Tài liệu Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng ở trẻ viêm màng não tăng bạch cầu ái toan tại khoa nhiễm Bệnh viện Nhi Đồng I: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 102
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ LÂM SÀNG Ở TRẺ VIÊM MÀNG NÃO
TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN TẠI KHOA NHIỄM BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I
Hồ Thị Hoài Thu*, Trương Hữu Khanh **, Hồ Đặng Trung Nghĩa***
TÓM TẮT:
Đặt vấn đề: Bệnh viêm màng não tăng bạch cầu ái toan (VMNTBCAT) có thể do nguyên nhân nhiễm trùng
và không nhiễm trùng. Trong đó, nhiễm ký sinh trùng (KST) Angiostrongylus cantonensis là nguyên nhân
thường gặp nhất.
Mục tiêu: mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng VMNTBCAT ở trẻ em.
Đối tượng-Phương pháp: nghiên cứu loạt ca tiến cứu mô tả các trường hợp VMNTBCAT nhập khoa
Nhiễm bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 09/2013 đến tháng 7/2014.
Kết quả: ghi nhận 27 trẻ có tuổi thường lớn (trung vị là 7 tuổi) bị VMNTBCAT, đến từ các tỉnh chiếm tỉ lệ
cao (89%) và bệnh thường xảy ra vào 4 tháng cuối năm (74%); bệnh có liên quan đến tiền căn ăn ốc sống/tái hay
chơi bắt ốc (48%). Triệu chứng đ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng ở trẻ viêm màng não tăng bạch cầu ái toan tại khoa nhiễm Bệnh viện Nhi Đồng I, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 102
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ LÂM SÀNG Ở TRẺ VIÊM MÀNG NÃO
TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN TẠI KHOA NHIỄM BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I
Hồ Thị Hoài Thu*, Trương Hữu Khanh **, Hồ Đặng Trung Nghĩa***
TÓM TẮT:
Đặt vấn đề: Bệnh viêm màng não tăng bạch cầu ái toan (VMNTBCAT) có thể do nguyên nhân nhiễm trùng
và không nhiễm trùng. Trong đó, nhiễm ký sinh trùng (KST) Angiostrongylus cantonensis là nguyên nhân
thường gặp nhất.
Mục tiêu: mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng VMNTBCAT ở trẻ em.
Đối tượng-Phương pháp: nghiên cứu loạt ca tiến cứu mô tả các trường hợp VMNTBCAT nhập khoa
Nhiễm bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 09/2013 đến tháng 7/2014.
Kết quả: ghi nhận 27 trẻ có tuổi thường lớn (trung vị là 7 tuổi) bị VMNTBCAT, đến từ các tỉnh chiếm tỉ lệ
cao (89%) và bệnh thường xảy ra vào 4 tháng cuối năm (74%); bệnh có liên quan đến tiền căn ăn ốc sống/tái hay
chơi bắt ốc (48%). Triệu chứng đau đầu thường gặp nhất (96,3%), sốt (63%), dấu màng não (26%); yếu chi (7%)
và liệt dây thần kinh số 6 (7%). Bệnh nhân có bạch cầu ái toan (BCAT) trong máu tăng > 500 tế bào (TB)/mm3 là
85%. Số lượng bạch cầu (BC)/Dịch não tuỷ (DNT) > 500 TB/mm3 là 56%; Số lượng BCAT/DNT có trung vị là
62 TB/mm3. DNT có protein tăng nhẹ; 41 % đường DNT/máu giảm nhẹ < 0,5; lactate trong giới hạn bình
thường. Huyết thanh miễn dịch ELISA có 13/27 (48%) dương tính với ký sinh trùng, trong đó Angiostrongylus
cantonensis chiếm tỉ lệ cao nhất 37% (10/27).
Kết luận: VMNTBCAT thường gặp ở trẻ lớn với tiền sử ăn ốc sống/tái.Triệu chứng nổi bật là đau đầu và
sốt kèm gia tăng bạch cầu ái toan trong máu và DNT.
