Tài liệu Đặc điểm giao diện giữa xi măng calcium silicate và mô ngà răng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
237
ĐẶC ĐIỂM GIAO DIỆN GIỮA XI MĂNG CALCIUM SILICATE
VÀ MÔ NGÀ RĂNG
Lý Nguyễn Bảo Khánh*, Trần Xuân Vĩnh**
TÓM TẮT
Mở đầu: Đặc điểm giao diện răng và vật liệu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kỹ thuật trám bít ống tủy, tính
chất vật lý và hóa học của vật liệu trám bít,. Vì vậy, rất nhiều nghiên cứu về đặc diểm giao diện được thực hiện
nhằm đánh giá hiệu quả trám bít ống tủy của các loại vật liệu, đặc biệt là đối với những loại xi măng mới.
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát đặc điểm giao diện giữa mô răng và xi măng trám bít ống tủy
tricalcium silicate mới (BioRoot RCS; Septodont, Saint-Maur-des-Fossés, Pháp)bằng kính hiển vi điện tử quét.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Răng cối nhỏ hàm dưới được sửa soạn và trám bít ống tủy bằng xi
măng BioRoot RCS và AH26, ngâm trong dung dịch SBF trong 30 ngày, sau đó cắt dọc chân răng và quan sát
giao diện dưới kính hiển vi điện tử quét.
Kết quả:Hình ảnh qua...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm giao diện giữa xi măng calcium silicate và mô ngà răng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
237
ĐẶC ĐIỂM GIAO DIỆN GIỮA XI MĂNG CALCIUM SILICATE
VÀ MÔ NGÀ RĂNG
Lý Nguyễn Bảo Khánh*, Trần Xuân Vĩnh**
TÓM TẮT
Mở đầu: Đặc điểm giao diện răng và vật liệu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kỹ thuật trám bít ống tủy, tính
chất vật lý và hóa học của vật liệu trám bít,. Vì vậy, rất nhiều nghiên cứu về đặc diểm giao diện được thực hiện
nhằm đánh giá hiệu quả trám bít ống tủy của các loại vật liệu, đặc biệt là đối với những loại xi măng mới.
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát đặc điểm giao diện giữa mô răng và xi măng trám bít ống tủy
tricalcium silicate mới (BioRoot RCS; Septodont, Saint-Maur-des-Fossés, Pháp)bằng kính hiển vi điện tử quét.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Răng cối nhỏ hàm dưới được sửa soạn và trám bít ống tủy bằng xi
măng BioRoot RCS và AH26, ngâm trong dung dịch SBF trong 30 ngày, sau đó cắt dọc chân răng và quan sát
giao diện dưới kính hiển vi điện tử quét.
Kết quả:Hình ảnh quan sát cho thấy có sự xuất hiện một vùng giao diện sáng giữa xi măng BioRoot RCS và
mô ngà răng.
Kết luận:Xi măng BioRootTM RCS có thành phần chính là tricalcium silicate nên có thể hình thành lớp giao
diện với thành ngà răng dưới sự hiện diện của các dung dịch giả dịch thể người, hạn chế vi kẽ, tăng cường khả
năng bám dính của vật liệu với mô răng.
Từ khóa: BioRoot RCS, xi măng trám bít ống tủy calcium silicate, giao diện.
ABSTRACT
INTERFACE OF CALCIUM SILICATE-BASED ROOT CANAL SEALER AND DENTINE
Ly Nguyen Bao Khanh, Tran Xuan Vinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 3- 2018: 237 - 242
Background: Interface of material and dentine depends on various factors, such as obturation technique,
physical and chemical properties of endodontic materials Therefore, many studies regarding interface have been
performed to evaluate the sealing effeciency of root canal sealers, especially innovative materials.
Objective: This study aim was to investigate the characteristics at the interface between dentine and a new
tricalcium silicate-based root canal sealer (BioRoot RCS; Septodont, Saint-Maur-des-Fosses, France) using
scanning electron microscopy.
Result: Observations showed that there was interface existing between root canal sealer BioRoot RCS and
dentine.
Conclusion: Root canal sealer BioRoot RCS based on tricalcium silicate was capable of forming interface
with dentine with the presence of SBF, thus minimizing microleakage as well as increasing adhesion between
material and tooth structure.
Keywords: BioRoot RCS, calcium silicate root canal sealer, interface.
