Tài liệu Đặc điểm hình ảnh học bất thường tai trong trên bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cấy ốc tai điện tử: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 211
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH HỌC BẤT THƯỜNG TAI TRONG
TRÊN BỆNH NHÂN CÓ CHỈ ĐỊNH PHẪU THUẬT CẤY ỐC TAI ĐIỆN TỬ
Trần Viết Luân*, Dương Anh Vũ *
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm hình ảnh học bất thường tai trong trên bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang phân tích, thực hiện trên 158 bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử tại Bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 10 năm 2018.
Kết quả: Có 12 trường hợp bất thường giải phẫu tai trong (7,59%): 6 trường hợp phát triển không hoàn
toàn loại 2 (chiếm tỉ lệ cao nhất, 50%), 3 trường hợp cốt hóa ốc tai (25%), 2 trường hợp ốc tai kém phát triển loại
3 (16,67%) và 1 trường hợp phát triển không hoàn toàn loại 3 (8,33%). Các bất thường tiền đình kèm theo bao
gồm 4 trường hợp ống bán khuyên ngang dạng nang (33,...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 149 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh học bất thường tai trong trên bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cấy ốc tai điện tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 211
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH HỌC BẤT THƯỜNG TAI TRONG
TRÊN BỆNH NHÂN CÓ CHỈ ĐỊNH PHẪU THUẬT CẤY ỐC TAI ĐIỆN TỬ
Trần Viết Luân*, Dương Anh Vũ *
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm hình ảnh học bất thường tai trong trên bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang phân tích, thực hiện trên 158 bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử tại Bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 10 năm 2018.
Kết quả: Có 12 trường hợp bất thường giải phẫu tai trong (7,59%): 6 trường hợp phát triển không hoàn
toàn loại 2 (chiếm tỉ lệ cao nhất, 50%), 3 trường hợp cốt hóa ốc tai (25%), 2 trường hợp ốc tai kém phát triển loại
3 (16,67%) và 1 trường hợp phát triển không hoàn toàn loại 3 (8,33%). Các bất thường tiền đình kèm theo bao
gồm 4 trường hợp ống bán khuyên ngang dạng nang (33,33%), 2 trường hợp giãn rộng cống tiền đình (16,67%)
và 1 trường hợp không có cả ba ống bán khuyên (8,33%).
Khi phẫu thuật cấy ốc tai điện tử với bệnh nhân bất thường giải phẫu tai trong, thời gian phẫu thuật sẽ dài
hơn (trung bình 18,5 phút), phẫu thuật viên sẽ gặp khó khăn hơn trong việc xác định cửa sổ tròn và tỉ lệ chảy
dịch não tủy trong lúc phẫu thuật cao hơn (16,67%).
Kết luận: Các bất thường giải phẫu tai trong hiện nay vẫn là một thử thách đối với các phẫu thuật viên khi
phẫu thuật cấy ốc tai điện tử. Việc nắm vững kiến thức về các bất thường này sẽ giúp phẫu thuật viên lập kế
hoạch cho việc phẫu thuật để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Từ khóa: phẫu thuật cấy ốc tai điện tử, bất thường tai trong
ABSTRACT
PREOPERATIVE IMAGING OF THE INNER EAR MALFORMATIONS IN COCHLEAR IMPLANT
CANDIDATES
Tran Viet Luan, Duong Anh Vu
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 211-218
Objective: The aim of this study is to determine the preoperative imaging of the inner ear malformations in
cochlear implant candidates.
Methods: This was a cross-sectional study performed at Ear Nose Throat Hospital of Ho Chi Minh City
from January 2016 to October 2018. 158 cochlear implant candidates were included in this study.
Results: There were 12 patients with inner ear malformations (7.59%): 6 patients with incomplete partition
type II (most commonly, 50%), 3 patients with cochlear ossification (25%), 2 patients with cochlear hypoplasia
type III (16.67%) and 1 patient with incomplete partition type III (8.33%). Labyrinthine malformations were
found in 7 cases including: cystic lateral semicircular canal (4 cases, 33.33%), enlarged vestibular aqueduct (2
cases, 16.67%) and semicircular canal aplasia (1 case, 8.33%). Surgeons spent more time for cochlear
implantation in those inner ear malformations cases, about was 18.5 minutes longer on average, partly due to
difficulty in identifying the round window. The risk of intra-operative cerebrospinal fluid leak was higher
(16.67%) as well.