Từ khoá: viêm màng não tăng bạch cầu ái toan, Angiostrongylus cantonensis, trẻ em.
ABSTRACT
FEATURES OF EPIDEMIOLOGIC AND CLINICAL CHARACTERISTICS AMONG PATIENTS
WITH EOSINOPHILIC MENINGITIS AT CHILDREN HOSPITAL N0 1, HO CHI MINH CITY
Ho Thi Hoai Thu, Truong Huu Khanh, Ho Dang Trung Nghia
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 102 - 107
Background: Eosinophilia meningitis can be the result of noninfectious causes and infectious agents. Among
the infectious agents, Angiostrongylus cantonensis is the most common.
Objectives: To describe the epidemiology, clinical features, and laboratory findings of eosinophilic
meningitis in pediatrics.
Methods: A case-series study of children with eosinophilic meningitis at the Infectious Diseases Department
of Children’s Hospital N01 from September 2013 to July 2014.
Results: 27 cases were described, the median age was 7 years old and 89% of them came from provinces. The
incidence was remarkably high (74%) from September to December. Common clinical presentations were
headache (96.3%) and fever (63%); the patients with meningeal signs 26%, lower limb weakness 7%, and 6th
*Bộ môn Ký Sinh - Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, **Bẹ ̂nh viẹ ̂n Nhi Đồng 1
***Bọ ̂ môn Nhiễm – Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. Hồ Thị Hoài Thu ĐT: 0903686322 Email: thuho.bkms@pnt.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 103
cranial nerve palsy 7%. More than 85% eosinophils in blood was higher 500 cells per mm3, the cell count of
cerebrospinal fluid (CSF) more than 500 cells per mm3 was 56% and median of eosinophils was 62 cells per mm3,
the CSF protein was light high, the ratio of CSF glucose/serum glucose less than 0.5 was 41%, the CSF lactate
was normal. 48% serological tests were positive and most of them were positive with Angiostrongylus
cantonensis (37%).
Conclusion: Most of the patient’s eosinophilic meningitis was old children with having history of
consumption of raw snails. The predominant clinical manifestations were headache and fever and usually
accompanied by cerebrospinal fluid eosinophilia.
Key word: Eosinophilic meningitis, Angiostrongylus cantonensis, children.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viêm màng não tăng bạch cầu ái toan
có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như
nhiễm ký sinh trùng, nhiễm trùng, bệnh lý ác
tính, thuốc,...(2,12). Trong đó, nhiễm ký sinh trùng
là nguyên nhân thường gặp nhất của bệnh lý
này. Người lớn và trẻ em có thể bị nhiễm bệnh
khi nuốt phải mầm bệnh có trong thực phẩm
sống hay tái. Một số loại ký sinh trùng có thể gây
viêm màng não ở người như Angiostrongylus
cantonensis, Gnathostoma spinigerum, Toxocara
canis, Cysticercus cellulosae, Trong đó
Angiostrongylus cantonensis được ghi nhận là
nguyên nhân hàng đầu gây VMNTBCAT ở các
nước như Hawaii, Thái Lan, Đài Loan(3,11,13). Việt
Nam là vùng lưu hành cao của các bệnh ký sinh
trùng, trong đó VMNTBCAT do ký sinh trùng
cũng đã được báo cáo. Theo một nghiên cứu tại
Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, viêm màng não do
Angiostrongylus cantonensis chiếm khoảng 60 %
các trường hợp VMNTBCAT ở người lớn(10).
Cũng như các bệnh cảnh nhiễm trùng hệ thần
kinh trung ương khác, VMNTBCAT có thể để lại
di chứng thần kinh và tử vong nếu không được
chẩn đoán và điều trị kịp thời. Đồng thời theo y
văn bệnh cảnh VMNTBCAT do Angiostrongylus
cantonensis có thể tự giới hạn và hồi phục(1,2).Vì
thế sự hiểu biết về tác nhân gây bệnh và biểu
hiện bệnh lý sẽ hỗ trợ nhiều cho công tác điều trị
và xây dựng chương trình phòng chống bệnh.