MỞ ĐẦU
Điều trị nội nha thành công liên quan đến tất
cả các giai đoạn trong quá trình điều trị bao gồm
sửa soạn, tạo hình và làm sạch ống tủy, trám bít
ống tủy và cả giai đoạn trám tạm giữa các lần
hẹn hay trám kết thúc. Trong đó, giai đoạn trám
* Khoa Răng-Hàm-Mặt, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
** Bộ môn Nha khoa cơ sở, Khoa Răng-Hàm-Mặt, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Trần Xuân Vĩnh ĐT: 0946920818 Email: vinhdentist@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018
238
bít ống tủy đóng vai trò quan trọng trong sự
thành công của điều trị nội nha. Hệ thống ống
tủy phải được bít kín hoàn toàn để ngăn ngừa tái
nhiễm khuẩn và vi kẽ bên trong ống tủy. Việc bít
kín vùng chóp của ống tủy chân răng nhằm
ngăn ngừa các vi khuẩn còn sót và các độc tố của
chúng từ mô quanh chóp thấm vào chóp răng(12).
Hiện nay, rất nhiều vật liệu cũng như phương
pháp trám bít ống tủy đã được phát triển nhằm
làm tăng chất lượng của việc điều trị nội nha.
Những vật liệu có thành phần chính là
calcium silicate như ProRoot MTA (Dentsply,
Montigny-le-Bretonneux, Pháp) và Biodentine
(Septodont, Saint-Maur-des-Fossés, Pháp) đã
được chứng minh là có khả năng bám dính cao,
phóng thích ion canxi và hoạt tính sinh học(6,7,8).
Dựa trên các đặc tính này, một loại xi măng trám
bít ống tủy mới có thành phần chính tricalcium
silicate, cải tiến từ vật liệu Biodentine được giới
thiệu là BioRootTM RCS (Septodont, Saint-Maur-
des-Fosses, France)(4).
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Đặc điểm
giao diện giữa xi măng calcium silicte và mô
ngà răng” nhằm đánh giá hiệu quả trám bít
ống tủy của xi măng BioRootTM RCS thông qua
hình ảnh quan sát giao diện bằng kính hiển vi
điện tử quét, từ đó cung cấp thêm thông tin
cho các nhà lâm sàng về đặc tính vật lý của
loại xi măng mới này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 6 răng cối nhỏ hàm dưới có một ống
tủy.
Tiêu chuẩn chọn mẫu: răng có một ống tủy
Tiêu chuẩn loại trừ: răng đã điều trị nội nha,
răng có ống tủy bị vôi hóa
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Thực nghiệm thống kê mô tả.
Phương pháp
Sửa soạn ống tủy và tạo hình ống tủy với hệ
thống trâm quay máy ProTaper (Denstply,
Maillerfer, Switzerland) đến trâm F5 theo kỹ
thuật bước xuống (crown-down).
Trong quá trình sửa soạn, bôi trơn ống tủy
bằng Glyde FILE PREP (Denstply, Maillerfer,
Switzerland) và bơm rửa bằng dung dịch NaOCl
2,5% giữa mỗi lần thay trâm và kết thúc quá
trình sửa soạn.
Chia nhóm nghiên cứu và trám bít ống tủy
Chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm, mỗi nhóm 3
răng, trám bít ống tủy theo phương pháp một
côn với côn gutta-percha ProTaper F5 và 2 loại xi
măng BioRootTM RCS và AH26.
Nhóm 1: trám bít ống tủy bằng xi măng
BioRootTM RCS.
Nhóm 2: trám bít ống tủy bằng xi măng
AH26.
Trám buồng tủy bằng xi măng GIC (GC
Corporation, Tokyo, Japan).
Chụp phim kiểm tra và lưu giữ mẫu.
Bảo quản răng trong dung dịch SBF trong 30
ngày
Quan sát giao diện giữa khối vật liệu trám bít với
thành ngà răng.
Sau 30 ngày, các răng ở 2 nhóm được lấy ra
khỏi dung dịch SBF, cắt ngang thân răng tại vị trí
1/3 chóp bằng đĩa cắt kim cương và đánh bóng
bằng giấy nhám nước có độ mịn tăng dần: 1200,
1500, 2000 bằng máy LaboPol-5 của hãng
Struers®. Sau đó, mẫu được quan sát dưới kính
hiển vi điện tử quét (SEM).