*Bộ môn Tai Mũi Họng, Trường Đai học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Viết Luân ĐT: 0908137755 Email: luantranviet@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 212
Conclusion: Inner ear malformations remain a challenge to cochlear implant surgeons. Understanding and
experience about such anomalies will aid surgeons in making surgical strategy to obtain an optimal outcome.
Keywords: cochlear implantation, inner ear malformation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghe kém mức độ nặng và điếc sâu
thường ít hoặc không đáp ứng với máy trợ
thính và ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của
trẻ khiếm thính hay người lớn điếc sau ngôn
ngữ. Phẫu thuật cấy ốc tai điện tử là một trong
những tiến bộ mang tính cách mạng được Cục
quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
(FDA) chấp thuận trong điều trị nghe kém
mức độ nặng và điếc sâu.
Hình ảnh học xương thái dương, bao gồm
chụp cắt lớp vi tính (CT-Scan) và chụp cộng
hưởng từ (MRI) đóng một vai trò rất thiết yếu
trước phẫu thuật cấy ốc tai điện tử. Ngoài việc
ảnh hưởng đến chỉ định phẫu thuật, hình ảnh
học xương thái dương còn giúp phẫu thuật viên
xác định các mốc giải phẫu quan trọng (sự rõ
ràng của cửa sổ tròn, đường đi dây thần kinh
mặt, vị trí của lồi tĩnh mạch cảnh,), khảo sát
những bất thường bẩm sinh hoặc mắc phải về
mặt giải phẫu, các bệnh lý ảnh hưởng đến phẫu
thuật, lựa chọn tai để thực hiện phẫu thuật,
đường phẫu thuật để tiếp cận tốt nhất, lựa chọn
loại điện cực phù hợp để cấy. Bên cạnh đó, nó
cũng có giá trị trong việc và tiên lượng được
hiệu quả sau phẫu thuật(12). Chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này để khảo sát đặc điểm hình ảnh
học bất thường tai trong trên bệnh nhân có chỉ
định phẫu thuật cấy ốc tai điện tử.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang phân tích.
Đối tượng nghiên cứu
158 bệnh nhân nghe kém tiếp nhận thần kinh
có chỉ định phẫu thuật cấy ốc tai điện tử tại Bệnh
viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh từ tháng 1
năm 2016 đến tháng 10 năm 2018.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật
cấy ốc tai điện tử được điều trị tại Bệnh viện
Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh trong thời
gian nghiên cứu.
Bệnh nhân được chụp CT-Scan và MRI
xương thái dương tại bệnh viện Tai Mũi Họng
TP. Hồ Chí Minh và Trung tâm Y khoa Hòa Hảo.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có chống chỉ định phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử.
Bệnh nhân không có đủ hỉnh ảnh CT-Scan và
MRI xương thái dương.
Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân được khảo sát tiền căn, các triệu
chứng lâm sàng và làm các xét nghiệm thính
học: đo âm ốc tai, thính lực đồ, nhĩ lượng đồ,
phản xạ cơ bàn đạp, điện thính giác thân não,
nội soi tai mũi họng trước mổ xác định và giải
quyết các bệnh lý vùng tai mũi họng có thể ảnh
hưởng đến phẫu thuật: VA, viêm mũi xoang,
viêm tai giữa,
Bệnh nhân được chụp CT-Scan (với máy
EMONTION 16 hoặc AQUILION ONE 640) và
MRI xương thái dương (với máy SIGNA
EXPLORER 1,5T). Các hình ảnh được dựng theo
các mặt phẳng ngang, đứng ngang và đứng dọc
chếch (với MRI) trên phần mềm eFilm để xác
định các bất thường giải phẫu tai trong.