Cho đến hiện nay, các nghiên cứu về
VMNTBCAT trên đối tượng trẻ em chưa được
báo cáo nhiều trên thế giới cũng như tại Việt
Nam nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “
Mô tả đặc điểm dịch tễ và lâm sàng ở trẻ viêm
màng não tăng bạch cầu ái toan tại Bệnh Viện
Nhi Đồng 1, thành phố Hồ Chí Minh”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhi viêm màng não tăng bạch cầu ái
toan nhập khoa Nhiễm Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ
09/2013 đến 07/2014.
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca, tiến cứu.
Tiêu chí chọn mẫu
Trẻ nghi ngờ viêm màng não: sốt, nhức đầu,
nôn ói, có dấu màng não (cổ gượng, Kernig hoặc
Brudzinski).
DNT có ≥10 tế bào bạch cầu/ mm3 và DNT có
BCAT ≥ 10 tế bào/mm3 hoặc BCAT ≥ 10% bạch
cầu trong DNT.
Các bước tiến hành
Tất cả bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí chọn
mẫu được ghi nhận vào mẫu bệnh án soạn sẵn
các thông tin về tuổi, giới, thời điểm nhập viện,
nơi cư trú, các đặc điểm dịch tễ, các đặc điểm
lâm sàng và cận lâm sàng.
Số liệu nghiên cứu
được nhập vào MS Excel, xử lý và phân tích
bằng phần mềm thống kê STATA 12.0. Biến số
định lượng được trình bày theo khoảng tứ trung
vị, trung vị. Biến số định tính được trình bày
theo tần số (tỷ lệ phần trăm).
KẾT QUẢ
Kết quả nghiên cứu 27 trẻ viêm màng não
tăng bạch cầu ái toan tại bệnh viện Nhi Đồng 1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 104
năm 2013-2014, cho thấy:
Dịch tễ học
Bệnh thường gặp ở trẻ lớn (trung vị của tuổi
là 7, với khoảng tứ phân vị: 4 - 10), nam nhiều
hơn nữ. Bệnh nhân đến từ các tỉnh chiếm tỉ lệ
cao (89%), đặc biệt là tỉnh An Giang (22%); bệnh
thường xảy ra vào 4 tháng cuối năm (74%) (biểu
đồ 1); bệnh có liên quan đến tiền căn ăn ốc
sống/tái hay chơi bắt ốc (48%).
0
10
20
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112
Số ca
Hình 1: Số bệnh nhân phân bố theo thời điểm nhập
viện
Lâm sàng
Đau đầu là triệu chứng thường gặp nhất
96,3% (26/27). 63% bệnh nhân có sốt và đa số là
sốt nhẹ; 26% bệnh nhân có dấu màng não; 7%
bệnh nhân yếu chi và 7% bệnh nhân liệt dây
thần kinh số 6. (bảng 1).
b Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng Tần số Tỷ lệ (%)
Sốt 17 63
Đau đầu 26 96
Ói 19 70
Nhìn mờ 2 7
Dấu màng não 7 26
Yếu chi 2 7
Liệt dây VI 2 7
Yếu ½ người 1 4
Phù gai thị 2 7
Cận lâm sàng
BCAT trong máu tăng > 500TB/mm3 chiếm
85%. Số lượng BCAT/máu có trung vị 1250 TB/
mm3 (10,4%).
DNT: mờ/đục chiếm tỉ lệ 56%; protein tăng
nhẹ; 41% bệnh nhân có đường DNT/máu giảm
nhẹ < 0,5; lactate trong giới hạn bình thường;
số lượng BC/DNT > 500 TB/ mm3 là 56%; Số
lượng BCAT có trung vị là 62 TB/ mm3. Không
có trường hợp nào tìm thấy ấu trùng trong
DNT. (bảng 2).