KẾT QUẢ
Hình ảnh SEM thiết diện cắt ngang 1/3
chóp chân răng của cả hai nhóm trám bít bằng
xi măng BioRootTM RCS và AH26 đều cho thấy
có sự bám dính, kết nối chặt giữa cone gutta-
percha và ngà răng bằng xi măng (Hình 1).
Trong nhóm BioRootTM RCS khoảng trống xuất
hiện ngay giữa khối xi măng, trong khi đó nhóm
AH26 khoảng trống hình thành giữa xi măng và
ngà răng, giữa xi măng và cone gutta percha
(Hình 2).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
239
Hình 1. Sự bít kín tại giao diện giữa xi măng và ngà răng (độ phóng đại x100): D: ngà răng; G: côn gutta-percha.
Hình ảnh SEM thiết diện cắt ngang 1/3 chóp chân răng của cả hai nhóm trám bít bằng xi măng BioRootTM
RCS (a) và AH26 (b)đều cho thấy có sự bám dính, kết nối chặt giữa cone gutta-percha và ngà răng bằng xi
măng.
Hình 2. Sự hình thành vi kẽ tại giao diện xi măng
và ngà răng (độ phóng đại x500) A: xi măng AH26, B:
xi măng BioRootTM RCS, D: ngà răng, G: côn gutta-
percha. Hình ảnh SEM cho thấy trong nhóm
BioRootTM RCS (a) khoảng trống (mũi tên) xuất
hiện ngay giữa khối xi măng, trong khi đónhóm
AH26 khoảng trống hình thành giữa xi măng và
ngà răng (b), giữa xi măng và cone gutta percha (c).
G
D
G
D
a b
B
a b
D
G
B
D
A
G
D
G
A
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018
240
Hình 3. Vùng sáng hiện diện tại giao diện xi măng và ngà rang. B: xi măng BioRootTM RCS, D: ngà răng, I:
giao diện. Hình ảnh SEM ở độ phóng đại x500 (a) và x1000 (b) cho thấy xuất hiện vùng sáng dọc giao diện
giữa mô răng và xi măng BioRootTM RCS
BÀN LUẬN
Xi măng nội nha là thành phần quan trọng
của khối vật liệu trám bít. Một xi măng tốt cần có
đặc tính dán dính tốt vào ngà răng và vật liệu lõi.
Xi măng AH26 có thành phần căn bản là nhựa
epoxy bisphenol A và chất xúc tác là
hexamethylene – teramine. Loại xi măng này có
nhiều ưu điểm về đặc tính cơ học như: tăng độ
cản quang, tan chậm, dán dính tốt vào ngà răng,
phù hợp với phương pháp một côn. Do đó, xi
măng AH26 đã được sử dụng phổ biến trên lâm
sàng và được xem là “chuẩn vàng” trong các
nghiên cứu đánh giá đặc tính cơ học của các loại
xi măng mới. Tuy nhiên, xi măng AH26 có
nhược điểm là phóng thích formaldehyde, thời
gian đông cứng kéo dài, co khi đông cứng và lực
co có thể vượt quá lực dán vào ngà răng(3).
BioRootTM RCS là vật liệu mới, có khả năng
đông cứng trong môi trường ẩm như mô ngà
chứa 20% nước(10), chưa có nhiều nghiên cứu
được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả TBOT.
Do có cùng thành phần chính là calcium silicate,
nên phản ứng đông cứng cũng như cơ chế tác
động của xi măng BioRootTM RCS tương tự như
Biodentine và MTA.
2(3CaO.SiO2) + 6H2O => 3CaO.2SiO2.3H2O +
3Ca(OH)2.
Tricalcium silicate + Nước => Calcium silicate
hydrate + Calcium hydroxide.
Calcium silicate phản ứng với nước tạo ra
quá trình đông cứng của xi măng. Đây là sự
hydrate hóa của tricalcium silicate
(3CaO.SiO2=C3S), tạo ra gel calcium silicate
hydrate và calcium hydroxide. Các phân tử
tricalcium silicate không phản ứng được bao
quanh bởi các lớp gel calcium silicate hydrate
không thấm nước, do đó làm chậm lại các
phản ứng tiếp theo(1). Theo Skinner LB và cs,
các hình ảnh quan sát bằng kính hiển vi cho
thấy có sự kết nối trực tiếp giữa xi măng
calcium silicate và ngà răng mà không có
khoảng trống nào. Đây là sự dán dính vi cơ
học. Ngoài ra, cấu trúc “nano” của calcium
silicate hydrate cũng góp phần giải thích hiệu
quả dán dính tốt của xi măng calcium
silicate(2).
