Đặc điểm điện não đồ trên bệnh nhân động kinh người trưởng thành

Tài liệu Đặc điểm điện não đồ trên bệnh nhân động kinh người trưởng thành: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 172 ĐẶC ĐIỂM ĐIỆN NÃO ĐỒ TRÊN BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH Phạm Xuân Lãnh*, Vũ Anh Nhị** TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả đặc điểm điện não ngoài cơn trong 12 giờ sau cơn và đánh giá mối liên quan điện não ngoài cơn với lâm sàng ở bệnh nhân động kinh người trưởng thành. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu thập được 114 bệnh nhân (68 nam và 46 nữ). Tuổi thường gặp là 20 đến 30 tuổi, với tuổi trung bình là 42. Loại cơn động kinh thường gặp nhất là cơn cục bộ toàn thể hóa thứ phát (65,8%), ngoài ra có 3 bệnh nhân không phân loại được loại cơn (2,6%). Trong số các nguyên nhân động kinh, di chứng đột quỵ chiếm tỷ lệ nhiều nhất (22,8%), tỷ lệ không xác định nguyên nhân hay căn nguyên ẩn là 46,4%. Thời điểm trung bình ghi điện não là 7,90 ± 2,94 giờ sau cơn. Có 21,1% bệnh nhân có bất thường kịch phát dạng động kinh trên đi...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 162 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm điện não đồ trên bệnh nhân động kinh người trưởng thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 172 ĐẶC ĐIỂM ĐIỆN NÃO ĐỒ TRÊN BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH Phạm Xuân Lãnh*, Vũ Anh Nhị** TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả đặc điểm điện não ngoài cơn trong 12 giờ sau cơn và đánh giá mối liên quan điện não ngoài cơn với lâm sàng ở bệnh nhân động kinh người trưởng thành. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu thập được 114 bệnh nhân (68 nam và 46 nữ). Tuổi thường gặp là 20 đến 30 tuổi, với tuổi trung bình là 42. Loại cơn động kinh thường gặp nhất là cơn cục bộ toàn thể hóa thứ phát (65,8%), ngoài ra có 3 bệnh nhân không phân loại được loại cơn (2,6%). Trong số các nguyên nhân động kinh, di chứng đột quỵ chiếm tỷ lệ nhiều nhất (22,8%), tỷ lệ không xác định nguyên nhân hay căn nguyên ẩn là 46,4%. Thời điểm trung bình ghi điện não là 7,90 ± 2,94 giờ sau cơn. Có 21,1% bệnh nhân có bất thường kịch phát dạng động kinh trên điện não đồ. Không có mối liên quan có ý nghĩa giữa bất thường trên điện não đồ và các yếu tố lâm sàng. Kết luận: Kết quả điện não đồ ghi trong 12 giờ sau cơn trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ bất thường dạng động kinh không tốt hơn so với các nghiên cứu ghi điện não ở thời điểm bất kỳ sau cơn, và không có sự khác biệt có ý nghĩa về bất thường điện não phân bố theo các đặc điểm lâm sàng. Từ khóa: điện não đồ, động kinh, cơn động kinh, sóng dạng động kinh, sau cơn, ngoài cơn ABSTRACT ELECTROENCEPHALOGRAM PATTERNS OF EPILEPTIC ALDULTS Pham Xuan Lanh, Vu Anh Nhi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 172 - 177 Objectives: To understand the characteristics of interictally electroencephalogram in epileptic adults which records within 12 hrs. after ictus and evaluate the clinical-interictally EEG correlation. Methods: Descriptive cross study. Results: One hundred-fourteen patients satisfied the inclusion criteria (sixty-eight females and forty-six males). Mean age is 42; the most common age is 20-30. The most seizure type is secondarily generalized partial seizure (65.8%). Three patients (2.6%) have undetermined seizure type. The most common cause of epilepsy is consequences of stroke (22.8%). There are 53 patients (46.4%) have undetermined cause or cryptogenic epilepsy. Mean timing recording EEG is 7.90 ± 2.94 hrs. after ictus. Twenty four patients (21.1%) have interictally