Tài liệu Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của rò động-tĩnh mạch màng cứng nội sọ: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 22
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ
CỦA RÒ ĐỘNG-TĨNH MẠCH MÀNG CỨNG NỘI SỌ
Bùi Thị Song Hạnh*, Đỗ Hải Thanh Anh**, Phạm Ngọc Hoa***
TÓM TẮT
Mở đầu: Chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA) luôn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và đánh giá rò
động-tĩnh mạch màng cứng nội sọ (DAVFs). Tuy nhiên hiện nay MRI đã được nhiều nghiên cứu cho thấy là một
phương tiện chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn có giá trị trong gợi ý chẩn đoán và đánh giá DAVFs cũng như
tổn thương nhu mô não đi kèm.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm hình ảnh MRI của DAVFs nội sọ và vai trò của MRI trong chẩn
đoán và đánh giá DAVFs nội sọ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả báo cáo loạt ca 59 bệnh nhân được chẩn đoán DAVFs nội
sọ trên DSA và có chụp MRI trước can thiệp tại bệnh viện Đại học Y dược từ 1/2013-8/2018. Khảo sát MRI
bằng máy từ trường cao 1,5 Tesla và 3 Tesla trên các chuỗi xung TOF 3D, CE-MRA ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của rò động-tĩnh mạch màng cứng nội sọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 22
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ
CỦA RÒ ĐỘNG-TĨNH MẠCH MÀNG CỨNG NỘI SỌ
Bùi Thị Song Hạnh*, Đỗ Hải Thanh Anh**, Phạm Ngọc Hoa***
TÓM TẮT
Mở đầu: Chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA) luôn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và đánh giá rò
động-tĩnh mạch màng cứng nội sọ (DAVFs). Tuy nhiên hiện nay MRI đã được nhiều nghiên cứu cho thấy là một
phương tiện chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn có giá trị trong gợi ý chẩn đoán và đánh giá DAVFs cũng như
tổn thương nhu mô não đi kèm.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm hình ảnh MRI của DAVFs nội sọ và vai trò của MRI trong chẩn
đoán và đánh giá DAVFs nội sọ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả báo cáo loạt ca 59 bệnh nhân được chẩn đoán DAVFs nội
sọ trên DSA và có chụp MRI trước can thiệp tại bệnh viện Đại học Y dược từ 1/2013-8/2018. Khảo sát MRI
bằng máy từ trường cao 1,5 Tesla và 3 Tesla trên các chuỗi xung TOF 3D, CE-MRA và time-resolved CE-MRA,
SWI, T2W, T1 3D CE. Mô tả các đặc điểm hình ảnh MRI của DAVFs trên các chuỗi xung và đánh giá vai trò
của từng chuỗi xung trong chẩn đoán DAVFs, xác định vi trí và kiểu dẫn lưu tĩnh mạch.
Kết quả: Giá trị chẩn đoán DAVFs của các chuỗi xung TOF 3D, CE-MRA, time-resolved CE-MRA
(TWIST), SWI, T2W, T1 3D CE lần lượt là: 90%, 96%, 100%, 88% (ngoài xoang hang), 32% và 39%. Trong
xác định vị trí DAVFs, TOF 3D, CE-MRA và time-resolved CE-MRA (TWIST) có độ đồng thuận rất mạnh với
DSA (k lần lượt = 0,83; 0,86; 1). Trong phân loại kiểu dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não theo Cognard, MRI thường qui
có độ đồng thuận mạnh trong khi chuỗi xung time-resolved CE-MRA có độ đồng thuận rất mạnh với DSA (k lần
lượt = 0,71 và 0,88).
Kết luận: Tuy DSA vẫn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và đánh giá DAVFs, MRI là phương tiện chẩn
đoán hình ảnh không xâm lấn có giá trị cao trong chẩn đoán, xác định vị trí và kiểu dẫn lưu tĩnh mạch của
DAVFs, cũng như những tổn thương nhu mô não đi kèm.
Từ khóa: DAVFs, dấu hiệu hình ảnh MRI của DAVFs, time-resolved CE-MRA trong DAVFs, SWI trong
phát hiện thông nối động tĩnh mạch
ABSTRACT
MAGNETIC RESONNANCE FINDINGS OF INTRACRANIAL DURAL ARTERIOVENOUS FISTULAS
Bui Thi Song Hanh, Do Hai Thanh Anh, Pham Ngoc Hoa
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 22-28
Background: Digital subtraction angiography (DSA) is always considered as the gold standard in diagnosis
and evaluation Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas (DAVFs). However, nowadays many studies has
proven that MRI is a valuable non-invasive technique in detection and evaluation of DAVFs as well as the brain
lesion caused by the shunt.