Quan sát hình ảnh trên SEM, chúng tôi ghi
nhận ở cả hai nhóm răng được TBOT bằng xi
măng BioRootTM RCS và AH26 đều có những
vùng được kết nối chặt chẽ giữa côn gutta-
D
D
I
B
B
I
a b
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
241
percha và thành ngà răng bằng xi măng (hình 1).
Trong nhóm răng được trám bít bằng xi măng
AH26, sự kết nối này là do thành phần chính của
xi măng AH26 là nhựa epoxy bisphenol A, có
tính chảy cao, dễ dàng thâm nhập vào ống ngà
tạo nên sự dán dính vi cơ học(14). Trong nhóm
răng được trám bít bằng xi măng BioRootTM RCS,
sự kết nối này là do tương tác giữa thành phần
calcium silicate với ngà răng, tạo ra sự khoáng
hóa bên trong ống ngà. Theo nghiên cứu của
Viapiana. R và cs, sử dụng chất huỳnh quang để
đánh giá hiệu quả TBOT của xi măng BioRootTM
RCS, kết quả cho thấy xi măng thâm nhập vào
ống tủy kết hợp với một dãy huỳnh quang ngay
sát thành ngà răng(16).
Ngoài những vùng có sự dán dính tốt giữa xi
măng và côn gutta-percha với thành ngà răng,
hình ảnh SEM còn cho thấy có răng xuất hiện các
khoảng trống, tuy nhiên vị trí xuất hiện lại khác
nhau. Trong nhóm răng được trám bít bằng xi
măng BioRootTM RCS, khoảng trống xuất hiện
giữa khối xi măng, nhưng xi măng vẫn kết nối
với thành ngà răng và côn gutta-percha (hình
2a). Vị trí xuất hiện vi kẽ này tương tự với kết
quả của Jameel M. A. Sulaiman và cs,
Ravichandra và cs, các tác giả sử dụng SEM để
đánh giá đặc điểm vi kẽ của xi măng Biodentine
có thành phần chính là tricalcium silicate, ghi
nhận rằng khoảng trống xuất hiện bên trong
khối xi măng là do sự khử nước bằng hút chân
không trong quá trình chuẩn bị mẫu SEM(9).
Trong nhóm răng được trám bít với xi măng
AH26, có thể là do xi măng polymer co khi đông
cứng và lực co vượt quá lực dán nên tạo ra
khoảng trống xuất hiện giữa xi măng và thành
ngà răng (hình 2b); và giữa xi măng và côn
gutta-percha (hình 2c). Nghiên cứu của Vishal A.
Mahajan và Kamra AI cũng ghi nhận hầu hết
khoảng trống xuất hiện giữa thành ngà răng và
xi măng polymer(17).
Sau khi ngâm răng trong dung dịch SBF 30
ngày, hình ảnh SEM ở độ phóng đại x500 và
x3000 cho thấy có những vùng sáng dọc theo
giao diện giữa xi măng BioRootTM RCS và ngà
răng (hình 3). Kết quả này tương tự với nghiên
cứu của Sarkar và cs(13) khi đánh giá khả năng
khoáng hóa sinh học của xi măng MTA có thành
phần chính là calcium silicate. Tác giả giải thích
rằng, khi đặt xi măng MTA và ống tủy, xi măng
hòa tan dần trong dịch mô, các tinh thể
hydroxyapatite được hình thành và lớn dần, lắp
đầy vi kẽ giữa xi măng và thành ngà răng. Ban
đầu, sự dán dính này là vi cơ học do sự lan của
lớp gel calcium silicate hydrate hình thành ngay
sau khi trộn vật liệu. Sau một thời gian, tác giả
suy luận xảy ra một chuỗi các phản ứng khuếch
tán có kiểm soát giữa lớp apatite và ngà răng dẫn
đến sự dán dính hóa học. Kết quả là hình thành
sự khít kín tại giao diện xi măng MTA – ngà
răng. Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả
LeGeroz RZ, Cole AS và cs, Tzisfas và cs, cấu
trúc tại giao diện xi măng MTA – ngà răng là
hydroxyapatite(5,11,15). Hydroxyapatite phát sáng
là do đặc tính khúc xạ dưới ánh sáng phân cực
của cấu trúc này(13). Do xi măng BioRootTM RCS
có thành phần chính là tricalcium silicate, tương
tự với MTA nên chúng tôi cho rằng vùng sáng
dọc theo giao diện xi măng – ngà răng mà chúng
tôi ghi nhận được là hydroxyapatite.
