Đặc điểm của người mẹ liên quan đến suy dinh dưỡng cấp tính nặng của trẻ từ 6 tháng đến 59 tháng tại hai huyện Krông Pa và Kông Chro tỉnh Gia Lai năm 2016

Tài liệu Đặc điểm của người mẹ liên quan đến suy dinh dưỡng cấp tính nặng của trẻ từ 6 tháng đến 59 tháng tại hai huyện Krông Pa và Kông Chro tỉnh Gia Lai năm 2016: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 124 ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI MẸ LIÊN QUAN ĐẾN SUY DINH DƯỠNG CẤP TÍNH NẶNG CỦA TRẺ TỪ 6 THÁNG ĐẾN 59 THÁNG TẠI HAI HUYỆN KRÔNG PA VÀ KÔNG CHRO TỈNH GIA LAI NĂM 2016 Phạm Văn Doanh*, Nguyễn Song Tú**, Huỳnh Nam Phương** TÓM TĂT Đặt vấn đề: Tháng 9/2016, tại hai huyện Krông Pa và huyện Kông Chro chúng tôi đã phát hiện 97 trường hợp SDDCTN tại cộng đồng. Các giải pháp can thiệp hỗ trợ kịp thời tại các vùng có nguy cơ cao, nhằm giảm tỉ lệ SDDCTN là hết sức cần thiết. Mục tiêu: Tìm hiểu một số đặc điểm từ bà mẹ liên quan đến trẻ SDDCTN. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu bệnh chứng với tỉ lệ ghép cặp 1 bà mẹ có trẻ bị SDDCTN và 2 bà mẹ có trẻ không bị SDD tiêu chí là trẻ cùng tuổi, cùng giới, cùng dân tộc, cùng tình trạng kinh tế và cùng xã nơi sống. Kết quả: Kết quả thái độ của người mẹ khi chăm sóc trẻ biếng ăn, trẻ bị bệnh tiêu chảy hoặc NKHHC tại nhóm ...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm của người mẹ liên quan đến suy dinh dưỡng cấp tính nặng của trẻ từ 6 tháng đến 59 tháng tại hai huyện Krông Pa và Kông Chro tỉnh Gia Lai năm 2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 124 ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI MẸ LIÊN QUAN ĐẾN SUY DINH DƯỠNG CẤP TÍNH NẶNG CỦA TRẺ TỪ 6 THÁNG ĐẾN 59 THÁNG TẠI HAI HUYỆN KRÔNG PA VÀ KÔNG CHRO TỈNH GIA LAI NĂM 2016 Phạm Văn Doanh*, Nguyễn Song Tú**, Huỳnh Nam Phương** TÓM TĂT Đặt vấn đề: Tháng 9/2016, tại hai huyện Krông Pa và huyện Kông Chro chúng tôi đã phát hiện 97 trường hợp SDDCTN tại cộng đồng. Các giải pháp can thiệp hỗ trợ kịp thời tại các vùng có nguy cơ cao, nhằm giảm tỉ lệ SDDCTN là hết sức cần thiết. Mục tiêu: Tìm hiểu một số đặc điểm từ bà mẹ liên quan đến trẻ SDDCTN. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu bệnh chứng với tỉ lệ ghép cặp 1 bà mẹ có trẻ bị SDDCTN và 2 bà mẹ có trẻ không bị SDD tiêu chí là trẻ cùng tuổi, cùng giới, cùng dân tộc, cùng tình trạng kinh tế và cùng xã nơi sống. Kết quả: Kết quả thái độ của người mẹ khi chăm sóc trẻ biếng ăn, trẻ bị bệnh tiêu chảy hoặc NKHHC tại nhóm chứng tốt hơn nhóm bệnh, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm học vấn của người mẹ, bà mẹ khám thai ≥ 3 lần trong thời kỳ mang thai (p <0,05), các bà mẹ có học vấn càng cao, khám thai trên 3 lần trong thời kỳ mang thai thì tỉ lệ SDDCTN của trẻ càng giảm. Kết luận: Cần tăng cường công tác truyền thông, giáo dục bà mẹ về cách chăm sóc trẻ, đặc biệt tại các vùng sẩy ra các thiên tai và vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Từ khóa: suy dinh dưỡng cấp tính nặng ABSTRACT THE CHARACTERISTICS OF THE MOTHERS ASSOCIATED WITH SEVERE ACUTE MALNUTRITION OF THE CHILDREN 6-59 MONTHS OF AGE