Sau khi xác định được các bất thường giải
phẫu tai trong, bệnh nhân sẽ được chia thành
hai nhóm:
Nhóm có giải phẫu tai trong bình thường,
Nhóm có giải phẫu tai trong bất thường.
Tất cả bệnh nhân của hai nhóm được phẫu
thuật cấy ốc tai điện tử. Sau phẫu thuật, các bệnh
nhân của hai nhóm được theo dõi trong vòng 7
ngày và xuất viện sau đó nếu tình trạng hoàn
toàn ổn định.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 213
Các biến số thời gian phẫu thuật, những khó
khăn trong quá trình phẫu thuật, biến chứng
trong và sau phẫu thuật được ghi nhận và so
sánh giữa hai nhóm để tìm sự khác biệt.
Các bước khảo sát giải phẫu tai trong trên
CT-Scan xương thái dương: các cấu trúc giải
phẫu tai trong lần lượt được khảo sát ở mặt
phẳng ngang và đứng ngang theo thứ tự sau:
Tiền đình: bình thường 4 – 6mm, giãn rộng
khi đường kính này > 6 mm(15).
Các ống bán khuyên: bình thường khi đường
kính đảo xương 2,6 – 4,8 mm. Ống bán khuyên
ngang kém phát triển khi đường kính này < 2,6
mm. Không có ống bán khuyên khi chỉ có soan
nang và cầu nang mà không có sự lồi ra của ống
bán khuyên. Nang ống bán khuyên khi không có
sự hiện diện của đảo xương(5).
Cống tiền đình: giãn rộng khi có đường kính
≥ 1,5 mm hoặc lớn hơn ống bán khuyên sau trên
mặt phẳng ngang(10).
Ốc tai: bình thường 2,5 – 2,75 vòng, gồm trụ
ốc, mảnh xoắn xương, vách giữa các thang(10).
Ống tai trong: bình thường khi đường kính
trước sau là 2 – 8 mm. Ống tai trong hẹp khi
đường kính này 8 mm(1).
Các bước khảo sát giải phẫu tai trong trên
MRI xương thái dương: các cấu trúc của tai
trong cũng được khảo sát trên các mặt phẳng
theo thứ tự: tiền đình, các ống bán khuyên, cống
tiền đình, ốc tai. Ngoài ra, cấu trúc giải phẫu
quan trọng nhất trên MRI cần được khảo sát đó
là thần kinh ốc tai. Cách xác định dây thần kinh
ốc tai:
Ở mặt phẳng ngang, dây thần kinh nào nhìn
thấy đi vào trụ ốc thì đó là thần kinh ốc tai.
Ở mặt phẳng đứng dọc chếch, thần kinh ốc
tai nằm ở vị trí trước dưới và gần ốc tai nhất.
Thần kinh ốc tai kém phát triển khi đường
kính của thần kinh ốc tai nhỏ hơn đường kính
của các thần kinh còn lại trong ống tai trong.
Không có thần kinh ốc tai khi không xác định
được dây thần kinh ốc tai trong ống tai trong
trên MRI(12).
Các số liệu được thu thập, xử lý và phân tích
theo phần mềm Stata 12. Biến số định lượng
được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch
chuẩn, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất. Biến số
định tính được trình bày dưới dạng tần số, tỉ lệ
%. Chúng tôi dùng kiểm định Chi bình phương
để tìm mối liên hệ giữa hai biến số định tính.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung
Giới: 82 nam (51,9%) và 76 nữ (48,1%).
Tuổi: Tuổi trung bình là 7,74 tuổi với độ lệch
chuẩn là 9,5. Tuổi nhỏ nhất là 1 tuổi, tuổi lớn
nhất là 57 tuổi.
Đặc điểm lâm sàng
Tiền căn: thường gặp nhất là nhiễm Rubella
thai kì (5,06%), sau đó là bất thường bẩm sinh
khác kèm theo (3,8%), sốt phát ban thai kì (3,8%),
điếc đột ngột (2,53%), điều trị tại NICU với
thông khí hỗ trợ (2,53%), viêm màng não (1,9%),
chấn thương đầu (0,63%).