Hình ảnh học: CT não và MRI não có bất
thường chiếm tỉ lệ thấp 36% (5/14).
Huyết thanh miễn dịch ELISA có 13/27 (48%)
dương tính với ký sinh trùng, trong đó A.
cantonensis chiếm tỉ lệ cao nhất 37% (10/27).
Trong DNT có 2 trường hợp dương tính với A.
cantonensis (bảng 3).
Bảng 2: Kết quả công thức máu và dịch não tuỷ
Thành phần Trung vị
Khoảng tứ
phân vị
Công thức
máu
Bạch cầu (TB/mm
3
) 14640 11400 - 17920
Số lượng BCAT
(TB/mm
3
)
1250 1050 -1850
Tỷ lệ % BCAT 10,4 6 - 13,2
Dịch
não
tuỷ
Tế
bào
Bạch cầu (TB/mm
3
) 655 336 - 1033
Số lượng BCAT
(TB/mm
3
)
62 33 - 196
Tỷ lệ % BCAT 13 8 - 25
Sinh
hóa
Protein (g/l) 0,57 0,47 - 0,71
Glucose (mmol/l) 2,71 2,18 - 2,96
Glucose DNT/máu 0,53 0,43 - 0,63
Lactate (mmol/l) 2,6 2,1 - 3,7
Bảng 3: Kết quả huyết thanh chẩn đoán ELISA
Kết quả Tần số Tỷ lệ %
Dương tính 13 48
A. cantonensis/máu 5 18,5
A. cantonensis/máu
+ A. cantonensis/DNT
1 3,7
A. cantonensis/máu
+ A. cantonensis/DNT+ T. canis/máu
1 3,7
A. cantonensis/máu + T. canis/máu 1 3,7
A. cantonensis/máu
+ T. canis/máu + G. spinigerum/máu
2 7,4
T. canis/máu 1 3,7
C. cellulosae/máu 1 3,7
G. spinigerum/DNT 1 3,7
Âm tính 14 52
BÀN LUẬN
Khảo sát về đặc điểm dịch tễ và lâm sàng ở
trẻ viêm màng não tăng bạch cầu ái toan tại Bệnh
Viện Nhi Đồng 1 từ tháng 09/2013 đến tháng
07/2014 đã ghi nhận tổng cộng 27 trường hợp với
các đặc điểm chung như sau:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 105
Đặc điểm dịch tễ học
Mẫu nghiên cứu bao gồm các bệnh nhi từ 2
đến 15 tuổi, trung vị của tuổi là 7. Trẻ lớn thường
được tự do, thích khám phá và nghịch ngợm
nhiều hơn. Đùa giỡn với chó mèo, chơi đùa trên
đất cát, bắt ốc ma chơi và bắt chước người lớn
chế biến món ăn lạ như ốc ma tái chanh, ốc ma
nướng là những thú vui của trẻ miền quê.
Kittisak &cs. theo dõi 19 trường hợp
VMNTBCAT ở trẻ em Thái Lan cũng ghi nhận
tương tự, tuổi trung bình là 12 (nhỏ nhất là 4 tuổi
và lớn nhất 14 tuổi)(5). Tỷ lệ nam bị VMNTBCAT
nhiều hơn nữ, có thể là trẻ nam thường có
những hành vi dạn dĩ hơn như chơi bắt ốc, ăn ốc,
đùa giỡn với chó mèo.
Đa số bệnh nhân (89%) đến từ các tỉnh, chủ
yếu là An Giang, tương tự số liệu của P.T.H.Mến
& cs. mặc dù tác giả đánh giá trên người lớn(10).