Purpose: Describe MRI findings of intracranial DAVFs and MRI role in detection and evaluation of
intracranial DAVFs.
Materials and methods: A case series of 59 patients diagnosed with intracranial DAVFs by DSA and
*BM Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Hội Chẩn Đoán Hình Ảnh TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Bùi Thị Song Hạnh ĐT: 0909147523 Email: drsonghanh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 23
underwent MRI examinations before intervention in University Medical Center from 1/2013 to 8/2018. The
patients were evaluated by 1.5 Tesla and 3 Tesla magnetic field with TOF 3D, CE-MRA, time-resolved CE-
MRA, SWI, T2W and T1 3D CE. Describe MRI findings of intracranial DAVFs on each sequences and
calculate the role of each sequences in detection and localization of DAVFs, as well as in identification the
venous drainage patterns.
Results: TOF 3D, CE-MRA, time-resolved CE-MRA (TWIST), SWI, T2W, T1 3D CE detect
intracranial DAVFs by 90%, 96%, 100%, 88% (exclude the cavernous sinus), 32% and 39% consecutively.
About fistula site, TOF 3D, CE-MRA and time-resolved CE-MRA (TWIST) all have excellent intermodality
agreements with DSA (k = 0.83; 0.86; 1 consecutively). In identification venous drainage patterns,
convetional MRI has good agreements with DSA while time-resolved CE-MRA has excellent agreements (k
= 0.71 và 0.88 by consecutively).
Conclusion: DSA remains as the gold standard for diagnosis and evaluation intracranial DAVFs. However
MRI is a non-invasive imaging technique with high value in detection, localization and identification venous
drainage patterns of intracranial DAVFs, as well as the brain damage.
Key words: DAVFs, MRI findings of DAVFs, radiological patterns of intracranial DAVFs, time-resolved
CE-MRA in DAVFs, SWI in high-flow detection.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rò động-tĩnh mạch màng cứng nội sọ
(Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas:
DAVFs) là sự thông nối bất thường giữa các
nhánh động mạch màng cứng với các xoang tĩnh
mạch màng cứng và/hoặc các tĩnh mạch vỏ não.
DAVFs chiếm khoảng 10-15% các trường hợp
bất thường động-tĩnh mạch não(10,14). DAVFs gây
ứ trệ tuần hoàn tĩnh mạch bị rò và từ đó gây ra
triệu chứng của các cơ quan mà tĩnh mạch đó
dẫn lưu. Lâm sàng DAVFs có thể thay đổi từ
hoàn toàn không triệu chứng hoặc gây xuất
huyết nặng đe dọa tính mạng. Vì vậy việc chẩn
đoán và đánh giá DAVFs là hết sức cần thiết.
Cho đến nay chụp mạch máu số hóa xóa nền
(Digital subtraction angiography: DSA) là tiêu
chuẩn vàng trong chẩn đoán và đánh giá
DAVFs. Tuy nhiên đây là một kĩ thuật xâm lấn,
có thể gây ra những biến chứng thần kinh
nghiêm trọng. Bệnh nhân còn phải phơi nhiễm
với một lượng lớn tia X. Vì vậy việc chọn lọc
bệnh nhân cho thủ thuật DSA là rất quan trọng,
tránh cho bệnh nhân một cuộc chụp DSA không
cần thiết. Hơn nữa, DSA không thể đánh giá
được thương tổn nhu mô não, một trong những
yếu tố quan trọng để quyết định điều trị. Cộng
hưởng từ sọ não (Magnetic resonance imaging:
MRI) có thể khảo sát hệ thống mạch máu não và
đặc biệt là các tổn thương nhu mô não đi kèm, là
phương tiện chẩn đoán hình ảnh được lựa chọn.
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều nghiên
cứu về hình ảnh MRI trong DAVFs, tuy nhiên
các nghiên cứu này chỉ khảo sát hình ảnh MRI
trên một hoặc hai kỹ thuật. Tại Việt Nam cho
đến thời điểm này chưa có công trình nghiên
cứu nào về cộng hưởng từ rò động tĩnh mạch
màng cứng nội sọ. Trên cơ sở đó chúng tôi tiến
hành nghiên cứu “Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng
hưởng từ của rò động tĩnh mạch màng cứng nội
sọ” với mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh
cộng hưởng từ của rò động-tĩnh mạch màng
cứng nội sọ, đồng thời đánh giá vai trò của
cộng hưởng từ trong chẩn đoán rò động-tĩnh
mạch màng cứng nội sọ, xác định vị trí rò và
kiểu dẫn lưu tĩnh mạch.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả báo cáo loạt ca.