Lâm sàng: các bệnh nhân đến khám vì nghe
kém (96,2%) và chậm nói (3,8%). Không có triệu
chứng thực thể nào gợi ý các hội chứng có liên
quan nghe kém tiếp nhận thần kinh bẩm sinh
(hội chứng CHARGE, Usher)
Đặc điểm thính lực
Theo thời điểm khởi phát: 150 bệnh nhân
nghe kém trước ngôn ngữ (94,94%) và 8 bệnh
nhân nghe kém sau ngôn ngữ (5,06%).
Theo mức độ nghe kém: 155 bệnh nhân điếc
sâu (98,1%) và 3 bệnh nhân nghe kém mức độ
nặng (1,9%).
Đặc điểm hình ảnh học bất thường giải phẫu
tai trong
Bảng 1: Tỉ lệ các bất thường giải phẫu ốc tai
Các bất thường giải phẫu ốc tai Tần số Tỉ lệ (%)
Phát triển không hoàn toàn loại 2 (IP-2) 6 50
Cốt hóa ốc tai 3 25
Ốc tai kém phát triển loại 3 2 16,67
Phát triển không hoàn toàn loại 3 (IP-3) 1 8,33
Tổng 12 100
Có 12 trường hợp bất thường giải phẫu tai
trong, chiếm tỉ lệ 7,59%. 146 bệnh nhân còn lại có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 214
giải phẫu tai trong bình thường.
Theo Wang (2014), cốt hóa ốc tai được chia
thành 4 loại(16).
Loại I: Cốt hóa cửa sổ tròn.
Loại IIa: Cốt hóa từ cửa sổ tròn đến vòng đáy
ốc tai.
Loại IIb: Cốt hóa đến vòng giữa ốc tai.
Loại III: Cốt hóa đến vòng đỉnh ốc tai.
Trong 3 trường hợp cốt hóa ốc tai, có 2
trường hợp cốt hóa ốc tai loại IIb sau viêm màng
não và 1 trường hợp cốt hóa ốc tai loại IIa sau
chấn thương đầu.
Hình 1: Phát triển không hoàn toàn loại 2 (IP-2) trên CT-Scan và MRI T2-W
Hình 2: Cốt hóa ốc tai loại IIb trên CT-Scan.
Hình 3: Ốc tai kém phát triển loại 3 trên CT-Scan
Hình 4: Phát triển không hoàn toàn loại 3 (IP-3) trên
CT-Scan
Bảng 2: Tỉ lệ các bất thường giải phẫu tiền đình kèm
theo
Các bất thường giải phẫu tiền đình
kèm theo
Tần số Tỉ lệ (%)
Ống bán khuyên ngang dạng nang 4 33,33
Giãn rộng cống tiền đình 2 16,67
Không có cả ba ống bán khuyên 1 8,33
Giải phẫu tiền đình bình thường 5 41,67
Tổng 12 100
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 215
Hình 5: Ống bán khuyên ngang dạng nang trên CT-Scan và MRI
Hình 6: Cống tiền đình giãn rộng trên CT-Scan
Những ảnh hưởng của bất thường tai trong đối
với phẫu thuật cấy ốc tai điện tử
Thời gian phẫu thuật
Nhóm tai trong bình thường (146 bệnh
nhân): 13 bệnh nhân được phẫu thuật hai bên tai
với thời gian trung bình là 264,23 phút và 133
bệnh nhân được phẫu thuật một bên tai với thời
gian trung bình là 131,92 phút.
Nhóm tai trong bất thường (12 bệnh nhân):
tất cả đều được phẫu thuật một bên tai với thời
gian trung bình là 150,42 phút.
Bất thường cửa sổ tròn
Trong nhóm tai trong bất thường có:
3 trường hợp cốt hóa ốc tai bị cốt hóa cửa
sổ tròn.
1 trường hợp ốc tai kém phát triển loại 3
không xác định được cửa sổ tròn sau khi mở
rộng tối đa ngách mặt.