epileptiform abnormalities. There are no significant clinical-interictal EEG correlations in this study. Conclusion: The result of interictal EEG within 12 hrs after ictus in our study is no better than anothers which recording interictal EEG at any time and do not find out any significant clinical-interictal EEG correlations. Keywords: electroencephalogram, epilepsy, epileptic seizure, epileptiform waves, interictal * Bệnh viện Chợ Rẫy, ** Bộ môn Thần Kinh, Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS. Phạm Xuân Lãnh ĐT: 0945160235 Email: pxlanhyk@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 173 ĐẶT VẤN ĐỀ Động kinh là bệnh thường gặp (0,5-1%)(7). Hiện nay, trên thế giới khoảng 40 triệu người có động kinh(4). Các tỉ suất bệnh thay đổi rất nhiều theo các vùng lãnh thổ khác nhau. Theo một số nghiên cứu gần đây ở châu Á, tỉ lệ bệnh mới là 42,08/100000 dân/năm(17), tỉ lệ bệnh toàn bộ là 6/1000 dân(14). Ở Việt Nam, tỉ lệ bệnh toàn bộ là 0,4-1%(20), khoảng 378000 bệnh nhân động kinh cần được chăm sóc y tế thường xuyên, phần lớn trong số này không được điều trị đúng phác đồ(15). Động kinh có thể để lại nhiều di chứng nặng nề cho bệnh nhân, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, gánh nặng cho gia đình và xã hội. Do đó động kinh là một vấn đề quan trọng đối với ngành y tế Việt Nam cũng như ở các nước đang phát triển. Chẩn đoán và điều trị động kinh chủ yếu dựa vào lâm sàng kết hợp hình ảnh học và điện não đồ. Điện não đồ thường qui có vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán và xử trí các cơn động kinh, là kỹ thuật dễ thực hiện, thuận tiện với chi phí tương đối thấp. Điện não đồ giúp ích trong việc chẩn đoán động kinh, phân loại cơn, theo dõi điều trị. Ngoài ra điện não còn giúp tiên lượng nguy cơ tái phát cơn động kinh. Theo một phân tích gộp, nguy cơ tái phát cơn sau hai năm là 27% với điện não bình thường, 37% với điện não bất thường không đặc hiệu, và đến 58% với điện não có bất thường dạng động kinh(3). Nhưng điện não đồ cũng có một số hạn chế. Một trong số đó là khả năng phát hiện bất thường ngoài cơn không cao. Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về động kinh, phần lớn là các nghiên cứu về dịch tễ học hoặc ở trẻ em. Nghiên cứu về điện não đồ ngoài cơn ở bệnh nhân động kinh người trưởng thành còn hạn chế. Từ những vấn đề vừa nêu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:”Đặc điểm điện não đồ trên bệnh nhân động kinh người trưởng thành”với mục đích khảo sát lâm sàng, hình ảnh học và điện não đồ ghi trong 12 giờ sau cơn, qua đó đánh giá khả năng phát hiện bất thường điện não ngoài cơn ghi trong 12 giờ sau cơn và liên quan với các yếu tố lâm sàng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tiêu chuẩn chọn mẫu Bệnh nhân được chẩn đoán động kinh tuổi từ 15 trở lên nhập khoa Nội thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2011 đến 09/2011. Được đo điện não đồ ngoài cơn trong vòng 12 giờ sau cơn. Tiêu chuẩn loại trừ Các trường hợp cơn co giật lần đầu, cơn co giật triệu chứng cấp, nguyên nhân chuyển hóa hoặc độc chất, do nguyên nhân tâm lý. Không được đo điện não trong 12 giờ sau cơn. Bệnh nhân trạng thái động kinh. Các yếu tố khảo sát Tuổi, giới, căn nguyên cơn động kinh, phân loại cơn động kinh, đặc điểm hình ảnh học, điện não đồ, tình trạng điều trị và mối liên quan giữa các yếu tố với bất thường điện não đồ. Công cụ thu thập số liệu: Bảng thu thập số liệu. Xử lý số liệu: Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu gồm 114 bệnh nhân, 68 nam và 46 nữ, tỷ lệ nam:nữ là 1,48:1. Tuổi nhỏ nhất là 15 và lớn nhất là 88 tuổi. Tuổi trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là 42,33 ± 21,33. Độ tuổi thường gặp nhất là 20-30 tuổi (25,4%) và trên 60 tuổi (24,6%). Không có sự khác nhau về phân bố giới tính với các nhóm tuổi (p = 0,92). Có 21 bệnh nhân (18,5%) động kinh toàn thể, 75 bệnh nhân (65,8%) động kinh cục bộ toàn thể hóa thứ phát chiếm tỉ lệ cao nhất, 15 bệnh nhân (13,1%) động kinh cục bộ, và 03 bệnh nhân (2,6%) không xác định được loại cơn. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 174 Trong các loại cơn toàn thể, cơn co giật (15 bệnh nhân) thường gặp nhất (71,4%), cơn co cứng (01 bệnh nhân) 4,8%, và cơn co cứng co giật (05 bệnh nhân) 23,8%. Các loại cơn toàn thể khác như cơn giật cơ, cơn mất trương lực, cơn vắng không gặp trong nghiên cứu của chúng tôi. 18.5 9.6 3.5 65.8 2.6 0 10 20 30 40 50 60 70 Cơn toàn thể Cơn cục bộ đơn giản Cơn cục bộ phức tạp Cơn cục bộ toàn thể thứ phát Cơn không phân loại T æ le ä % Hình 1. Biểu đồ phân bố các loại cơn động kinh. 46.4% 4.4% 0.9% 4.4% 7.0% 1.8% 0.9% 11.4% 22.8% Đột quỵ Chấn thương Nhiễm trùng U não Lupus Xơ chai thái dương Dị dạng mạch máu não Nguyên nhân khác Không xác định Hình 2. Biểu đồ phân bố nguyên nhân của động kinh Về nguyên nhân động kinh, nghiên cứu của chúng tôi ghi nhân hai nguyên nhân thường gặp nhất là di chứng đột quỵ (22,8%) và di chứng chấn thương đấu (11,4%). Có đến 46,4% bệnh nhân không xác định được nguyên nhân. Tuổi trung bình của bệnh nhân chấn thương đầu là 41, đột quỵ là 64, nhiễm trùng nội sọ là 31, u não là 54,4. Đa số bệnh nhân được chụp CT scan sọ não (97,4%). Có 64 (56,1%) bệnh nhân được chụp MRI sọ não. Tỉ lệ phát hiện tổn thương đặc hiệu trên hình ảnh học sọ não là 47,3%. Có 39 (34,2%) bệnh nhân đang điều trị thuốc chống động kinh trước nhập viện. Trong 114 bệnh nhân của nghiên cứu này, có 95 (83,3%) bệnh nhân đơn trị liệu, hai thuốc chống động kinh được sử dụng nhiều nhất nhất là valproate (47,4%) và phenytoin (42,2%). Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi thu thập được 114 bệnh nhân vào mẫu nghiên cứu thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh. Mỗi bệnh nhân được ghi điện não đồ một lần trong vòng 12 giờ sau cơn. Thời gian trung bình từ lúc có cơn đến lúc ghi điện não đồ là 7,9 ± 2,94 giờ. Không có sự khác biệt đáng kể về thời gian trung bình từ lúc có cơn đến lúc ghi điện não theo giới tính, cũng như các nhóm tuổi. Có 47 (41,2%) bênh nhân có điện não đồ bất thường (24 bệnh nhân bất thường dạng động kinh, 23 bệnh nhân bất thường rối loạn nhịp cơ bản), trong đó 10 (21,3%) bệnh nhân ở nhóm tuổi 20-29, cao nhất trong các nhóm tuổi. Kế tiếp là nhóm tuổi 40-49 có 09 (19,1%) bệnh nhân, nhóm tuổi < 20 có 08 (17%) bệnh nhân, nhóm tuổi 60-69 có 07 (14,9%) bệnh nhân. Như vậy, tỉ lệ bệnh nhân có điện não bất thường dạng động kinh trong nghiên cứu này là 21,1%. Trong các loại cơn động kinh thì nhóm bệnh nhân cơn động kinh cục bộ toàn thể hóa thứ phát có tỉ lệ phát hiện bất thường dạng động kinh cao nhất là 62,5% (15/24 bệnh nhân). Tỉ lệ điện não đồ bất thường cao ở các nguyên nhân như di chứng chấn thương đầu, u não, và di chứng đột quỵ (lần lượt là 61,5%, 60%, 50%). Trong nhóm bệnh nhân có dùng thuốc chống động kinh trước nhập viện thì 23,1% có bất thường dạng động kinh. Tỉ lệ này ở nhóm không dùng thuốc là 20%. Không có sự khác biệt về phân bố kết quả điện não ngoài cơn theo giới tính (p = 0,41), loại cơn động kinh (p =0,10), nguyên nhân động kinh (p = 0,14), và tình trạng dùng thuốc chống động kinh trước đó (p = 0,46). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 175 58.8% 21.1% 20.1% Bình thường Loạn nhịp cơ bản Sóng dạng động kinh Hình 3. Biểu đồ phân bố kết quả điện não Hình 4. Biểu đồ phân bố kết quả điện não ở hai nhóm dùng và không dùng thuốc chống động kinh BÀN LUẬN Qua nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tỉ lệ bất thường dạng động kinh là 21,1%. Kết quả này tương tự của các tác giả Lê Văn Tuấn (23,3%)(12), Krumholz A và cs tổng kết trên 1766 bệnh nhân trưởng thành có cơn động kinh lần đầu là 23%(11), Jallon P cũng trên bệnh nhân có cơn động kinh lần đầu là 24,4%(9). Nhưng kết quả của chúng tôi thấp hơn so với một số tác giả khác. Đinh Huỳnh Tố Hương trên 91 bệnh nhân trưởng thành có cơn co giật lần đầu ghi nhận tỉ lệ bất thường dạng động kinh là 28,6% với điện não đo ở thời điểm bất kỳ(5), Byung IL với 249 bệnh nhân động kinh thùy ghi nhận 50% có bất thường dạng động kinh trên điện não đồ thường qui(13), Ammar EMA nghiên cứu trên 596 bệnh nhân gồm cả trẻ em ghi nhận bất thường dạng động kinh 53-65% trên điện não ghi trong 48 giờ sau cơn(2). Nghiên cứu của Ajmone MC và cs năm 1970 thực hiện trên 308 bệnh nhân động kinh ở mọi lứa tuổi (173 nam, 135 nữ) với 41% (126 bệnh nhân) là dưới 20 tuổi ghi nhận 55,5% bất thường dạng động kinh ở lần ghi điện não đầu tiên(1). Kết quả nghiên cứu của King M.A năm 1998 trên 300 bệnh nhân gồm trẻ em có cơn động kinh lần đầu ghi nhận bất thường dạng động kinh 51% trong những trường hợp ghi điện não trong 24 giờ sau cơn(10). Falip M ghi nhận nếu đo điện não trong 24 giờ sau cơn sẽ có 40% bệnh nhân có bất thường dạng động kinh, tỉ lệ này giảm còn 21-35% nếu đo điện não trong 48 giờ sau cơn(6). Salinsky M nghiên cứu trên 429 bệnh nhân động kinh người lớn ghi nhận có 50% bệnh nhân có bất thường dạng động kinh trên điện não ngoài cơn bất kỳ(18). Bảng 1. So sánh kết quả EEG của chúng tôi với các tác giả khác. Tác giả Bất thường dạng động kinh Chúng tôi 21,1% Nguyễn Tuấn Anh 11% Lê Văn Tuấn 23,3% Jallon P 24,4% Krumholz A 23% Đinh Huỳnh Tố Hương 28,6% Salinsky M 50% Byung IL 50% Ajmone MC 55,5% Ammar EMA 53-65% Sự khác biệt này là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả khác là không tương đồng. Các tác giả ghi nhận tỉ lệ bất thường dạng động kinh cao thì hầu hết đối tượng nghiên cứu bao gồm cả trẻ em(13,2,10), cơn co giật triệu chứng cấp(5,10). Trong nghiên cứu của Salinsky M đối tượng nghiên cứu là người lớn với tuổi trung bình là 45 khá tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi, nhưng tỉ lệ bệnh nhân cơn động kinh cục bộ (95%) cao hơn nhiều so với chúng tôi (76,9%) và có 67% bệnh nhân đo điện não giấc ngủ(18), một phương pháp hoạt hóa làm tăng khả năng phát hiện bất thường dạng động kinh. Tỉ lệ bệnh nhân bất thường dạng động kinh của chúng tôi cao hơn trong nghiên cứu dịch tễ của tác giả Nguyễn Anh Tuấn và cs. Nghiên cứu này ghi nhận tỉ lệ bất thường dạng động kinh là 11%(18). Tỉ lệ này thấp có thể là do đối tượng nghiên cứu của tác giả có đến 21% bệnh nhân không có cơn trong một năm trước đó. Mặc dù 51.3 23.125.6 62.7 2017.3 0 10 20 30 40 50 60 70 Ñang duøng thuoác Khoâng duøng thuoác Bình thường Sóng dạng ĐK Loạn nhịpT æ le ä % Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 176 bằng chứng còn hạn chế, một số tác giả ghi nhận tần số cơn càng cao (trên 01 cơn/tháng) thì khả năng phát hiện bất thường dạng động kinh trên điện não ngoài cơn càng cao, và khả năng phát hiện bất thường dạng động kinh ngoài cơn là rất thấp khi tần số cơn thấp như 01 cơn/năm(1, 11). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tuổi có tỉ lệ bất thường dạng động kinh cao nhất là 20-29 (21,3%), và tuổi càng thấp thì khả năng phát hiện bất thường dạng động kinh càng cao. Kết quả này tương tự như nghiên cứu của Ajmone MC và cs(1). Tỉ lệ bất thường dạng động kinh ở nam là 25% cao hơn so với nữ là 15,2%, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,41). Như vậy sự phân bố kết quả điện não ngoài cơn không phụ thuộc vào giới tính. Điều này cũng đã được ghi nhận trong nghiên cứu của tác giả Ajmone MC và cs(1). Trong 24 (21,1%) bệnh nhân bất thường dạng động kinh, có 15 bệnh nhân cơn động kinh cục bộ toàn thể hóa thứ phát chiếm tỉ lệ 62,5%. Tuy nhiên khi thực hiện kiểm định chi bình phương cho kết quả sự khác biệt phân bố kết quả điện não theo các loại cơn động kinh là không có ý nghĩa thống kê (p = 0.10). Như vậy trong nghiên cứu của chúng tôi loại cơn động kinh không ảnh hưởng đến khả năng phát hiện bất thường điện não ngoài cơn. Kết quả này phù hợp với tác giả Ammar EMA(2), và Ajmone MC(1). Nhóm bệnh nhân có cơn động kinh cục bộ thì có 41% bệnh nhân có điện não bất thường, tương tự như kết quả trong nghiên cứu của Salinsky M và cs (39%)(18). Tuy nhiên tỉ lệ này thấp hơn so với tác giả Hussien A nghiên cứu trên 50 bệnh nhân động kinh cục bộ 16-70 tuổi ghi nhận 56% bất thường điện não đồ(8), Byung IL với 249 bệnh nhân là 47%(13). Có thể là do độ tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn trong nghiên cứu của hai tác giả này (tuổi trung bình của Hussien A 35,96, nghiên cứu của Byung IL gồm cả trẻ em). Khi phân tích kết quả điện não trong nhóm động kinh toàn thể, bệnh nhân cơn co cứng co giật có tỉ lệ bất thường dạng động kinh là 80% (4/5 bệnh nhân). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Ajimone MC là 83%(1). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về phân bố kết quả điện não theo các nhóm có nguyên nhân và căn nguyên ẩn (p = 0,14), tương tự tác giả Lê Văn Tuấn (p = 0,28)(12). Ajmone MC và cs cũng ghi nhận nguyên nhân động kinh không ảnh hưởng đến khả năng phát hiện bất thường trên điện não ngoài cơn(1). Về yếu tố nguyên nhân động kinh thì nhóm nguyên nhân có tỉ lệ phát hiện bất thường điện não ngoài cơn (dạng động kinh và rối loạn nhịp cơ bản) cao nhất là di chứng chấn thương đầu với tỉ lệ điện não bất thường là 61,5%. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Hồng Thanh và cs trên 35 bệnh nhân động kinh do di chứng chấn thương đầu có tuổi trung bình là 49 ghi nhận tỉ lệ này là 68,6%(16). Khác biệt về phân bố kết quả điện não theo nhóm có và không dùng thuốc chống động kinh là không có ý nghĩa thống kê (p = 0,46), hay tình trạng dùng thuốc chống động kinh không ảnh hưởng đến khả năng phát hiện bất thường dạng động kinh trên điện não ngoài cơn, phù hợp với kết quả nghiên cứu của Ajmone MC(1). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận biện pháp ghi điện não ngoài cơn trong 12 giờ sau cơn động kinh không làm tăng khả năng phát hiện các bất thường trên điện não, và không có sự khác biệt có ý nghĩa về bất thường điện não phân bố theo các đặc điểm lâm sàng. Một số tác giả đề nghị các phương pháp nhằm tăng khả năng phát hiện bất thường trên điện não ngoài cơn như đo điện não nhiều lần, điện não gây mất ngủ, điện não giấc ngủ, điện não Holter 24 giờ. Theo Smith SJM ghi điện não Holter 24 giờ ngoại trú có thể tăng thêm đến 20% khả năng phát hiện bất thường dạng động kinh(19). KẾT LUẬN Chẩn đoán động kinh là một chẩn đoán lâm sàng. Điện não đồ bình thường không được phép loại trừ động kinh. Điện não đồ có độ nhạy Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 177 tương đối thấp trong động kinh, giới hạn từ 25- 56%. Nếu giải thích không đúng bản ghi điện não sẽ dẫn đến những sai sót trong chẩn đoán và điều trị. Có nhiều phương pháp làm tăng khả năng phát hiện bất thường dạng động kinh trên điện não thường qui sau cơn. Kết quả điện não đồ ghi trong 12 giờ sau cơn trong nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ bất thường dạng động kinh không tốt hơn so với các nghiên cứu ghi điện não ở thời điểm bất kỳ sau cơn, và không có sự khác biệt có ý nghĩa về bất thường điện não phân bố theo các đặc điểm lâm sàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ajmone MC, et al (1970). Factors related to the occurrence of typical paroxysmal abnormalities in the EEG records of epileptic patients. Epilepsia, 11, pp.361-381. 