Dối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân được chẩn đoán DAVFs
nội sọ trên DSA và có chụp MRI trước can
thiệp tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí
Minh từ 1/2013-8/2018, loại trừ những bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 24
nhân có tổn thương mạch máu nội sọ khác đi
kèm hoặc có tiền căn can thiệp mạch máu nội sọ.
Phương tiện nghiên cứu
Khảo sát MRI bằng máy từ trường cao 1,5
Tesla và 3 Tesla trên các chuỗi xung TOF 3D, CE-
MRA và time-resolved CE-MRA, SWI, T2W, T1
3D CE.
Sơ đồ nghiên cứu
1. Phòng DSA: Hồi cứu các bệnh nhân đã
được chẩn đoán DAVFs từ 1/1/2013-31/07/2018
tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
2. Phòng hồ sơ: Thu thập thông tin từ hồ sơ
bệnh án. Chọn những bệnh nhân có chụp MRI
trước can thiệp và thỏa tiêu chí chọn mẫu.
3. Phòng đọc phim: Thu thập dữ liệu hình
ảnh MRI từ hệ thống PACS, đĩa CD lưu trữ.
4. Phân tích số liệu: Số liệu được thu thập
bằng bảng thu thập số liệu, nhập và xử lý số liệu
bằng phần mềm SPSS 20. Xác định mối liên quan
bằng phép kiểm Chi bình phương. Nếu có trên
20% số các giá trị vọng trị < 5 hoặc có giá trị vọng
trị <1 thì dùng phép kiểm chính xác Fisher. Tính
độ đồng thuận giữa hai kỹ thuật chẩn đoán bằng
giá trị kappa. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê
nếu p<0,05.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu hồi cứu trong thời gian từ năm
2013 đến năm 2018, chúng tôi thu thập 59 trường
hợp DAVFs được chẩn đoán tại bệnh viện Đại
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh thỏa các tiêu
chuẩn nghiên cứu. Qua thu thập và phân tích dữ
liệu được, chúng tôi thu được các kết quả được
trình bày dưới đây.
Phân tích hình ảnh TOF 3D trên 59 bệnh
nhân ghi nhận các dấu hiệu: đường hoặc nốt tín
hiệu cao sát thành cấu trúc tĩnh mạch và tăng tín
hiệu trong cấu trúc tĩnh mạch. Mỗi dấu hiệu
chẩn đoán lần lượt hiện diện trong 81,36% và
89,83% số bệnh nhân, cả hai dấu hiệu đều trên
80%. Toàn bộ các trường hợp có đường cong
hoặc nốt tín hiệu cao đều có tăng tín hiệu trong
cấu trúc tĩnh mạch, trong khi có 5 trường hợp có
tăng tín hiệu trong cấu trúc tĩnh mạch mà không
thấy các đường cong hoặc nốt tín hiệu cao. Vì
vậy tỉ lệ chẩn đoán DAVFs của chuỗi xung TOF
3D trong nghiên cứu là 89,83%, cũng chính là tỉ
lệ chẩn đoán của dấu hiệu tăng tín hiệu trong
cấu trúc tĩnh mạch. Có 6 bệnh nhân chuỗi xung
TOF 3D không thể phát hiện bất cứ DAVFs nào.
Trong 28 ca được chụp CE-MRA đúng thì,
dấu hiệu cấu trúc tĩnh mạch bắt thuốc sớm trên
thì động mạch gợi ý chẩn đoán DAVFs.
Qua 44 ca được chụp với chuỗi xung SWI
ghi nhận 2 dấu hiệu: tăng tín hiệu trong cấu trúc
tĩnh mạch hoặc sung huyết tĩnh mạch vỏ não.
Dấu hiệu sung huyết nhạy hơn và dấu hiệu tăng
tín hiệu đặc hiệu hơn trong chẩn đoán dẫn lưu
tĩnh mạch vỏ não.
Các dấu hiệu gợi ý DAVFs trên hình T2W ở
59 ca là các flow-voids bất thường của tĩnh mạch
vỏ não, chỉ gặp trong trường hợp có dẫn lưu tĩnh
mạch vỏ não và trên hình T1 3D CE là các tĩnh
mạch vỏ não ngoằn nghoèo, tăng về kích thước
hoặc số lượng.