Trong các tác nhân KST gây VMNTBCAT, điều
kiện thổ nhưỡng ở An Giang và các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long có vẻ phù hợp đối với sự
tồn tại của Angiostrongylus cantonensis. Ngoài ra,
ốc ma Achatina fulica (ốc sên, ký chủ trung gian
của A. cantonensis) cũng phát triển mạnh ở các
vùng nông thôn, khí hậu ẩm, nhiều lá cây. Bên
cạnh điều kiện sinh thái, món ốc sên nướng hoặc
tái chanh là những món ăn hay gặp đối với
người dân miền Tây Nam Bộ. Ở trẻ em, thói
quen không rửa tay sạch sau khi chơi bắt ốc sên
hoặc trước khi ăn cũng là yếu tố dẫn độ đáng
quan tâm vì mầm bệnh có thể được thải ra theo
chất nhờn bài tiết từ ốc.
Bệnh nhi VMNTBCAT nhập viện nhiều nhất
vào 4 tháng cuối của năm (74%), giảm dần vào
những tháng còn lại, trong đó, những tháng
không có bệnh nhân như tháng 2, 3 và tháng 5.
Kết quả không khác biệt so với số liệu bệnh tập
trung vào 3 tháng cuối năm (50%) của
P.T.H.Mến (2)và vào mùa mưa của Hwang KP(4).
Gần 50% đối tượng VMNTBCAT có hành
vi nguy cơ liên quan đến ốc, chủ yếu là ăn ốc
ma chưa nấu chín. Nghiên cứu 87 trẻ
VMNTBCAT ở Đài Loan, tác giả và cs. thống
kê được khoảng 90% bệnh nhân có tiền căn
tiếp xúc với ốc Achatina fulica(4). Kittisak báo
cáo 68% trẻ VMNTBCAT do A. cantonensis đã
từng ăn ốc trước khi bệnh xuất hiện(5). Số liệu
khảo sát trên người lớn và trẻ em bị
VMNTBCAT của P.T.H.Mến & cs. cũng chứng
tỏ tiền căn ăn ốc sống trong 64% đối tượng(10).
Đặc điểm lâm sàng
Đau đầu là biểu hiện thường gặp như các
báo cáo trên y văn(2), chiếm 96% (26/27) và
thường kéo dài trên 7 ngày trước khi nhập viện
ở 50% các bệnh nhi. Vị trí đau đầu được ghi
nhận nhiều nhất là vùng chẩm và vùng trán. Kết
quả trong nghiên cứu này cũng tương tự các
nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy đau
đầu trong VMNTBCAT là triệu chứng gặp ở hầu
hết các bệnh nhân (9,10,4,5,14).
Đối với triệu chứng sốt, tính chất thường
không rõ ràng, thời gian sốt rất thay đổi, được
ghi nhận trong 63% đối tượng, thấp hơn đánh
giá của P.N.An, P.T.H.Mến, Hwang KP và
Kittisak (80%, 92%, 92% và 80%)(9,10,4,5).
Khoảng 7% bệnh nhân có biểu hiện nhìn mờ,
triệu chứng ít được ghi nhận trong các nghiên
cứu về VMNTBCAT ở trẻ em. Khi nghiên cứu
484 bệnh nhân bao gồm trẻ em và người lớn bị
VMNTBCAT, Sompone Punyagupta thống kê
được dấu hiệu nhìn mờ xảy ra trên 16% trường
hợp. Theo tác giả, nguyên nhân viêm thần kinh
thị thứ phát có thể do các phản ứng dị ứng với
ký sinh trùng hoặc các sản phẩm của ký sinh
trùng tiết ra(11).