Biến chứng
Nhóm tai trong bình thường: 2 trường hợp
liệt mặt ngoại biên thoáng qua (1,37%). Đây là
biến chứng nhẹ (theo Cohen).
Nhóm tai trong bất thường: 1 trường hợp IP-
2 và 1 trường hợp IP-3 bị chảy dịch não tủy từ lỗ
mở ốc tai ngay sau khi mở ốc tai (16,67%). Đây là
biến chứng nặng (theo Cohen).
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng
Tiền căn: nhiễm Rubella thai kì là yếu tố tiền
căn thường gặp nhất (5,06%).
Lâm sàng: Nghe kém (96,2%) và chậm nói
(3,8%) là 2 lý do đến khám chủ yếu.
Đặc điểm thính lực
Đa số bệnh nhân thuộc loại nghe kém trước
ngôn ngữ (94,94%) và bị điếc sâu (98,1%). Tỉ lệ
này không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với nghiên cứu của tác giả Lê Trần Quang Minh
(2015)(8) (p > 0,05).
Đặc điểm hình ảnh học bất thường giải phẫu
tai trong
Bảng 3: So sánh tỉ lệ bất thường giải phẫu tai trong
Nghiên cứu Cỡ mẫu Tỉ lệ (%) Giá trị P
Chúng tôi 158 7,59
P > 0,05 Lê Trần Quang Minh (2015) 54 3,7
Adibelli (2017) 440 9,77
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỉ lệ bất
thường giải phẫu tai trong là 7,59%, không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiên cứu
của tác giả Lê Trần Quang Minh (2015)(8) và
Adibelli (2017)(1) (p > 0,05).
Bảng 4: So sánh tỉ lệ phát triển không hoàn toàn loại
2 (IP-2)
Nghiên cứu Cỡ mẫu Tỉ lệ IP-2 (%) Giá trị P
Chúng tôi 12 50
P > 0,05
Neil (2009) 10 50
IP-2 là bất thường thường gặp nhất trong
nghiên cứu của Neil (2009)(2). IP-2 cũng là bất
thường thường gặp nhất trong nghiên cứu của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 216
chúng tôi (6 trường hợp, 50%), tỉ lệ này không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiên
cứu của Neil (p > 0,05).
Viêm màng não là nguyên nhân gây cốt hóa
ốc tai thường gặp nhất. Nhiễm trùng sẽ đi vào ốc
tai từ khoang dưới nhện qua cống ốc tai vào
thang nhĩ gần màng cửa sổ tròn. Nhiễm trùng
lan từ phần đáy ốc tai về phía đỉnh ốc tai, gây cốt
hóa ốc tai và phá hủy các cấu trúc bên trong ốc
tai, quan trọng nhất là cơ quan Corti, dẫn đến
tình trạng nghe kém, thường là điếc sâu và
không hồi phục(4,9).
Trong thời kì phôi thai, ống bán khuyên trên
phát triển đầu tiên trong ba ống bán khuyên, sau
đó là ống bán khuyên sau, sau cùng là ống bán
khuyên ngang. Vì vậy, bất thường ống bán
khuyên trên và ống bán khuyên sau thường đi
kèm với bất thường ống bán khuyên ngang.
Trong khi đó, bất thường duy nhất ống bán
khuyên ngang có thể xảy ra và là dạng bất
thường ống bán khuyên thường gặp nhất(11).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bất thường ống
bán khuyên ngang cũng là bất thường ống bán
khuyên thường gặp nhất.
Cống tiền đình là một ống nhỏ đi từ tiền
đình đến hố sọ sau, chứa túi nội dịch và ống nội
dịch. Trong thời kì phôi thai, cống tiền đình
được hình thành vào tuần thứ 5 thai kì do sự hẹp
lại của túi thừa tiền đình. Cống tiền đình giãn
rộng do túi thừa tiền đình không hẹp lại(3). Một
điều cần lưu ý đối với những trường hợp có
cống tiền đình giãn rộng là nguy cơ chảy dịch
não tủy khi mở vào ốc tai.
