Tài liệu Đặc điểm cư trú và xã hội của người Bahnar ở An Khê: KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 9
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19
1. Khái quát về người Bahnar ở An Khê
Dân tộc Bahnar là một trong những dân
tộc thuộc ngữ hệ Môn - Khmer ở Việt Nam. Đây
là dân tộc có số dân đông nhất trong những
DTTS nói tiếng Môn - Khmer ở khu vực Nam
Trung Bộ. Địa bàn cư trú chủ yếu của người
Bahnar là nam tỉnh Kon Tum, bắc và đông tỉnh
Gia Lai. Ngoài ra, còn có một bộ phận người
Bahnar sống rải rác ở các huyện phía tây của
tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên.
Theo Biểu tổng hợp hộ, khẩu nghèo và cận
nghèo theo dân tộc năm 2017 của Ban dân tộc
tỉnh Gia Lai năm 2017, dân số người Bahnar ở
Gia Lai khoảng 171.289 người. Khu vực cư trú
tập trung của người Bahnar là phía đông cao
nguyên Pleiku (thuộc địa bàn các huyện: Mang
Yang, Đăk Đoa và xã Hà Tây, Ia Khươl (phía bắc
Đặc điểm cư trú và xã hội của
người Bahnar ở An Khê
ThS. NGUYỄN THỊ BÌNH
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
Bahnar là tộc người lớn nhất trong số những tộc người thuộc dòng ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm cư trú và xã hội của người Bahnar ở An Khê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 9
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19
1. Khái quát về người Bahnar ở An Khê
Dân tộc Bahnar là một trong những dân
tộc thuộc ngữ hệ Môn - Khmer ở Việt Nam. Đây
là dân tộc có số dân đông nhất trong những
DTTS nói tiếng Môn - Khmer ở khu vực Nam
Trung Bộ. Địa bàn cư trú chủ yếu của người
Bahnar là nam tỉnh Kon Tum, bắc và đông tỉnh
Gia Lai. Ngoài ra, còn có một bộ phận người
Bahnar sống rải rác ở các huyện phía tây của
tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên.
Theo Biểu tổng hợp hộ, khẩu nghèo và cận
nghèo theo dân tộc năm 2017 của Ban dân tộc
tỉnh Gia Lai năm 2017, dân số người Bahnar ở
Gia Lai khoảng 171.289 người. Khu vực cư trú
tập trung của người Bahnar là phía đông cao
nguyên Pleiku (thuộc địa bàn các huyện: Mang
Yang, Đăk Đoa và xã Hà Tây, Ia Khươl (phía bắc
Đặc điểm cư trú và xã hội của
người Bahnar ở An Khê
ThS. NGUYỄN THỊ BÌNH
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
Bahnar là tộc người lớn nhất trong số những tộc người thuộc dòng ngôn
ngữ Nam Á ở nước ta. Dân tộc Bahnar có một nền văn hoá độc đáo với nhiều
loại hình văn hóa nghệ thuật phong phú.
Những thay đổi nhiều mặt về kinh tế - xã hội và sự tác động của làn sóng
văn hoá đương đại trong mấy thập niên gần đây đã dẫn đến việc giải thể cấu
trúc văn hóa cổ truyền Bahnar ở các địa bàn dân cư với những mức độ khác
nhau. Trước thực trạng này, nghiên cứu về đời sống văn hóa của cộng đồng
người Bahnar ở An Khê là một việc làm cần thiết; góp phần bảo tồn, lưu giữ và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người Bahnar trong bối cảnh
kinh tế hội nhập hiện nay.
Từ khóa: Người Bahnar, An Khê, cư trú, xã hội...
huyện Chư Pah - trên phần đất tiếp giáp với tỉnh
Kon Tum); trên cao nguyên Kon Hà Nừng thuộc
địa bàn huyện KBang; vùng trũng An Khê thuộc
các huyện Đak Pơ, Kông Chro và 2 xã Song An
và Tú An, thuộc thị xã An Khê. Theo thống kê
điều tra dân số năm 2015, ở thị xã An Khê, tổng
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN10
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
số nhân khẩu của người Bahnar là 1.156 người.
Phân bố nhân khẩu của người Bahnar ở An Khê
gồm: Làng Pốt, xã Song An có 62 hộ, 304 khẩu;
làng Pơnang, xã Tú An có 53 hộ, 228 khẩu; làng
Hòa Bình, xã Tú An có 96 hộ, 435 khẩu; làng
Nhoi, xã Tú An có 44 hộ, 189 khẩu.
Người Bahnar ở Gia Lai thuộc 4 nhóm địa
phương chính là: Bahnar Gơlar, Bahnar Bơnâm,
Bahnar Kon Kơđeh và Bahnar Tơlô. Cộng đồng
người Bahnar cư trú tại địa bàn huyện An Khê
cũ thuộc 3 trong 4 nhóm địa phương trên là
Bahnar Bơnâm, Bahnar Kon Kơđeh và Bahnar
Tơlô; riêng 4 làng Bahnar ở 2 xã Song An và Tú
An, thị xã An Khê lại “có quan hệ rất gắn bó với
nhóm Bahnar Krem huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình
Định” [1, tr 37].
2. Đặc điểm cư trú của người Bahnar ở
An Khê
Ở Gia Lai, địa bàn sinh sống của người
Bahnar trải dài từ nam cao nguyên Kon Plông
đến bắc thung lũng Cheo Reo (theo chiều bắc
- nam); từ đông cao nguyên Pleiku, đến hết
vùng trũng An Khê (theo chiều đông - tây).