IN KRONG PA AND KONG CHRO DISTRICTS, GIA LAI PROVINCE IN 2016 Pham Van Doanh, Nguyen Song Tu, Huynh Nam Phuong * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 124 – 128 Background: In September 2016, 97 children 6-59 months old with severe acute malnutrition have been detected in Krong Pa and Kong Chro district, reducing the incidence of the severe acute malnutrition in the disadvantaged areas were essential. Objectives: This study aimed to identify the characteristics of the mothers associated with the severe acute malnutrition. Methods: A matched case-control study was conducted in mothers with their severe acute malnutrition children and mothers without their severe acute malnutrition children with the rate 1:2 matched by age, gender, ethnicity, economic status, residence area of the children. Results: The study findings showed the attitudes of the mother when caring her anorexic child, children with diarrhea or acute respiratory infection in controls were better than cases. There was a statistically significant difference of the rate of the severe acute malnutrition children among mother’s education level, ≥3 times of pregnancy examination. *Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên Viện Dinh dưỡng Quốc gia Tác giả liên lạc: ThS. Phạm Văn Doanh ĐT: 0905560068 Email: doanhpham1008@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 125 Conclusions: We are a need to enhance the risk communication and health education for the mothers about the child care, especially in remote, minorities and disaster affected areas. Keywords: severe acute malnutrition ĐẶT VẤN ĐỀ Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện nay trên Thế giới có khoảng 20 triệu trẻ bị suy dinh dưỡng cấp tính nặng (SDDCTN) và ước tính gây ra 1 triệu ca tử vong hàng năm. Nguy cơ tử vong liên quan đến SDDCTN chiếm tỷ lệ cao hơn khoảng 9 lần so với các thể SDD khác và cao gấp từ 5 - 20 lần so với trẻ bình thường. SDDCTN có thể là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong ở trẻ hoặc có thể đóng vai trò gián tiếp làm tăng nhanh nguy cơ tử vong ở những trẻ bị mắc các bệnh phổ biến(5,6). Một trong những nguyên nhân gián tiếp làm cho trẻ có nguy cơ cao bị SDDCTN là do rào cản của các tập quán lạc hậu, do kiến thức thấp, do thái độ chăm sóc trẻ của bà mẹ chưa đúng cách(3). Năm 2015-2016, hiện tượng El Nino đã ảnh hưởng đến khu vực Tây Nguyên, UBND tỉnh Gia Lai đã công bố tình trạng hạn hán với cấp độ rủi ro là cấp 1. Trong đó có 8/17 huyện thị, chịu ảnh hưởng nặng bởi đợt hạn hán. Tháng 9/2016, tại hai huyện Krông Pa và huyện Kông chro dựa vào Chương trình cứu trợ khẩn cấp của tổ chức UNICEF chúng tôi đã phát hiện 97 trường hợp SDDCTN để điều trị tại cộng đồng. Nhằm nắm bắt một số yếu tố khách quan từ bà mẹ làm trẻ có nguy cơ bị SDDCTN tại hai huyện, kịp thời đưa ra các giải pháp can thiệp hỗ trợ tại các vùng có nguy cơ cao, nhằm giảm tỉ lệ SDD đặc biệt là SDDCTN. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu bệnh chứng “Đặc điểm của người mẹ liên quan đến suy dinh dưỡng cấp tính nặng của trẻ từ 6 tháng đến 59 tháng tại hai huyện Krông pa và huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai năm 2016”. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Đối tượng tham gia trong nghiên cứu là những bà mẹ của trẻ có độ tuổi từ 6 tháng đến 59 tháng, có ngày sinh từ 28/8/2011 đến ngày 28/01/2016 đang sinh sống tại hai huyện. Tiêu chuẩn loại trừ Bà mẹ có trẻ bị SDDCTN biến tính, bị bệnh như HIV, bị Down, bà mẹ không có năng lực trả lời câu hỏi. Định nghĩa ca bệnh Nhóm bệnh Bà mẹ có trẻ bị SDDCTN thỏa điều kiện chu vi vòng cánh tay (MUAC) <11,5cm hoặc Z-score cân nặng/chiều cao (CN/CC) <-3 hoặc % CN /CC của quần thể chuẩn <70%(4). Nhóm chứng Bà mẹ của trẻ hoàn toàn bình thường không SDD thỏa điều kiện chu vi vòng cánh tay (MUAC) ≥ 125 mm và Z-score cân nặng/chiều cao CN/CC ≥ -2 và ≤ 2SD. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu bệnh - chứng ghép cặp theo tỉ lệ 1: 2, tức là 1 bà mẹ có trẻ bị SDDCTN và hai bà mẹ có trẻ không SDD. Các yếu tố được sử dụng ghép cặp là dựa vào trẻ có cùng tuổi, cùng giới, cùng dân tộc, cùng tình trạng kinh tế gia đình và cùng xã nơi trẻ sống. Cỡ mẫu Nhóm bệnh là 97 bà mẹ của 97 trẻ SDDCTN đã được phát hiện, nhóm chứng là 194 bà mẹ của 194 trẻ không SDD. Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu Thời gian triển khai từ tháng 8 -10/2016 tại hai huyện Krông Pa và Huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai. Phương pháp thu thập số liệu Sử dụng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn, tất cả các điều tra viên đã được tập huấn về mục đích, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu và các kỹ thuật liên quan đến nghiên cứu, kỹ thuật phỏng vấn. Có 97 bà mẹ có trẻ đã được phát hiện bị Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 126 SDDCTN thông qua khám sàng lọc, được điều trị tại cộng đồng, phù hợp với tiêu chuẩn nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu điền đầy đủ các thông tin vào phiếu khám sàng lọc, sau đó cán bộ phỏng vấn, sử dụng bộ phiếu đã được thiết kế sẵn để phỏng vấn mẹ của trẻ tại hộ gia đình. Dựa vào 97 trẻ SDDCTN, nhóm nghiên cứu tiến hành chọn ngẫu nhiên hệ thống 194 trẻ không SDD có cùng tuổi, cùng giới, cùng dân tộc, cùng tình trạng kinh tế gia đình và cùng xã nơi trẻ bị SDDCTN sống theo tỉ lệ 1:2, sau đó tiến hành các bước phỏng vấn các bà mẹ như đối với 97 bà mẹ có trẻ bị SDDCTN tại hộ gia đình. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu Số liệu được làm sạch và được mã hóa trước khi nhập vào máy tính, xử lý bằng phần mềm STATA 12. Sử dụng các test thống kê mô tả, sử dụng hồi quy logistic với OR khoảng tin cậy 95% trong nghiên cứu bệnh-chứng ghép cặp, mô tả thái độ hành vi của các bà mẹ và tìm mối quan hệ nhân quả, giữa các yếu tố nguy cơ của bà mẹ liên quan đến SDDCTN. KẾT QUẢ Một số đặc điểm thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ Bảng 1: Kênh tư vấn việc chăm sóc trẻ và lợi ích của sữa mẹ Kênh tư vấn Nhóm chứng (n,%) Nhóm bệnh (n,%) CBYT thôn/ CTV dinhdưỡng/ CB 128 (66) 18 (18,6) Nữ hộ sinh/ Y tá/ Bác sĩ/ Y sĩ 64 (33) 21 (21,6) Thành viên trong gia đình 9 (4,6) 10 (10,3) Không nhận được tư vấn 54 (27,8) 38 (39,2) Khi mang thai và cho con bú các bà mẹ tại nhóm chứng nhận được lời tư vấn chăm sóc trẻ và lợi ích của sữa mẹ cao hơn nhóm bệnh, cụ thể nhóm chứng nhận tư vấn từ cán bộ y tế 33,0%, từ cán bộ y tế thôn 66,0%, nhóm bệnh lần lượt là 21,6% và 18,6%. Bên cạnh đó một tỉ lệ rất cao của hai nhóm là không nhận được lời tư vấn nào cụ thể nhóm chứng là 27,8%, nhóm bệnh có 39,2% bà mẹ (Bảng 1). Bảng 2: Thái độ của người mẹ khi chăm sóc trẻ biếng ăn Đặc điểm Nhóm chứng (n,%) Nhóm bệnh (n,%) Ép buộc, quát mắng trẻ để trẻ ăn 79 (40,7) 35 (36,1) Dỗ dành, vừa cho con ăn vừa nói chuyện 95 (49) 21 (21,7) Chế biến, thay đổi thức ăn, cho ăn thức ăn mà trẻ thích 21 (10,8) 3 (3,1) Mua sữa, thực phẩm bổ sung cho trẻ 9 (4,6) 7 (7,2) Không làm gì cả 33 (17) 35 (36,1) Khi trẻ biếng ăn thái độ chăm sóc trẻ của người mẹ tại nhóm chứng tốt hơn nhóm bệnh, cụ thể nhóm bệnh 40,7% bà mẹ ép cho trẻ ăn, 49% vừa ăn vừa dỗ dành, 10,8% biết cách chế biến thức ăn mà trẻ thích. Nhóm chứng lần lượt là 36,1%; 21,7%; 3,1%. Ngược lại tỉ lệ bà mẹ không quan tâm đến trẻ khi trẻ biếng ăn của nhóm bệnh là 36,1% cao hơn nhiều nhóm chứng 17,0% (Bảng 2). Bảng 3: Thái độ của người mẹ khi chăm sóc trẻ bị bệnh Đặc điểm Nhóm chứng Nhóm bệnh Cho trẻ đến cơ sở y tế 159 (82,0%) 56 (57,7%) Tự điều trị tại nhà 27 (13,9%) 23 (23,7%) Khác 8 (4,1%) 16 (16,5%) Khi trẻ bị bệnh như tiêu chảy, NKHHC các bà mẹ biết đưa trẻ đến cơ sở y tế khám tại nhóm chứng là 82,0% cao hơn nhóm bệnh là 57,7%. Ngược lại tự điều trị tại nhà của nhóm bệnh là 23,7% cao hơn nhóm chứng 13,9%, một tỉ lệ không nhỏ bà mẹ không quan tâm đến trẻ khi bị bệnh (Bảng 4). Bảng 4: Mối liên quan giữa một số đặc điểm của bà mẹ với SDDCTN Đặc điểm Biến Nhóm bệnh Nhóm chứng OR (95%CI) p n % n % Nhóm tuổi ≤ 20 tuổi 17 17,5 31 16,0 1 21-30 tuổi 52 53,6 111 57,2 0,85 (0,43- 1,68) 0,648 ≥ 31 tuổi 28 28,9 52 26,8 0,98 (0,46 – 2,07) 0,962 Học vấn Mù chữ 44 45,4 45 23,2 1 Lớp 1 - 5 15 15,5 54 27,8 0,28 (0,14 – 0,58) 0,000 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 127 Đặc điểm Biến Nhóm bệnh Nhóm chứng OR (95%CI) p n % n % Lớp 6-9 29 29,9 70 36,1 0,42 (0,23 – 0,77) 0,001 ≥ Lớp 10 9 9,3 25 12,9 0,37 (0,15- 0,88) 0,024 Nghề nghiệp Nông dân 92 94,9 186 95,9 1 0.689 Khác 5 5,2 8 4,1 1,26 (0,40- 3,97) Khám thai Không 23 23,7 32 16,5 1 1-2 lần 31 32,0 45 23,2 0,95 (0,47 -1,94) 0,906 ≥ 3 lần 43 44,3 117 60,3 0,51 (0,27 – 0,97) 0,040 ( 1: reference) Bà mẹ ở nhóm tuổi càng cao thì trẻ có nguy cơ bị SDDCTN giảm, cụ thể nhóm 21-30 tuổi nguy cơ bị SDDCTN bằng 0,85 lần, nhóm ≥31 tuổi nguy cơ bị SDDCTN bằng 0,98 lần so với nhóm bà mẹ ≤ 20 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Mẹ có học vấn càng cao, thì trẻ có nguy cơ bị SDDCTN giảm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Nghề nghiệp chủ yếu của người mẹ là làm nông và tỉ lệ nhỏ làm các công việc khác như buôn bán, nội trợ. Sự khác biệt nghề nghiệp giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê. Trong thời kỳ mang thai, người mẹ đi khám thai nhiều lần thì trẻ có nguy cơ bị SDDCTN giảm, sự