Những ảnh hưởng của bất thường tai trong đối
với phẫu thuật cấy ốc tai điện tử
Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật một bên tai của nhóm
tai trong bất thường dài hơn 18,5 phút so với
nhóm tai trong bình thường, sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (p < 0,05), do quá trình phẫu
thuật đối với nhóm tai trong bất thường sẽ gặp
khó khăn hơn trong việc tìm đường vào ốc tai và
đặt điện cực.
Bất thường cửa sổ tròn
Bất thường cửa sổ tròn trong nhóm tai trong
bất thường cao hơn nhóm tai trong bình thường,
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê giữa 2
nhóm (p < 0,0001).
Những khó khăn khi phẫu thuật với các
trường hợp bất thường tai trong
Với IP-2, ốc tai và tiền đình gần như bình
thường. Tuy nhiên, chảy dịch não tủy có thể
xảy ra trong quá trình phẫu thuật vì trụ ốc bị
khiếm khuyết ở vòng giữa và vòng đỉnh. Do
đó, tác giả Kaga Kimitaka (2017) đã khuyến
cáo rằng lỗ mở ốc tai nên được bít kín một
cách hiệu quả để tránh nguy cơ viêm màng
não. Vì trụ ốc và ốc tai ở vòng đáy bình
thường nên tất cả các loại điện cực (điện cực
cong và thẳng) đều có thể được lựa chọn(7).
Với cốt hóa ốc tai: hiện nay không còn là
chống chỉ định tuyệt đối của phẫu thuật cấy ốc
tai điện tử. Tuy nhiên, phẫu thuật viên cần đánh
giá mức độ cốt hóa để quyết định hướng điều trị
phù hợp và bệnh nhân cũng nên được chụp lại
phim CT-Scan xương thái dương ngay trước
phẫu thuật, vì diễn tiến của quá trình cốt hóa ốc
tai là không thể dự đoán được(6,17).
Cốt hóa ốc tai loại I, IIa: Zhu (2008) đã
khuyến cáo nên khoan mở ốc tai từ vùng cửa sổ
tròn, cách cửa sổ bầu dục 3,74mm, khoan vào
vòng đáy ốc tai hướng về vòng giữa đến khi nào
thấy được vùng ốc tai không bị cốt hóa và điện
cực được đặt vào vị trí này.
Cốt hóa ốc tai loại IIb: Isaacson (2008) đã
khuyến cáo nên khoan mở vòng giữa ở vị trí 2-
3mm trước cửa sổ bầu dục, ngay dưới ống cơ
căng màng nhĩ để đặt điện cực.
Cốt hóa ốc tai loại III: chỉ định cấy điện cực
thân não.
Theo Sanna (2016), với cốt hóa ốc tai, điện
cực có đường kính nhỏ và có stylet nên được sử
dụng để tăng cường lực đẩy vào trong ốc tai và
giúp cho quá trình đặt điện cực được dễ dàng
hơn. Ngoài ra, những nguy cơ trong phẫu thuật
mà phẫu thuật viên cần chú ý là(9):
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 217
Chấn thương trụ ốc và mảnh xoắn xương
trong quá trình khoan mở ốc tai.
Tổn thương động mạch cảnh trong, đây là
một biến chứng nguy hiểm vì động mạch cảnh
trong nằm rất gần phía trước của vòng đáy ốc tai.
Điện cực đặt không đúng vị trí.
Tổn thương dây thần kinh mặt.
Nguy cơ viêm màng não do ốc tai bị khoan
rộng đến vòng giữa.
Với ốc tai kém phát triển: bất thường giải
phẫu thần kinh mặt có thể xảy ra và ụ nhô có thể
không nhô ra như bình thường. Các bất thường
này làm cho phẫu thuật viên có thể khó xác định
được cửa sổ tròn khi mở rộng ngách mặt. Ốc tai
trong trường hợp này có kích thước nhỏ hơn
bình thường và có ít hơn 2,5 vòng. Vì vậy, Kaga
Kimitaka (2017) đã khuyến cáo phẫu thuật viên
nên lựa chọn loại điện cực ngắn với đường kính
nhỏ để đặt được hết vào trong ốc tai(7).