2. Ammar EMA (2008). The Electroencephalogram (EEG) in the diagnosis of Epileptiform disorders in Sudanese patients. Khartoum Medical Journal, Vol. 1, No. 1, pp.12-14. 3. Berg AT, Shinnar S (1991). The risk of seizure recurrence following a first unprovoked seizure: a quantitative review. Neurology; 41, pp.965–72. 4. Christine L, Anne TB (2011). Epidemiologic Aspects of Epilepsy. Wyllie's Treatment of Epilepsy: Principles and Practice, 5th Edition. Lippincott Williams & Wilkins. 5. Đinh Huỳnh Tố Hương (2008). Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị của cơn động kinh đầu tiên ở người trưởng thành. Luận văn Bác sĩ nội trú. Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 6. Falip M, Gil Nagel A (2007). Diagnotic Problems in the Initial Assessement of Epilepsy. The Neurologist, pp.3- 10. 7. Hauser WA, Hesdorff er DC (1990). Epilepsy: frequency, causes and consequences. New York. Demos Publications. 8. Hussien A, et al (2008). Clinical pattern of partial epilepsy in Sudanese patients. Sudanese Journal of Public Health, Vol.3 (1), pp.26-31. 9. Jallon P, Goumaz M, et al (1997). Incidence of first epileptic seizures in the canton of Geneva, Switzerland. Epilepsia, 38, pp.547-552. 10. King MA, Newton MR, Jackson GD (1998). Epileptology of the first-seizure presentation: a clinical, EEG and MRI study of 300 consecutive patients. Lancet, 352, pp.1007–11. 11. Krumholz A (2007). Practice Parameter: Evaluating an apparent unprovoked first seizure in adult (an evidence- based review). Neurology, 69, pp.1996-2007. 12. Lê Văn Tuấn (2003). Đặc điểm lâm sàng, nguyên nhân và điều trị bệnh nhân động kinh tại khoa thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí Y Học TP HCM, tập 7, phụ bản của số 1, tr.75-80. 13. Lee BI (2002). Syndromic diagnosis at the Epilepsy Clinic: Role of MRI in Lobar Epilepsies. Epilepsia, 43(5), pp.496-504. 14. Mac TL, Tran DS, et al (2007). Epidemiology, aetiology, and clinical management of epilepsy in Asia: a systemic review. Lancet Neurol, 6, pp.533-43. 15. Nguyễn Anh Tuấn và cs (2011). Đặc điểm dịch tễ học động kinh tại Ba Vì, Hà Nội. Kỷ yếu 55 năm ngày thành lập chuyên ngành thần kinh học Việt Nam [1956-2011], Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, tr.188-193. 16. Nguyễn Hồng Thanh (2011). Nghiên cứu đặc điểm điện não đồ sau đêm trắng ở bệnh nhân động kinh do chấn thương đầu, vết thương sọ não. Kỷ yếu 55 năm ngày thành lập chuyên ngành thần kinh học Việt Nam [1956-2011], Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, tr.237-143. 17. Saha SP, et al (2008). A prospective incidence study of epilepsy in a rural community of West-Bengal, India. Neurology Asia, 13, pp.41 – 48. 18. Salinsky M, Roy K, Richard MD (1987). Effectiveness of Multiple EEGs in Supporting the Diagnosis of Epilepsy: An Operational Curve. Epilepsia, 28(4), pp.331-334. 19. Smith SJM (2005). EEG in the diagnosis, classification, and management of patients with epilepsy. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 76, ii2-ii7. 20. Vũ Anh Nhị (2001). Động kinh. Thần kinh học: lâm sàng và điều trị. NXB Mũi Cà Mau, tr.151-221. Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_dien_nao_do_tren_benh_nhan_dong_kinh_nguoi_truong_t.pdf
Tài liệu liên quan