Bảng 1: Tóm tắt giá trị của từng chuỗi xung MRI trong chẩn đoán, xác định vị trí của kiểu dẫn lưu tĩnh mạch
của DAVFs
Tên xung
Chẩn đoán (Theo từng
bệnh nhân)
Đồng thuận với DSA
trong xác định vị trí rò
Phát hiện dẫn lưu tĩnh
mạch vỏ não
Đồng thuận với DSA trong
phân type dẫn lưu tĩnh mạch
(Borden và Cognard)
TOF 3D 90% Rất mạnh k = 0,83 Sens = 64%, Spec = 100%
0,81 và 0,71
CE-MRA 96% Rất mạnh k = 0,86 Sens = 77%, Spec = 93%
SWI 88% (ngoài xoang hang) Sens = 90%, Spec = 91%
T2W 32% Sens = 73%, Spec = 100%
T1 Vibe 3D 39% Sens = 81%, Spec = 94%
TWIST 100% Rất mạnh k = 1 Sens = 100%, Spec = 94% 0,91 và 0,88
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 25
Đối với 23 ca được chụp với chuỗi xung
time-resolved CE-MRA (TWIST): cấu trúc tĩnh
mạch bắt thuốc sớm trên thì động mạch.
TWIST có độ phân giải thời gian cao và chụp
liên tục nên có thể đánh giá chiều lưu thông
của dòng máu, giúp chẩn đoán và đánh giá
DAVFs chính xác hơn.
BÀN LUẬN
Chuỗi xung TOF 3D
Về tỉ lệ chẩn đoán DAVFs của từng dấu
hiệu trên TOF 3D, kết quả của chúng tôi có
chút thay đổi so với nghiên cứu của Noguchi
(n=15)(12) và của Meckel (n=12)(8). Cả hai nghiên
cứu này đều ghi nhận dấu hiệu đường cong
hoặc nốt tín hiệu cao sát thành một cấu trúc
tĩnh mạch xuất hiện nhiều hơn dấu hiệu tăng
tín hiệu trong cấu trúc tĩnh mạch, trong khi
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận ngược lại.
Chúng tôi nhận thấy dấu hiệu đường cong
hoặc nốt tín hiệu cao khó ghi nhận trong
những trường hợp rò trực tiếp vào tĩnh mạch
vỏ não hoặc rò vùng xoang hang. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, những trường hợp
không ghi nhận được dấu hiệu này phần lớn là
rò vùng xoang hang (4 trường hợp) hoặc rò
trực tiếp vào tĩnh mạch vỏ não (4 trường hợp).
Nghiên cứu của Noguchi không thực hiện trên
bệnh nhân rò xoang hang hoặc rò trực tiếp vào
tĩnh mạch vỏ não, nghiên cứu của Meckel
cũng không thực hiện trên bệnh nhân rò xoang
hang. Có lẽ chính điều này cộng với cỡ mẫu
khác nhau dẫn đến sự khác biệt về tỉ lệ xuất
hiện dấu hiệu nói trên. Tỉ lệ chẩn đoán DAVFs
trên TOF 3D của chúng tôi tương đồng với tác
giả Meckel, thấp hơn so với tác giả Noguchi và
Azuma. Nghiên cứu của Minako Azuma (n =
26)(1) và Noguchi cho thấy tỉ lệ chẩn đoán của
chuỗi xung TOF lên đến 100%. Điều này khả
năng do trong hai nghiên cứu này chuỗi xung
TOF 3D được quét từ lỗ chẩm đến hết não,
trong khi nghiên cứu của chúng tôi và Meckel
chỉ quét đến trần não thất.
Trong 58 DAVFs được phát hiện, chuỗi
xung TOF 3D xác định đúng vị trí rò trong
54/59 trường hợp, tương ứng 91,53%, chỉ số
kappa là 0,83 (0,77–0,89) cho thấy mức độ
đồng thuận rất mạnh giữa chuỗi xung TOF 3D
và DSA trong xác định vị trí DAVFs. Tỉ lệ xác
định đúng vị trí DAVFs của chúng tôi khá
tương đồng với nghiên cứu của Chen (n=7)(2)
và Azuma (n=26)(1), khác biệt với nghiên cứu
của Meckel (n=7). Nghiên cứu của Meckel có tỉ
lệ chẩn đoán đúng vị trí rò thấp chỉ có 57%.
Điều này có khả năng do Meckel chia vị trí rò
chi tiết hơn, như chia rõ rò ở xoang ngang,
xoang sigma, tĩnh mạch cảnh, trong khi trong
nghiên cứu của chúng tôi những vị trí này đều
xét chung là rò xoang ngang – sigma.