Dấu hiệu cổ gượng xuất hiện vào thời điểm
nhập viện trong 7/27 (26%) bệnh nhân, thấp hơn
số liệu của P.N.An và Kittisak, lần lượt là 53% và
68% (1,11). Tuy nhiên trong các khảo sát
VMNTBCAT ở người lớn, tỷ lệ này cũng không
cao, như các báo cáo ở Việt Nam và Đài loan:
47% và 21% (10,14). Khoảng 11% bệnh nhân (3/27)
có dấu thần kinh định vị và 2 bệnh nhân (7%) có
biểu hiện liệt dây VI. Tỷ lệ bệnh nhân có dấu
thần kinh định vị trong các nghiên cứu trước đó
dao động từ 13-31% (9,4,5). Sự khác biệt giữa các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 106
báo cáo về bệnh cảnh tổn thương hệ thần kinh
trung ương, có khả năng xuất phát từ mật độ
hay chủng loại ký sinh trùng vì đặc điểm dịch tễ
sẽ thay đổi tuỳ theo khu vực địa lý và tập quán
sinh hoạt, ăn uống của cộng đồng.
Đặc điểm cận lâm sàng
Tổng bạch cầu trong máu ngoại vi tăng nhẹ,
trung vị là 14640 TB/mm3. Số lượng tuyệt đối
BCAT trong máu ngoại vi có trung vị là 1250
TB/mm3, tỷ lệ phần trăm BCAT trong máu có
trung vị là 10,4%. Như vậy trị số tuyệt đối và tỷ
lệ phần trăm của BCAT trong máu đều tăng, tỷ
lệ này cao hơn trong nghiên cứu của P.N.An là
8%(9), nhưng so với kết quả nghiên cứu của
Kittisak là 20% (5) và nghiên cứu của Hwang FP
có 85% bệnh nhân có BCAT/máu ≥ 10%(4) thì kết
quả nghiên cứu này thấp hơn. Ngoài ra, 85,2%
bệnh nhân có BCAT trong máu tăng > 500
TB/mm3. Như vậy, BCAT tăng đến một ngưỡng
nào đó sẽ trở thành dấu hiệu gợi ý viêm màng
não tăng BCAT. Tuy nhiên, 14,8% bệnh nhân
không tăng BCAT trong máu lúc nhập viện.
Trong báo cáo của Dokyung Lee và cs., một số
trường hợp không tăng BCAT trong máu nhưng
vẫn bị VMNTBCAT(8). Như vậy số lượng BCAT
bình thường trên công thức máu ở các đối tượng
VMN chưa đủ để loại trừ VMNTBCAT, vì vậy,
nếu các yếu tố lâm sàng và dịch tễ gợi ý, bên
cạnh viêm màng não do các nguyên nhân khác,
VMNTBCAT nên được nghĩ đến dù BCAT máu
không tăng.
Số lượng bạch cầu DNT có trung vị là 655
TB/mm3, kết quả này tương tự nghiên cứu của
Kittisak (637TB/mm3)(5). Như vậy, số lượng bạch
cầu DNT khá cao, giống như trong viêm màng
não mủ, rất dễ chẩn đoán nhầm với viêm màng
não mủ nếu bác sĩ điều trị không chú ý đề nghị
tìm BCAT trong DNT. Giá trị trung vị của số
lượng BCAT/DNT là 62 TB/mm3 và của tỷ lệ
BCAT là 13% thấp hơn so với 31% ± 22,4% của
P.N.An (1) và 58% của Kittisak(5). BCAT thường
tăng nổi bật trong giai đoạn phát triển của KST
nhằm tiêu diệt KST, sau đó sẽ giảm dần, vì vậy,
trong nghiên cứu hiện tại, có thể do BCAT trong
máu đã giảm hay do bệnh sử diễn tiến tương đối
dài, tình trạng viêm màng não đã tự giới hạn
phần nào dẫn đến sự tập trung BCAT trong
DNT cũng giảm. Protein DNT tăng nhẹ. Nồng
độ protein trong thống kê của P.N.An gần như
bình thường, trung bình là 0,42 g/l(9), nhưng tăng
nhẹ trong nghiên cứu của Kittisak: 0,68 g/l(5). Giá
trị bình thường glucose trong DNT thay đổi nên
đánh giá mức giảm glucose trong DNT dựa vào
tỷ lệ glucose DNT/ máu, bình thường tỷ lệ này >
0,5. Khoảng 41% đối tượng trong nghiên cứu
hiện tại có tỷ lệ glucose DNT/máu giảm nhẹ <
0,5. Trị số này cũng gặp trong báo cáo của
Kittisak: 0,45(5) và của P.T.H.Mến: 0,46(10). Do đó,
giữa bệnh cảnh lâm sàng viêm màng não rõ rệt
nhưng tỷ lệ glucose DNT bình thường hay giảm
nhẹ có thể gợi ý đến VMN tăng BCAT bên cạnh
VMN do siêu vi.
