả Phan Thanh
Lan (70%), Hoàng Bùi Hải (73,7%)(2,5). Choáng
gợi ý đến thuyên tắc phổi diện rộng, nhưng
không phải tất cả bệnh nhân, nhất là những
bệnh nhân có bệnh tim phổi nền, chỉ cần thuyên
tắc nhỏ cũng có thể gây rối loạn huyết động, tụt
huyết áp. Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận có 2/32 ca (6,25%) tụt huyết áp, tuy nhiên,
không có ca nào tử vong.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có 78% bệnh nhân có giảm Oxy máu. Tác giả
Hoàng Bùi Hải ghi nhận tỉ lệ giảm Oxy máu
chiếm 77,2%(2), tác giả Phan Thanh Lan ghi nhận
66% giảm Oxy máu(5). Theo tác giả
Reechaipichitkul(15), giảm Oxy máu chiếm tỷ lệ
88,8%. Giảm Oxy máu là dấu hiệu quan trọng và
phù hợp, biểu hiện này cũng gặp nhiều cho
những bệnh lý phổi khác và đôi khi không có kể
cả những trường hợp tắc mạch máu diện rộng.
Trong nghiên cứu của Đặng Vạn Phước và
cộng sự, nếu xem siêu âm màu Doppler là tiêu
chuẩn vàng xác định huyết khối tĩnh mạch sâu
thì với mức ngưỡng D-Dimer > 500 ng/ml, độ
nhạy trong chẩn đoán là 77,8%, độ đặc hiệu
42,8%, giá trị tiên đoán dương là 33,2% và giá trị
tiên đoán âm là 84,1%(2). Theo Bernardi và cộng
sự, nếu bệnh nhân có nguy cơ huyết khối tĩnh
mạch sâu cần được chỉ định siêu âm chẩn đoán,
nếu siêu âm phát hiện có huyết khối thì cần chỉ
định điều trị kháng đông; nếu siêu âm không
phát hiện huyết khối, nên chỉ định D-Dimer, nếu
D-Dimer âm tính, khả năng huyết khối tĩnh
mạch sâu rất thấp (0,4%) nên chỉ cần theo dõi là
đủ(1). Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ
lệ dương tính 97%, điều này cho thấy D-Dimer là
xét nghiệm ban đầu có thể giúp hướng đến chẩn
đoán thuyên tắc phổi, tuy không đặc hiệu vì có
rất nhiều nguyên nhân cũng làm D-Dimer tăng
như viêm nhiễm, chấn thương, phẫu thuật, trong
thai kỳ, ung thư có thể ghi nhận D-Dimer tăng.
Theo tác giả Phan Thanh Lan, hoàn toàn tương
tự, tỉ lệ D-Dimer dương tính gặp trong 97%
trường hợp thuyên tắc phổi(5).