Với IP-3, vì không có trụ ốc nên tác giả Kaga
Kimitaka (2017) đã lưu ý 2 vấn đề mà phẫu thuật
viên có thể gặp trong quá trình phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử là(7):
Chảy dịch não tủy: rất thường xảy ra vì có sự
thông thương giữa ốc tai và ống tai trong. Nếu
không được bít kín hiệu quả, tình trạng chảy
dịch não tủy rất dễ tiếp tục xảy ra sau phẫu
thuật và làm tăng nguy cơ viêm màng não.
Điện cực đi vào ống tai trong: vì không có
trụ ốc và có sự thông thương giữa ốc tai với ống
tai trong, điện cực được đặt vào ốc tai có thể đi
vào ống tai trong. Loại điện cực dài sẽ dễ đi vào
ống tai trong hơn loại điện cực ngắn. Vì vậy,
điện cực thẳng với chiều dài ngắn nên được lựa
chọn đối với những trường hợp IP-3. Ngoài ra,
vị trí của điện cực nên được kiểm tra bằng X-
quang trong lúc phẫu thuật, nếu điện cực đi vào
ống tai trong thì phẫu thuật viên sẽ chỉnh lại vị
trí của điện cực ngay trong lúc phẫu thuật.
Biến chứng
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tỉ lệ biến chứng nhẹ giữa hai nhóm tai trong bình
thường và tai trong bất thường (p > 0,05). Tuy
nhiên, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ
biến chứng nặng giữa hai nhóm này (p < 0,0001).
Bảng 5: So sánh tỉ lệ biến chứng chảy dịch não tủy
Nghiên cứu
Số bệnh nhân
bất thường giải
phẫu tai trong
Biến chứng
chảy dịch
não tủy
Tỉ lệ %
Giá trị
P
Chúng tôi 12 2 16,67
> 0,05 Neil (2009) 10 5 50
Sun (2017) 96 9 9,38
Khi so sánh tỉ lệ biến chứng chảy dịch não
tủy đối với những trường hợp có bất thường
giải phẫu tai trong với các nghiên cứu khác
trên thế giới, chúng tôi ghi nhận không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ chảy dịch
não tủy trong nghiên cứu của chúng tôi so với
các nghiên cứu của tác giả Neil (2009)(2) và Sun
(2017)(14) (p > 0,05).
Những bệnh nhân có bất thường giải phẫu
tai trong sẽ có nguy cơ bị chảy dịch não tủy cao
hơn những bệnh nhân có giải phẫu tai trong
bình thường. Chảy dịch não tủy được cho là do
sự khiếm khuyết mảnh xương ở phần ngoài ống
tai trong ngăn cách ống tai trong và ốc tai. Ngoài
ra, chảy dịch não tủy còn có thể do điện cực
được đặt vào ống tai trong.
Khi gặp biến chứng chảy dịch não tủy,
Sennaroglu (2010) đã khuyến cáo phẫu thuật
viên nên nâng đầu bệnh nhân, khoan rộng lỗ
mở ốc tai hơn, dùng một tay đặt ống hút cạnh
lỗ mở ốc tai, tay còn lại đặt điện cực vào ốc tai
và bịt kín lỗ mở ốc tai bằng cân cơ thái dương
hoặc keo sinh học(13). Hiếm khi gặp trường hợp
chảy dịch não tủy nhiều đến mức cần phải đặt
dẫn lưu thắt lưng.
KẾT LUẬN
Các bất thường giải phẫu tai trong hiện nay
vẫn là một thử thách đối với các phẫu thuật viên
khi phẫu thuật cấy ốc tai điện tử. Nghiên cứu
của chúng tôi ghi nhận có 12 trường hợp bất
thường giải phẫu tai trong (7,59%), trong đó,
phát triển không hoàn toàn loại 2 là bất thường
thường gặp nhất (6 trường hợp, 50%). Đối với
các trường hợp bất thường giải phẫu tai trong,
thời gian phẫu thuật sẽ dài hơn (trung bình 18,5
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 218
phút), phẫu thuật viên sẽ gặp khó khăn hơn
trong việc xác định cửa sổ tròn và tỉ lệ chảy dịch
não tủy trong lúc phẫu thuật cao hơn (16,67%).