KẾT LUẬN
Xi măng BioRootTM RCS hình thành lớp
giao diện với thành ngà răng dưới sự hiện
diện của các dung dịch giả dịch thể người, hạn
chế vi kẽ, từ đó làm tăng khả năng bám dính
với mô ngà răng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahlberg KMF, Assavanop P, Tay WM (1995). A comparison of
the apical dye penetration patterns shown by methylen blue
and India ink in rootfilled teeth. Int Endo J, 28: 30-34.
2. Ayar LR, Love RM (2004). Shaping ability of Profile and K3
rotary Ni-Ti instruments when used in a variable tip sequence
in simulated curved root canals. Int Endod J, 37: 593-601.
3. BioRootTM RCS scientific file, 2015.
4. Camps J, Jeaneau C, El Ayachi I, Laurent P, About I (2015).
Bioactivity of a Calcium Silicate-based Endodontic Cement
(BioRoot RCS): Interactions with Human Periodontal
Ligament Cells In Vitro. J Endod, 41, 9: 1463-1473.
5. Cole AS, Eastoe JE (1988). Biochemistry and oral biology.
London: Wright, 2: 452-467.
6. Gandofil MG, Siboni F, Polimeni A, et al (2013). In vitro
Screening of the apatite-Forming Ability, Biointeractivity and
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018
242
Physical Properties of a Tricalcium Silicate Material for
Endodontics and Restorative Dentistry.Dent J, 1: 41-60.
7. Gandofil MG, Siboni F, Primus CM & Prati C (2014). Ion
Release, Porosity, Solubility, and Bioactivity of MTA Plus
Tricalcium silicate. J Endod, 40: pp. 1632-1637.
8. Han L, Okiji T (2013). Bioactivity evaluation of three calcium
silicate-base andodontic materials. Int Endod J, 46, 9: 808-814.
9. Jameel M. A. Sulaiman, Maha M. Yahya, Wiaam M. O. Al-
ashou (2014). An in vitro scan electron microscope
comparative study of dentine-Biodentine interface. J Bagh
College Dentistry, 26, 1.
10. Koch KA, Brave GD, Nasseh AA (2010). Bioceramic
technology: closing the endo-restorative circle, part 2.
Dentistry today, 29, 3: 98-100.
11. LeGeros RZ (1991). Calcium phosphates in oral biology and
medicine. Basel: Karger: 154-171.
12. Lucena-Martin C, Ferrer-Luque CM, Gonzalez-Rodriguez MP,
Robles-Gijon V, Navajas-Rodriguez de Mondelo JM (2002). A
comparative study of apical leakage of Endomethasone, Top
Seal, and Roeko Seal sealer cements. J Endod, 28: 423-426.
13. Sarkar N. K, Caicedo R, Ritwik P, Moiseyava R, và
Kawashima I (2005). Physicochemical Basis of the Biologic
Properties of Mineral Trioxide Aggregate. JOE, 31, 2: 97-100.
14. Tatsuya ORI, Haruka OTSUKI (2008). Push-out testing and
SEM evaluation of adhesive root canal sealers. 37th Annual
Meeting of the AADR, 1048.
15. Tziafas D, Pantelidou O, Alvanou A, Belibasakis G,
Papadimitriou S (2002). The dentinogenic effect of mineral
trioxide aggregate (MTA) in short-term capping experiments.
Int Endod J, 35: 245-254.
16. Viapiana R, Guerreiro-tanomaru J, Tanomaru-Filho M,
Camilleri J (2013). Interface of dentine to root canal sealers.
Journal of Dentistry, 42: 336-350.
17. Vishal A Mahajan, Kamra AI (2007). An in vitro evaluation of
apical sealing of three epox y resin based commercial
preparations. Endodontology J,19: 7-11.
Ngày nhận bài báo: 28/01/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/03/2018
Ngày bài được đăng: 10/05/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_giao_dien_giua_xi_mang_calcium_silicate_va_mo_nga_r.pdf