Tăng Troponin là một yếu tố tiên lượng xấu
ở bệnh nhân thuyên tắc phổi. Xét nghiệm
Troponin T siêu nhạy tăng trong 63% các trường
hợp nghiên cứu và 100% tất cả các bệnh nhân
trong mẫu nghiên cứu chúng tôi đều làm men
tim. So với các nghiên cứu khác trong nước,
chúng tôi nhận thấy sự khác biệt. Nghiên cứu
của tác giả Phan Thanh Lan ghi nhận tỉ lệ tăng
Troponin I chiếm 28,1%(5) và ở nghiên cứu của
tác giả Hoàng Bùi Hải(2), tỉ lệ nàycòn thấp hơn
(21,1%). Sự khác biệt này có thể do mẫu nghiên
cứu của chúng tôi được lấy tại khoa Tim mạch
cấp cứu và Can thiệp, bệnh nhân phần lớn có
bệnh mạch vành kèm theo. Tình trạng mất cung
cầu Oxy sẽ nặng hơn khi thuyên tắc phổi, điều
đó có thể thúc đẩy tình trạng tăng men tim trên
bệnh nhân đã có sẵn bệnh mạch vành từ trước.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 229
Chúng tôi ghi nhận tỉ lệ tăng NT-proBNP
chiếm 53,13% và có 93,75% số bệnh nhân được
làm xét nghiệm NT-proBNP. Kết quả này khá
tương đồng với ghi nhận của tác giả Hoàng Bùi
Hải. Theo tác giả, 40,4% số bệnh nhân được làm
xét nghiệm có tăng NT-proBNP(2). So với nghiên
cứu của tác giả Phan Thanh Lan, 75% tăng BNP,
tuy nhiên, chỉ 13,3% số bệnh nhân được làm xét
nghiệm này(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu
điện tâm đồ thay đổi thường gặp nhất là nhịp
nhanh xoang, chiếm tỉ lệ 68,75% dân số nghiên
cứu, dấu hiệu block nhánh phải là 31,25%, dấu
hiệu S1Q3T3 là 12,5%. Tác giả Phan Thanh Lan
cũng ghi nhận dấu hiệu điện tâm đồ thay đổi
thường gặp nhất là nhịp nhanh xoang (68,3%),
tiếp đến là dấu hiệu S1Q3T3 (20%), biểu hiện
block nhánh phải (18,3%)(5). Theo tác giả
Reechaipichitkul, nhịp nhanh xoang cũng
chiếm tỉ lệ khá cao (58.3%), tiếp đến là dấu
hiệu S1Q3T3 (32,6%)(15).
Tỉ lệ bệnh nhân có rối loạn chức năng thất
phải trên siêu âm tim chiếm 34,48%. Tỉ lệ này
thấp hơn so với các nghiên cứu của tác giả
Hoàng Bùi Hải (49,1%)(2), tác giả Phan Thanh Lan
(71,1%)(5). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng như các nghiên cứu của các tác
giả trên, siêu âm tim chưa được thực hiện đồng
loạt trên tất cả các bệnh trong qui trình chẩn
đoán và điều trị. Điều này có thể do trên lâm
sàng, dấu hiệu giãn thất (P) và tăng áp động
mạch phổi không hoàn toàn đặc hiệu và có thể
gặp ở các bệnh nhân đã có sẵn bệnh lý hô hấp,
tim mạch.
Qua nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ
huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới chiếm tỷ lệ
46,88% (15/32 ca). Tỷ lệ này khá tương đồng với
các nghiên cứu trong nước khác. Tác giả Phan
Thanh Lan ghi nhận tỷ lệ huyết khối tĩnh mạch
sâu chi dưới chiếm 62,1% (18/29 ca)(5) và 56,1%
theo tác giả Hoàng Bùi Hải(2).
Chụp cắt lớp điện toán lồng ngực có bơm
thuốc cản quang trở thành phương pháp chẩn
đoán hình ảnh chính trong chẩn đoán thuyên tắc
phổi(15,18). Nghiên cứu của tác giả Lê Thượng Vũ
cho thấy huyết khối thân chung động mạch phổi
4,4%, huyết khối động mạch phổi (phải và trái)
66,2%, động mạch phổi thùy 23,5%, động mạch
phân thùy 5,9%(11). Theo tác giả Hoàng Bùi Hải,
huyết khối động mạch thân chung và động
mạch phổi thuỳ 59,6%, huyết khối ở động mạch
phân thùy 40,4%(2).