Nắm vững kiến thức về các bất thường này sẽ
giúp các phẫu thuật viên lập kế hoạch cho việc
phẫu thuật để đạt được hiệu quả tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adibelli ZH, Isayeva L, Koc AM et al (2017). "The new
classification system for inner ear malformations: the INCAV
system". Acta Otolaryngol, 137(3):pp.246-252.
2. Chadha NK, James AL, Gordon KA et al (2009). "Bilateral
cochlear implantation in children with anomalous
cochleovestibular anatomy". Arch Otolaryngol Head Neck Surg,
135(9):pp.903-9.
3. Claros P, Fokouo JV, Claros A (2017). "Cochlear implantation in
patients with enlarged vestibular aqueduct. A case series with
literature review". Cochlear Implants Int, 18(3):pp.125-129.
4. Đặng Xuân Hùng, Huỳnh Khắc Cường (2018). “Hình ảnh giải
phẫu xương thái dương, Hình ảnh tai xương chũm”. Nhà xuất
bản Y học, pp.10-26.
5. Huang BY, Zdanski C, Castillo M (2012). "Pediatric
sensorineural hearing loss, part 1: Practical aspects for
neuroradiologists". AJNR Am J Neuroradiol, 33(2):pp.211-7.
6. Isaacson B, Roland PS., Wright CG (2008). "Anatomy of the
middle-turn cochleostomy". Laryngoscope, 118(12):pp.2200-4.
7. Kimitaka K (2017). “Classifcation of Inner Ear Malformations,
Cochlear Implantation in Children with Inner Ear Malformation
and Cochlear Nerve Deficiency, Levent Sennaroglu, Münir
Demir Bajin, Editors”. Springer, pp.61-86.
8. Lê Trần Quang Minh (2015). "Nghiên cứu phẫu thuật cấy ốc tai
điện tử loại đa kênh". Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh.
9. Mario S, Rolien F, Paul M et al (2016). “Cochlear Implantation in
Cochlear Ossification, Surgery for Cochlear and Other Auditory
Implants”. Thieme, pp.179-194.
10. Mario S, Rolien F, Paul M et al (2016). “Radiology in Auditory
Implantation, Surgery for Cochlear and Other Auditory
Implants”. Thieme, pp. 28-42.
11. Michel G, Espitalier F, Delemazure AS et al (2016). "Isolated
lateral semicircular canal aplasia: Functional consequences". Eur
Ann Otorhinolaryngol Head Neck Dis, 133(3):pp.199-201.
12. Peng KA, Kuan EC, Hagan S et al (2017). "Cochlear Nerve
Aplasia and Hypoplasia: Predictors of Cochlear Implant
Success". Otolaryngol Head Neck Surg, 157(3):pp. 392-400.
13. Sennaroglu L (2010). "Cochlear implantation in inner ear
malformations--a review article". Cochlear Implants Int,
11(1):pp.4-41.
14. Sun SP, Lu W, Men XM et al (2017). "Possible reasons for
cerebrospinal fluid gusher in cochlear implantation with inner
ear abnormality". Zhonghua Er Bi Yan Hou Tou Jing Wai Ke Za
Zhi, 52(4):pp.283-286.
15. Swartz JD, Loevner LA (2009). “The Inner Ear and
Otodystrophies, Imaging of the Temporal Bone”. Thieme,
pp.298-411.
16. Wang L, Zhang D (2014). "Surgical methods and postoperative
results of cochlear implantation in 79 cases of ossified cochlea".
Acta Otolaryngol, 134(12):pp. 1219-24.
17. Zhu Y, Tong B, Xu S et al (2008). "Applied anatomy of operation
through posterior tympanum approach". Lin Chung Er Bi Yan
Hou Tou Jing Wai Ke Za Zhi, 22(19):pp.867-70.
Ngày nhận bài báo: 14/01/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/02/2019
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_hinh_anh_hoc_bat_thuong_tai_trong_tren_benh_nhan_co.pdf