khác biệt này có ý nghĩ thống kê, ở bà mẹ khám thai ≥ 3 lần trong thời kỹ mang thai (p <0,05) (Bảng 4). BÀN LUẬN Huyện Krông Pa, huyện Kông Chro là 2 huyện nghèo của tỉnh Gia Lai, đây là các huyện có khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là nguồn nước khan hiếm và khí hậu khô khan. Tỷ lệ số dân là người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 65%, tỉ lệ hộ nghèo của 2 huyện trên 35%. Đáng nói đa số tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc thiểu số. Đường xá đi lại khó khăn nên người dân khó tiếp cận với các dịch vụ y tế. Kinh tế sống chủ yếu dựa vào các loại cây nông nghiệp ngắn ngày, như cây mía, sắn cao sản (củ mì), ngô lai, lúa là nhưng cây nông nghiệp có giá trị kinh tế thấp. Trong nghiên cứu này tỉ lệ mù chữ của cả hai nhóm tương đối cao tại nhóm bệnh tỉ lệ mù chữ của các bà mẹ là 45,4% nhóm chứng là 23,2%, tỉ lệ nông dân chiếm ngưỡng 95% ở cả hai nhóm (Bảng 4). Những yếu tố trên làm ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ sống tại hai huyện này. trẻ không được chăm sóc tốt, không được tiếp xúc với các dịch vụ y tế. Giai đoạn trẻ nhỏ là giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời của một đứa trẻ vì chúng phụ thuộc hoàn toàn vào chăm sóc của cha mẹ, dần thôi bú mẹ, bắt đầu tập ăn, các thức ăn của người lớn, nhạy cảm với các yếu tố môi trường bên ngoài, nhất là các vi sinh vật gây bệnh, đường hô hấp, đường tiêu hóa(5). Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy các bà mẹ tại nhóm chứng các bà mẹ khi mang thai và cho con bú nhận được lời tư vấn chăm sóc trẻ và lợi ích của sữa mẹ cao hơn nhóm bệnh (Bảng 1). Khi trẻ bị ốm, trẻ ăn ít hơn, do trẻ không có cảm giác thèm ăn, trẻ mệt, nôn hoặc đau bụng. Khi đó cần khuyến khích trẻ bú và ăn, kể cả khi trẻ không muốn ăn. Tăng số lần cho trẻ bú và cho ăn làm nhiều bữa, cho trẻ ăn thức ăn mềm, dễ tiêu. Trong nghiên cứu này điều cần đáng phải quan tâm là một tỉ lệ không nhỏ các bà mẹ tại hai nhóm có thái độ chăm sóc trẻ không tốt hoặc không quan tâm khi trẻ biếng ăn hoặc bị bệnh, nghiên cứu cũng chỉ ra thái độ chăm sóc trẻ của người mẹ tại nhóm chứng tốt hơn thái độ chăm sóc trẻ của người mẹ tại nhóm bệnh khi trẻ biếng ăn hoặc bị bệnh (Bảng 2, 3). Những bà mẹ trong khi có thai, lao động nặng nhọc, không được nghỉ ngơi đầy đủ, bệnh tật và đẻ thiếu tháng là yếu tố ảnh hưởng tới cân nặng sơ sinh hay gọi là SDD bào thai. Chăm sóc trẻ chưa đúng cách, do rào cản của các tập quán lạc hậu, đặc biệt khi trẻ bị bệnh. Bà mẹ thường kiêng khem, như kiêng nước, kiêng ăn, cúng bái, ảnh hưởng tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Mẹ có học vấn càng cao, thì trẻ có nguy cơ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 128 bị SDDCTN, càng giảm. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <0,05) (Bảng 4). Tương tự các nghiên cứu khác đã triển khai như một nghiên cứu bệnh chứng trẻ từ 6-59 tháng tuổi, được triển khai tại Bệnh Viện phía bắc Ấn Độ cho thấy: khi phân tích đa biến, trình độ học vấn của người mẹ là yếu tố liên quan đến SDD cấp tính(2). Một nghiên cứu bệnh chứng khác, trẻ từ 6 đến 59 tháng tuổi tại Konso Miền Nam Ethiopia, được tiến hành trên 300 trẻ SDD cấp tính nặng và 531 trẻ em không bị SDD, nhận thấy rằng học vấn người mẹ liên quan đến SDDCTN(1). Chăm sóc người phụ nữ khi có thai nhằm đảm bảo thai nghén bình thường và sinh đẻ an toàn cho cả mẹ lẫn con. Vì thế, khi có thai, người mẹ cần đến trạm y tế hoặc nhà hộ sinh đăng ký để được nhân viên y tế khám và theo dõi. Nên thực hiện việc khám thai định kỳ, ít nhất 3 lần trong suốt thời kỳ thai nghén, nếu khám được nhiều lần hơn càng tốt, nhất là ba tháng cuối, mỗi tháng nên khám một lần. Nghiên cứu chúng tôi nhận thấy trong thời kỳ mang thai trẻ, bà mẹ đi khám thai nhiều lần, thì trẻ có nguy cơ bị SDDCTN giảm, mối liên quan có ý nghĩ thống kê (p <0,05). Việc khám khai không phải là yếu tố trực tiếp làm trẻ bị SDDCTN nhưng nó là yếu tố gián tiếp tác động đến ý thức, bà mẹ không đi khám thai hoặc ít khám thai thì không thể nhận biết được tình trạng thai nhi, không nhận được các lời khuyên của y bác sỹ. Những yếu tố này là nguyên nhân gián tiếp làm cho trẻ có nguy cơ bị SDDCTN. KẾT LUẬN Khi mang thai và cho con bú các bà mẹ nhóm chứng nhận được nhiều lời tư vấn từ cán bộ y tế hơn nhóm bệnh. Khi trẻ biếng ăn, trẻ bị bệnh tiêu chảy hoặc NKHHC thái độ chăm sóc trẻ của người mẹ tại nhóm chứng tốt hơn nhóm bệnh, tuy nhiên tại hai nhóm vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ các bà mẹ không quan tâm đến trẻ khi bị bệnh. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm học vấn của người mẹ, bà mẹ khám thai ≥3 lần trong thời kỳ mang thai (p <0,05), các bà mẹ có học vấn càng cao, khám thai trên 3 lần trong thời kỳ mang thai thì tỉ lệ SDDCTN của trẻ càng giảm. Cần tăng cường công tác truyền thông, giáo dục các bà mẹ về cách chăm sóc trẻ. Đặc biệt các vùng xảy ra các thiên tai và vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Cảm ơn: Nghiên cứu này sử dụng số liệu điều tra sàng lọc ban đầu của Chương trình Unicef và Kinh phí của đề tài NCKH cơ sở của viện Vệ sinh dịch tễ Tây nguyên năm 2016-2017. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agedew E (2016). Determinant of Severe Acute Malnutrition among Children Aged 6-59 Months in Konso, Southern Ethiopia: Case Control Study. Quality in Primary Care, 2. Mishra K, Kumar P, Basu S, Rai K, Aneja S (2013). Risk factors for severe acute malnutrition in children below 5 y of age in India: a case-control study. Indian J Pediatr, 81(8):762-5. 3. Nguyễn Thị Hải Anh và Lê Thị Hợp (2006). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tỉnh Lào Cai năm 2005. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 2(3+4):29-35. 4. UNICEF (1998). The State of the World’s Children, Oxford University Press. 5. Viện Dinh dưỡng (2013). Tài liệu tập huấn quản lý suy dinh dưỡng cấp tính. Viện Dinh dưỡng, pp.3-7-8-11-16-20-22-23. 6. WHO (2010). Nutrition Landscape Information System (NLIS) country profile indicators. World Health Organization. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_cua_nguoi_me_lien_quan_den_suy_dinh_duong_9765_2212066.pdf
Tài liệu liên quan