Vai trò của chuỗi xung TOF 3D trong chẩn
đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não rất khác nhau
trong các nghiên cứu. Trong nghiên cứu của
chúng tôi (n = 59), chuỗi xung TOF 3D có độ
nhạy 62% và độ đặc hiệu 100%. Trong nghiên
cứu của Noguchi (n = 15) có 5 bệnh nhân có dẫn
lưu vào tĩnh mạch vỏ não, TOF 3D không phát
hiện được ca nào. Trong khi nghiên cứu của
Minako TOF 3D chẩn đoán được dẫn lưu tĩnh
mạch vỏ não ở 16/16 bệnh nhân tương đương
100%. Độ đặc hiệu của chuỗi xung TOF 3D cũng
giống nhau ở cả 2 nghiên cứu đều đạt 100%.
Nghiên cứu của Noguchi không phát hiện được
dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não khả năng do trong
nghiên cứu không có rò Borden type III. Trong
type này vì DAVFs là thông nối trực tiếp giữa
động mạch và tĩnh mạch vỏ não nên vận tốc
trong các tĩnh mạch sẽ nhanh hơn, dễ hiện hình
trên TOF hơn khi trào ngược từ xoang tĩnh
mạch. Trong nghiên cứu của chúng tôi TOF 3D
ghi nhận dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não ở 5/7 bệnh
nhân Borden type III, trong khi chỉ ghi nhận ở
11/19 ca Borden type II. Nghiên cứu của Minako
có tỉ lệ phát hiện cao khả năng cũng do trường
quét phủ hết não, tăng khả năng chẩn đoán dẫn
lưu tĩnh mạch vỏ não ở vùng xoang dọc trên.
Chuỗi xung CE-MRA
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 28 bệnh
nhân được chụp đúng thì. CE-MRA chẩn đoán
được DAVFs ở 27/28 trường hợp, chiếm tỉ lệ 96%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 26
Trong những DAVFs được phát hiện, CE-
MRA chẩn đoán đúng vị trí 28/30 DAVF tương
ứng tỉ lệ 93%, giá trị kappa là 0,86 cho thấy
mức độ đồng thuận rất mạnh giữa CE-MRA
và DSA trong chẩn đoán vị trí DAVFs. Kết quả
này cao hơn so với kết quả của Cohen SD
(n=26)(3) cho thấy CE-MRA first pass có độ
nhạy là 50%. Khác biệt này khả năng do trong
nghiên cứu của Samuel có cả những ca CE-
MRA chụp muộn khi thuốc đã vào các xoang
tĩnh mạch. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
nếu được chụp đúng thì, giá trị chẩn đoán và
đánh giá DAVFs của CE-MRA rất cao. Hiện
chúng tôi chưa tìm được nghiên cứu so sánh
CE-MRA và time-resolved CE-MRA trong
chẩn đoán và đánh giá DAVFs nội sọ.
CE-MRA phát hiện dẫn lưu tĩnh mạch vỏ
não ở 10/13 trường hợp với độ nhạy 77% và độ
đặc hiệu 93%, cho thấy CE-MRA có độ nhạy
cao và đặc hiệu cao trong chẩn đoán dẫn lưu
vào tĩnh mạch vỏ não. Trên thế giới có rất ít
nghiên cứu khảo sát riêng vai trò của CE-MRA
trong DAVFs. Phần lớn các nghiên cứu khảo
sát trên CE-MRA động học (time-resolved CE-MRA).
Chuỗi xung SWI
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ phát hiện
DAVFs của chuỗi xung SWI tại xoang hang và
ngoài xoang hang. Nếu chỉ tính trong nhóm rò
ngoài xoang hang, tỉ lệ chẩn đoán DAVFs của
chuỗi xung SWI trong nghiên cứu của chúng tôi
là 88%, phù hợp với nghiên cứu của Jagadeesan
(n=29)(5) và Jain (n=26)(6). Điều này khả năng do
xoang hang nằm cạnh nhiều cấu trúc xương,
tăng tín hiệu trong xoang hang dễ bị che lấp bởi
ảnh giả nhạy từ.
Chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não trên
SWI khi có tăng tín hiệu trong tĩnh mạch vỏ
não hoặc sung huyết các tĩnh mạch này. Trong
44 ca được chụp chuỗi xung SWI trong nghiên
cứu của chúng tôi, có 21 ca có dẫn lưu tĩnh
mạch vỏ não. Dấu hiệu tăng tín hiệu trong tĩnh
mạch vỏ não có độ nhạy 67% và độ đặc hiệu
100%. Dấu hiệu sung huyết tĩnh mạch vỏ não
có độ nhạy 90% và độ đặc hiệu 91%. Kết hợp
cả hai dấu hiệu, chuỗi xung SWI có độ nhạy
90% và đặc hiệu 91% trong phát hiện tình
trạng này. Tỉ lệ chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch
vỏ não của chúng tôi phù hợp với tác giả Jain
(n=25) và Nakagawa (n=17)(9), thấp hơn trong
nghiên cứu của Noguchi (n = 10)(13); tỉ lệ các
dấu hiệu khác biệt với cả Noguchi và
Nakagawa. Tuy nhiên kết quả của cả 4 nghiên
cứu đều cho thấy chuỗi xung SWI có giá trị cao
trong chẩn đoán DAVFs và tình trạng dẫn lưu
tĩnh mạch vỏ não.
Chuỗi xung T2W và T1 3D CE
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu
flow-voids bất thường của các tĩnh mạch vỏ
não trên T2W chỉ có trong trường hợp DAVFs
có dẫn lưu vào tĩnh mạch vỏ não, điều này
phù hợp với nghiên cứu của Meckel(8). Dấu
hiệu flow-voids trên T2W chẩn đoán được
19/26 trường hợp có dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não,
có độ nhạy 73% và đặc hiệu 100%, tương đồng
với kết quả nghiên cứu của Kitajima (n=21)(7)
và Noguchi (n=14)(12) đều trong khoảng từ 70-
80%. Độ đặc hiệu của chuỗi xung T2W trong
chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não cũng phù
hợp với 2 nghiên cứu trên đều đạt 100%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu
mạch máu bất thường trên T1W 3D CE gặp
trong 23/59 ca, chiếm tỉ lệ 38,98%, cho thấy dấu
hiệu này kém nhạy trong chẩn đoán DAVFs.
Tuy nhiên trong chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch
vỏ não, dấu hiệu này có độ nhạy và đặc hiệu
khá cao lần lượt là 81% và 94%. Dấu hiệu này
phần lớn cũng chỉ xuất hiện trên những bệnh
nhân có dẫn lưu vào tĩnh mạch vỏ não, giải
thích cho tỉ lệ chẩn đoán DAVFs thấp trong
nghiên cứu của chúng tôi. Dấu hiệu mạch máu
bất thường trên T1W 3D CE nhạy hơn nhưng
kém đặc hiệu hơn so với dấu hiệu flow-voids
bất thường trên T2W trong chẩn đoán dẫn lưu
tĩnh mạch vỏ não. Kết quả này của chúng tôi
phù hợp với nghiên cứu của Kitajima (n = 21)
cho thấy chuỗi xung T1W 3D CE chẩn đoán
được 85,7% trường hợp, nhạy hơn chuỗi xung
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 27
T2W trong chẩn đoán dẫn lưu vào tĩnh mạch
vỏ não. Độ đặc hiệu của chuỗi xung T1W 3D
CE trong nghiên cứu của chúng tôi là 94%,
cũng khá phù hợp với nghiên cứu của Kitajima
dấu hiệu này có độ đặc hiệu 90%.
Chuỗi xung time-resolved CE-MRA (TWIST)
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 23 bệnh
nhân được chụp chuỗi xung TWIST. Dấu hiệu
cấu trúc tĩnh mạch bắt thuốc sớm trong thì động
mạch hiện diện trong 23/23 bệnh nhân, tỉ lệ chẩn
đoán là 100%. Điều này phù hợp với nhiều
nghiên cứu nước ngoài về chuỗi xung TR CE-
MRA đều có tỉ lệ chẩn đoán là 100% như nghiên
cứu của Meckel (n=13)(8), Farb (n=20)(4) và
Nishimura (n=18)(11). Riêng nghiên cứu của
Noguchi (n=15)(12) chuỗi xung TR CE-MRA có độ
nhạy chỉ là 88% tức 13/15 ca, bỏ sót 2 vị trí rò lưu
lượng thấp. Điều này có thể do trong nghiên cứu
của Noguchi độ phân giải thời gian là 4 giây cho
mỗi loạt hình, trong khi trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng như những nghiên cứu nước
ngoài khác độ phân giải thời gian cao hơn,
khoảng từ 1,5-2 giây. Ngoài ra tốc độ bơm thuốc
không đủ nhanh chỉ 1,5 ml/giây trong nghiên
cứu của Noguchi cũng có thể là một nguyên
nhân cho sự bỏ sót hai DAVFs lưu lượng thấp
này. Nghiên cứu của chúng tôi cũng như của
Meckel, Farb và Nishimura đều có tốc độ bơm
thuốc từ 2 ml/giây trở lên. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, chuỗi xung time-resolved CE-MRA
(TWIST) bỏ sót 1 vị trí rò trên 1 bệnh nhân có rò
xoang hang hai bên.