Về mặt vi sinh, không có trường hợp nào
tìm thấy ấu trùng trong DNT. Theo y văn ghi
nhận rất hiếm khi tìm thấy ấu trùng A.
cantonensis, Toxocara spp., Gnathostoma spp. trong
DNT(9,10,5) và nghiên cứu này cũng không ngoại
lệ. Hwang FP xét nghiệm DNT 87 trẻ
VMNTBCAT chỉ phát hiện duy nhất 1 bệnh
nhân có ấu trùng A. cantonensis trong DNT bằng
phương pháp bơm DNT (pumping method)(4).
Ngoài ra, Tim Kubersski & cs. cũng chỉ phát hiện
được 1 bệnh nhi 17 tháng tuổi có giun non trong
DNT (4 giun cái và 1 giun đực) trong 34 bệnh
nhân trẻ em và người lớn ở Hawaii(6,7).
Kỹ thuật miễn dịch men ELISA tìm kháng
thể kháng ký sinh trùng trong máu và dịch não
tủy phát hiện được 13/27 trường hợp dương tính
đơn thuần hoặc đa nhiễm với A. cantonensis, G.
spinigerum, T. canis và Cysticercus cellulosae, bao
gồm 10 bệnh nhi chỉ dương tính đối với huyết
thanh, 1 bệnh nhi chỉ dương tính trong DNT và 2
đối tượng có kháng thể kháng KST vừa trong
máu vừa trong DNT.
Theo y văn, hai nguyên nhân chủ yếu gây
VMNTBCAT là A. cantonensis và G. spinigerum(2),
trong đó A. cantonensis chiếm ưu thế. Hiện tượng
nhiễm phối hợp đã xảy ra trong 4 trường hợp: 2
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 107
mẫu máu cho kết quả đồng nhiễm A. cantonensis
và T. canis, 2 mẫu máu dương tính với cả 3 loại
KST: A. cantonensis, T. canis và G. spinigerum.
Như vậy, một lần nữa, việc lý giải kết quả xét
nghiệm gián tiếp thật sự không đơn giản trong
chẩn đoán tác nhân KST gây VMNTBCAT: đa
nhiễm thật hay do phản ứng chéo? Phản ứng
chéo là điều khó tránh khỏi trong các phản ứng
miễn dịch về giun sán vì việc phát hiện kháng
thể dựa trên kháng nguyên thân hoặc kháng
nguyên thô, trong khi kích thước lớn của giun
sán đã tạo nên những thảm kháng nguyên rất
rộng, nhiều khả năng trùng lắp giữa các loài
tương cận. Mặt khác, trong máu chứa rất nhiều
loại protein, các protein này có thể mang một
đoạn cấu trúc nào đó tương tự cấu trúc kháng
nguyên của KST và gây dương tính giả. Ngoài
ra, 14/27 (52%) bệnh nhân có kết quả ELISA
trong máu và dịch não tủy đều âm tính. Các xét
nghiệm ELISA chỉ được thực hiện một lần khi
nhập viện nên có thể nồng độ kháng thể chưa
tăng ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ như
ăn ốc ma tái/nướng. Như vậy, nên chăng cần
thực hiện một nghiên cứu xác định thời điểm
tăng kháng thể và theo dõi hiệu giá trong máu
cũng như trong DNT để lý giải các kết quả chính
xác hơn trong chẩn đoán tác nhân KST gây
VMNTBCAT.