Thang điểm lâm sàng trong đánh giá khả
năng bị thuyên tắc phổi ở từng bệnh nhân dựa
vào sự phối hợp các biểu hiện lâm sàng vô cùng
quan trọng trong chọn lựa chiến lược chẩn
đoán phù hợp và diễn giải các kết quả xét
nghiệm(19). Có nhiều bảng điểm dự đoán khả
năng mắc bệnh lâm sàng, trong đó thường
dùng là thang điểm của Wells(19). Qua nghiên
cứu, chúng tôi ghi nhận tỉ lệ bệnh nhân ở nhóm
khả năng lâm sàng thấp theo thang điểm Wells
chiếm 18,75%, nhóm trung bình 56,25% và
nhóm cao 25%. Trong nghiên cứu tương tự, tác
giả Hoàng Bùi Hải cũng kết luận tỷ lệ phân loại
theo thang điểm Wells trung bình chiếm phần
lớn (56,1%)(2). Theo tác giả Stein PD, tỷ lệ phân
loại thang điểm Wells cao 18%, trung bình 64%,
thấp 18%(15). Như vậy, theo phần lớn các nghiên
cứu, tỉ lệ nhóm lâm sàng khả năng nguy cơ
trung bình chiếm tỉ lệ cao nhất. Ở phân nhóm
nguy cơ lâm sàng thấp (nhóm dễ có nguy cơ bỏ
sót chẩn đoán) của nghiên cứu chúng tôi
(18,75%) tương tự như kết quả của Phan Thanh
Lan (18,3%) và Stein PD (18%).
Theo tác giả Wicki, thang điểm PESI dự đoán
tốt hơn thang điểm GENEVA các biến cố tim
mạch trong 30 ngày(6). Trong nghiên cứu chúng
tôi, nhóm có nguy cơ thấp (sPESI: 0 điểm) chiếm
32,25%, nhóm có nguy cơ cao (sPESI ≥ 1 điểm)
chiếm 68,75%. Như vậy, nhóm có nguy cơ cao
gấp 2,1 lần nhóm có nguy cơ thấp dựa theo
thang điểm sPESI. Qua phân tích, chúng tôi cũng
ghi nhận không có sự liên giữa phân tầng nguy
cơ của thuyên tắc phổi (sPESI) và vị trí huyết
khối trên chụp cắt lớp điện toán mạch máu phổi
có cản quang (p >0,05). Tác giả Goldhaber nghiên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 230
cứu 2.454 bệnh nhân thuyên tắc phổi từ 52 bệnh
viện của 7 quốc gia ở châu Âu và Mỹ. Tác giả kết
luận tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân trong
vòng 3 tháng là 17,4%: 45,1% các tử vong này là
do thuyên tắc phổi(4). Nếu không điều trị, tỉ lệ tử
vong do thuyên tắc phổi khoảng 30%. Tỉ lệ tử
vong giảm khi chẩn đoán được xác định và điều
trị hiệu quả(10). Nghiên cứu của chúng tôi cũng
không ghi nhận trường hợp tử vong nào. Điều
đó có thể được giải thích do cỡ mẫu nghiên cứu
của chúng tôi chưa nhiều, mặt khác, một số ca
nguy cơ cao thuyên tắc phổi bị đột tử không
được đưa vào mẫu nghiên cứu do không thuận
tiện chụp cắt lớp điện toán mạch phổi cản quang
để xác định chẩn đoán. Các nghiên cứu của tác
giả Phan Thanh Lan và Hoàng Bùi Hải sử dụng
phân tầng nguy cơ theo hội tim châu Âu cũng
ghi nhận nhóm có nguy cơ cao và trung bình gấp
hơn 2 lần so với nhóm có nguy cơ thấp(5, 14).
KẾT LUẬN
Triệu chứng lâm sàng thuyên tắc phổi đa
dạng. Khó thở là triệu chứng thường gặp nhất.
Đa số bệnh nhân thuyên tắc phổi trong nghiên
cứu đều có yếu tố nguy cơ thuyên tắc do huyêt
khối và thuộc nhóm nguy cơ trung bình theo
thang điểm Wells. Không có sự liên quan giữa
phân tầng nguy cơ của thuyên tắc phổi (sPESI)
và vị trí huyết khối trên hình ảnh chụp cắt lớp
điện toán mạch máu phổi cản quang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bernardi E, et al (1998), "D-dimer testing as an adjunct to
ultrasonography in patients with clinically suspected deep
vein thrombosis: prospective cohort study. The Multicentre
Italian D-dimer Ultrasound Study Investigators Group", BMJ.