Trong 27 DAVFs được phát hiện trên
TWIST, chuỗi xung này xác định đúng vị trí rò
trong 100% trường hợp. Giá trị kappa = 1 cho
thấy mức độ đồng thuận rất mạnh giữa TWIST
và DSA trong xác định vị trí DAVFs. Kết quả
này cao hơn một chút với tác giả Meckel (n = 13)
có tỉ lệ chẩn đoán đúng vị trí DAVFs là 88,9%.
Tương tự chuỗi xung TOF 3D và CE-MRA, điều
này khả năng do tác giả Meckel chia vị trí
DAVFs chi tiết hơn so với các nghiên cứu khác.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
kết quả của tác giả Nishimura có tỉ lệ chẩn đoán
đúng vị trí là 100%, giá trị kappa là 1 cho thấy
mức độ tương hợp rất mạnh. Nói chung, nghiên
cứu của chúng tôi và của Meckel, Nishimura
đều cho thấy chuỗi xung TR CE-MRA có độ
chính xác rất cao trong chẩn đoán vị trí DAVFs.
Trong nghiên cứu của chúng tôi chuỗi xung
TWIST chẩn đoán được 7/7 trường hợp có dẫn
lưu tĩnh mạch vỏ não, độ nhạy là 100%. Chúng
tôi ghi nhận có 1 trường hợp dương tính giả, độ
đặc hiệu là 93,75%. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Noguchi (n=15), Farb (n=20) và
Nishimura (n=18), trong đó chuỗi xung TR CE-
MRA đều có độ nhạy 100% trong chẩn đoán dẫn
lưu tĩnh mạch vỏ não. Độ đặc hiệu của chúng tôi
chỉ đạt 93,75%, thấp hơn 3 nghiên cứu trên có độ
đặc hiệu của chuỗi xung TR CE-MRA đều đạt
100%. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Farb
cũng ghi nhận 1 trường hợp mà 1 trong 3 nhà
hình ảnh học nhận định có dẫn lưu tĩnh mạch vỏ
não, trong khi DSA không ghi nhận (2 người còn
lại đọc đúng). Nhìn chung các nghiên cứu đều
cho thấy TR CE-MRA có giá trị rất cao trong
chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não.
Chuỗi xung TWIST phân type Borden
chính xác trong 22 bệnh nhân chiếm 95,65%.
Giá trị kappa = 0,91 (0,82–0,99) cho thấy độ
đồng thuận rất mạnh giữa TWIST và DSA.
Nghiên cứu của Farb (n=20) và Nishimura
(n=18) có tỉ lệ phân type Borden đúng bằng
chuỗi xung TR CE-MRA là 100%; chỉ số kappa
trong nghiên cứu của Nishimura là 1. Tuy hơi
thấp hơn nhưng tỉ lệ phân type Borden đúng
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng rất cao >
95%, độ tương hợp rất mạnh giữa MRI và
DSA, tương đồng với nghiên cứu của Farb và
Nishimura.
Chuỗi xung TWIST phân type Cognard
chính xác trong 21 trường hợp, chiếm 91,3%.
Giá trị kappa = 0,88 (0,8–0,96) cho thấy mức độ
đồng thuận rất mạnh giữa chuỗi xung TWIST
và DSA trong phân type Cognard của DAVFs.
Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của
Meckel có tỉ lệ chẩn đoán chính xác type
Cognard là 85%. Điều này nhiều khả năng do
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 28
khác biệt cỡ mẫu giữa hai nghiên cứu nhưng
nhìn chung tỉ lệ chẩn đoán đúng đều > 80%,
cho thấy giá trị của TR CE-MRA trong phân
type Cognard ở bệnh nhân DAVFs. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số kappa giữa
TWIST và DSA trong chẩn đoán type Borden
cao hơn trong chẩn đoán type Cognard, điều
này khả năng do TWIST còn gặp khó khăn
trong chẩn đoán chiều dẫn lưu xoang màng cứng.
Hình 1. Hình ảnh TWIST rò trực tiếp vào tĩnh mạch vỏ não vùng xoang dọc trên, tương ứng với hình ảnh trên
DSA. “Nguồn: Bệnh nhân Nguyễn Thị Ngọc O., SNV: 18-0050629”
KẾT LUẬN
DSA là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và
đánh giá DAVFs. Tuy nhiên cộng hưởng từ có
điểm ưu việt là tính không xâm lấn, khả năng
chẩn đoán tổn thương nhu mô não, những hậu
quả do ứ trệ tĩnh mạch gây ra bởi DAVFs.