KẾT LUẬN
VMNTBCAT thường gặp ở trẻ lớn với triệu
chứng đau đầu và sốt. ăn ốc ma sống/tái là một
yếu tố nguy cơ có thể nhiễm ký sinh trùng. Bạch
cầu ái toan trong máu và DNT thường tăng.
Huyết thanh chẩn đoán có thể xảy ra các phản
ứng chéo giữa các loài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anto W. (2001), “Human infection with Angiostrongylus
cantonensis”, Pacific Health Dialog, Vol 8 (1), p. 176-182.
2. Graeff-Teixeira C, Ana Cristina Aramburu da Silva, and a.K.
Yoshimura (2009), “Update on Eosinophic
Meningoencephalitis and Its Clinical Relevance”, Clinical
Microbiology Review, Vol 22 (2), p. 323-341.
3. Hochberg NS, et al. (2007), “Distribution of eosinophilic
meningitis cases attributable to Angiostrongylus cantonensis,
Hawaii”, Emerg Infect Dis, Vol 13 (11), p. 1675-1680.
4. Hwang KP, Chen ER, chen TS (1994), “Eosinophilic meningitis
and meningoencephalitis in children”, Southeast Asian J Trop
Med Public Health, Vol 35 (1), trang 172-174.
5. Kittisak S, et al. (2013), “Clinical Manifestations of Eosinophilic
Meningitis Due to Infection with Angiostrongylus cantonensis in
Children”, Korean J Parasitol, Vol 51 (6), p. 735-738.
6. Kuberski T. and Wallace GD (1979), “Clinical menifestations of
Eosinophilic Meningitis due to Angiostrongylus cantonensis”,
Neurology, Vol 29, p. 1566-1570.
7. Kuberski T., et al. (1979), “Recovery of Angiostrongylus
cantonensis from cerebrospinal fluid of a child with eosinophilic
meningitis”, J Clin Microbiol, Vol 9 (5), p. 629-631.
8. Lee Dokyung LS-H. and Ahn Tae-Beom A(2012), “
Eosinophilic Meningitis without Peripheral Eosinophilia”, Eur
Neurol, Vol 67, p. 217-219.
9. Phạm Nhật An (2002), “Một số nhận xét về bệnh viêm màng
não tăng bạch cầu ái toan ở trẻ em gặp tại viện nhi Quốc Gia từ
1996 tới hết 2000”, Y Học Thực Hành, tập 3, tr. 66-69.
10. Phạm Thị Hải Mến, Nguyễn Trần Chính, Lê Thị Xuân (2007),
“Viêm màng não do Angiostrongylus cantonensis tại Bệnh Viện
Bệnh Nhiệt Đới từ năm 2002 đến năm 2005”, Tạp chí Y Học
Tp.Hồ Chí Minh, tập 11 (1), tr.416-421.
11. Punyagupta S, Juttijudata P, and Bunnag T (1975),
“Eosinophilic meningitis in Thailand. Clinical studies of 484
typical cases probably caused by Angiostrongylus cantonensis”,
Am J Trop Med Hyg, Vol 24 (6), p. 921-931.
12. Section, I.D.E. (2006), “Eosinophilic Meningitis”, Office of Public
Health, Louisiana of Health & Hospital.
13. Tsai HC, et al. (2004), “Outbreak of eosinophilic meningitis
associated with drinking raw vegetable juice in southern
Taiwan”, Am J Trop Med Hyg, Vol 71 (2), p. 222-226.
14. Tseng YT, Tsai HC, and Sy CL (2011), “Clinical menifestations
of Eosinophilic Meningitis Caused by Angiostrongylus
cantonensis: 18 years’ Experience in a medical center in
Southern Taiwan”, Journal of Microbiology and Infection, Vol 44,
p. 382-389.
Ngày nhận bài báo: 29/01/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 13/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_dich_te_va_lam_sang_o_tre_viem_mang_nao_tang_bach_c.pdf