317 (7165), pp. 1037-1040.
2. Đặng Vạn Phước, Nguyễn Văn Trí và cộng sự (2010), "Đánh
giá vai trò của d-dimer trong chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch
sâu".
3. Goldhaber SZ (2011), "Pulmonary Embolism", Braunwald's
Heart Disease - A Textbook of Cardiovascular Medicine, E.
Braunwald, Editor, Saunders: Philadelphia. pp 1679-1695.
4. Goldhaber SZ, et al (1999), "Acute pulmonary embolism:
clinical outcomes in the International Cooperative Pulmonary
Embolism Registry (ICOPER)", Lancet. 353 (9162), pp. 1386-
1389.
5. Hoàng Bùi Hải, Nguyễn Đạt Anh, Đỗ Doãn Lợi (2013),
"Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị tắc động mạch phổi cấp",
Luận án tiến sỹ y học. Đại học Y Hà Nội.
6. Jimenez D, et al (2007), "Prognostic models for selecting
patients with acute pulmonary embolism for initial outpatient
therapy", Chest. 132 (1), pp. 24-30.
7. Jouveshomme S, et al (2007), Diagnosis of pulmonary
ambolism in hospitalised patients: retrospective survey of an
institutional standard, European Respiratory Journal (30):
pp117 – 1123.
8. Kearon C (2003), "Natural history of venous
thromboembolism", Circulation. 107 (23 Suppl 1), pp. I22-30.
9. Konstantinides S (2008), "Acute Pulmonary Embolism", New
England Journal of Medicine. 359 (26), pp. 2804-2813.
10. Kroegel C, et al (2003), "Principle mechanisms underlying
venous thromboembolism: epidemiology, risk factors,
pathophysiology and pathogenesis", Respiration. 70 (1), pp. 7-
30.
11. Lê Thượng Vũ, Đặng Vạn Phước (2005), "Ứng dụng chụp cắt
lớp điện toán xoắn ốc vào chẩn đoán thuyên tắc phổi", Y học
TP Chí Minh. Tập 9. Phụ bản của số 1, 14.
12. Moser KM, et al (1994), "Frequent asymptomatic pulmonary
embolism in patients with deep venous thrombosis", Jama. 271
(3), pp. 223-225.
13. Nguyễn Thị Hậu, Phan Thanh Lan (2010), "Chẩn đoán và
điều trị thuyên tăc phổi tại bệnh viện Chợ Rẫy", Tim mạch học
Việt Nam, Hội nghị Tim mạch toàn quốc 2010.
14. Phan Thanh Lan, Nguyễn Văn Trí (2014), "Đặc điểm lâm sàng
và cận lâm sàng của thuyên tắc phổi tại bệnh viện Chợ Rẫy”,
Luận văn thạc sĩ y học. Đại học Y dược TP.HCM.".
15. Reechaipichitkul W, et al (2012), Etiologies and treatment of
acute pulmonary embolism at Srinagarind Hospital, Asian
Biomedicine, pp. 111.
16. Stein PD, et al (2005), "Trends in the incidence of pulmonary
embolism and deep venous thrombosis in hospitalized
patients", Am J Cardiol. 95 (12), pp. 1525-1526.
17. Stein PD, et al (2007), "Clinical Characteristics of Patients with
Acute Pulmonary Embolism: Data from PIOPED II", The
American journal of medicine. 120 (10), pp. 871-879.
18. Torbicki A, et al (2008), "Guidelines on the diagnosis and
management of acute pulmonary embolism: the Task Force
for the Diagnosis and Management of Acute Pulmonary
Embolism of the European Society of Cardiology (ESC)", Eur
Heart J. 29 (18), pp. 2276-2315.
19. Wells PS, et al (2000), "Derivation of a simple clinical model to
categorize patients probability of pulmonary embolism:
increasing the models utility with the SimpliRED D-dimer",
Thromb Haemost. 83(3), pp. 416-420.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_cua_benh_nhan_cao_tuoi_thu.pdf