4 chuỗi xung TOF 3D, CE-MRA và TWIST,
SWI đều có giá trị cao trong chẩn đoán, xác định
vị trí và phát hiện tình trạng dẫn lưu tĩnh mạch
vỏ não, đặc biệt là chuỗi xung TWIST.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Azuma M, Hirai T, Shigematsu Y, Kitajima M, Kai Y et al
(2015). "Evaluation of Intracranial Dural Arteriovenous
Fistulas: Comparison of Unenhanced 3T 3D Time-of-flight
MR Angiography with Digital Subtraction Angiography".
Magn Reson Med Sci, 14(4):pp. 285-93.
2. Chen JC, Tsuruda JS, Halbach VV (1992). "Suspected dural
arteriovenous fistula: results with screening MR angiography
in seven patients". Radiology, 183(1):pp. 265-71.
3. Cohen SD, Goins JL, Butler SG, Morris PP, Browne JD (2009).
"Dural arteriovenous fistula: diagnosis, treatment, and
outcomes". Laryngoscope, 119(2):pp. 293-7.
4. Farb RI, Agid R, Willinsky RA, Johnstone DM, Terbrugge KG
(2009). "Cranial dural arteriovenous fistula: diagnosis and
classification with time-resolved MR angiography at 3T".
AJNR Am J Neuroradiol, 30(8):pp. 1546-51.
5. Jagadeesan BD, Delgado Almandoz JE, Moran CJ, Benzinger
TL (2011). "Accuracy of susceptibility-weighted imaging for
the detection of arteriovenous shunting in vascular
malformations of the brain". Stroke, 42(1):pp. 87-92.
6. Jain NK, Kannath SK, Kapilamoorthy TR, Thomas B (2017).
"The application of susceptibility-weighted MRI in pre-
interventional evaluation of intracranial dural arteriovenous
fistulas". J Neurointerv Surg, 9(5):pp. 502-507.
7. Kitajima M, Hirai T, Korogi Y, Yamura M, Kawanaka K et al
(2005). "Retrograde cortical and deep venous drainage in
patients with intracranial dural arteriovenous fistulas:
comparison of MR imaging and angiographic findings".
AJNR Am J Neuroradiol, 26(6):pp. 1532-8.
8. Meckel S, Maier M, Ruiz DS, Yilmaz H, Scheffler K et al.
(2007). "MR angiography of dural arteriovenous fistulas:
diagnosis and follow-up after treatment using a time-resolved
3D contrast-enhanced technique". AJNR Am J Neuroradiol,
28(5):pp. 877-84.
9. Nakagawa I, Taoka T, Wada T, Nakagawa H, Sakamoto M et
al. (2013). "The Use of Susceptibility-Weighted Imaging as an
Indicator of Retrograde Leptomeningeal Venous Drainage
and Venous Congestion With Dural Arteriovenous Fistula:
Diagnosis and Follow-up After Treatment". Neurosurgery,
72(1):pp. 47-55.
10. Newton TH, Cronqvist S (1969). "Involvement of dural
arteries in intracranial arteriovenous malformations".
Radiology, 93(5):pp. 1071-8.
11. Nishimura S, Hirai T, Sasao A, Kitajima M, Morioka M et al
(2010). "Evaluation of dural arteriovenous fistulas with 4D
contrast-enhanced MR angiography at 3T". AJNR Am J
Neuroradiol, 31(1):pp. 80-5.
12. Noguchi K, Melhem E R, Kanazawa T, Kubo M, Kuwayama
N et al. (2004). "Intracranial dural arteriovenous fistulas:
evaluation with combined 3D time-of-flight MR angiography
and MR digital subtraction angiography". AJR Am J
Roentgenol, 182(1):pp. 183-90.
13. Noguchi K, Kuwayama N, Kubo M, Kamisaki Y, Kameda K
et al. (2010). "Intracranial Dural Arteriovenous Fistula with
Retrograde Cortical Venous Drainage: Use of Susceptibility-
Weighted Imaging in Combination with Dynamic
Susceptibility Contrast Imaging". American Journal of
Neuroradiology, 31(10):pp. 1903-1910.
14. Osborn AG, Gary L, Karen L (2017). "CVMs with
Arteriovenous Shunting", In: Osborn's Brain: Imaging,
Pathology, and Anatomy, pp. 165-170.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_hinh_anh_cong_huong_tu_cua_ro_dong_tinh_mach_mang_c.pdf