Người Bahnar ở vùng An Khê cư trú chủ yếu ở
các huyện KBang, Đak Pơ (thuộc vùng Kon Kah
Kinh và cao nguyên Kon Hà Nừng); huyện Kông
Chro (thuộc vùng trũng An Khê - dọc theo sông
Ba) và 2 xã Tú An, Song An thuộc thị xã An Khê.
Như vậy, người Bahnar có mặt trên tất cả
các dạng địa hình chủ yếu của vùng đất An Khê.
Điều kiện cư trú có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc hình thành, duy trì và phát triển tín ngưỡng
cổ truyền ở bộ phận dân cư có tín ngưỡng “vạn
vật hữu linh” như các dân tộc Bahnar, Jrai.
Người Bahnar ở vùng An Khê cư trú thành
từng làng và họ gọi làng của mình là pơlei. Hiện
nay, thị xã An Khê có 4 làng Bahnar:
Pơlei Pốt là làng Bahnar duy nhất thuộc xã
Song An, hiện có 62 hộ dân với 304 nhân khẩu
(Số liệu thu thập điền dã khảo sát của người
viết). Đây là một làng thuần nông có 100% hộ
đồng bào dân tộc Bahnar sinh sống. Ở làng Pốt
hiện nay có gần 15 vòi nước vĩnh cửu cung cấp
nước sinh hoạt cho cả làng . Điểm đặc biệt của
những vòi nước này là chảy liên tục cả ngày lẫn
đêm. Người Bahnar để cho nước trong vòi chảy
tự nhiên, chứ không khóa van lại như những vòi
nước thông thường.
Pơlei đe Pơnang thuộc xã Tú An hiện có 53
hộ dân với 228 nhân khẩu (Số liệu điền dã khảo
sát của người viết). Tên của làng trước đây là
pơlei đe Hơmâu. Làng đổi tên thành Pơnang (cây
cau) vì trước đây ở làng có rất nhiều cau do dân
làng trồng, một phần để lấy quả ăn trầu, một
phần thì đem xuống chợ Tú Thủy bán cho các
thương lái người Kinh. Hiện tại trong làng vẫn
còn trồng cau nhưng số lượng không nhiều, chỉ
khoảng vài chục cây.
Pơlei đe Hơbinh (Hiện nay được viết là Hòa
Bình) thuộc xã Tú An hiện có có 96 hộ dân với
435 nhân khẩu (Số liệu thu thập điền dã khảo
sát của người viết). “Đây chính là làng Bahnar
cổ, được sử liệu Việt Nam nhắc đến bằng tên
làng Cổ Yêm. Có người giải thích: Tên của làng
trước kia là Duch Jem (cô gái đẹp) nên người
Việt đọc thành Cô Jem và biến âm dần thành
Cổ Yêm” [1, tr 37].
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 11
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19
Pơlei đe Nhoi thuộc xã Tú An hiện có 44 hộ
dân với 189 nhân khẩu. Làng vốn được tách ra
từ Pơlei đe Hơbinh và mang tên Nhoi do uống
nước từ Đak Nhoi.
Theo kết quả điền dã của chúng tôi, 04 làng
của người Bahnar ở thị xã An Khê nằm cách biệt
nhau. Các làng này đều nằm ở gần nguồn nước,
thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất. Quy mô của
mỗi làng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và
môi trường sống cụ thể của người dân trong
làng, trong đó Pơlei đe Hơbinh là làng có quy
mô lớn nhất và có điều kiện kinh tế nhất trong
số các làng Bahnar ở thị xã An Khê.
Trong cách bố trí truyền thống của người
Bahnar, làng là cộng đồng sở hữu về khu vực
sinh sống. “Làng Bahnar không sắp xếp theo
một hình mẫu nhất định nào” [1, tr 37]. Đất
đai của làng được bố trí thành các khu vực sử
dụng riêng: Đất ở, nghĩa địa, đất canh tác, khu
vực săn bắn...
Khi mới lập làng, người Bahnar đã chọn vị
trí và dành một khu đất riêng cho việc xây dựng
nhà rông - ngôi nhà chung của cả cộng đồng.
Trong làng, nhà rông là ngôi nhà lớn nhất - linh
hồn của cả làng và là nơi hội họp của các già
làng mỗi khi có việc cần bàn bạc [4, tr29]. Đó
cũng là nơi cho thanh niên đến ngủ đêm, nơi
tụ họp của dân làng khi có những việc trọng
đại hay thực hiện những nghi lễ quan trọng.
Trước đây, nhà rông Bahnar còn đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong hoạt động quân sự.
Tùy từng làng Bahnar mà kích thước nhà rông
có thể khác nhau, từ 10-15m chiều dài, 4-5m
chiều rộng, 1-1,5m chiều cao sàn nhà. Hai mái
là phần ấn tượng nhất của nhà rông, cao gấp
nhiều lần vách, có hình lưỡi rìu, phần giữa hơi
lồi ra [5, 189]. Trên nóc (pơ pung) có trang trí
hình mặt trời (măt tơ ngai) ở giữa, hình trăng
khuyết hai bên mặt trời và hình rau rớn (ktoanh)
ở hai đầu hồi. Theo Bùi Minh Đạo thì “kết cấu bộ
khung nhà rông cũng tương tự như khung nhà
sàn, nhưng cao hơn, với các vì cột (drăng) được
kết nối với quá giang (tơ pơng pụ), xà ngang (tơ
pơng tol), xà dọc (tơ pơng vil) dầm ngang và dầm
dọc bằng tạo ngoàm và buộc dây. Nằm chéo
theo mái phía trong nhà là 2 cây rừng loại nhỏ
nhưng chắc (loong tơ rạ) có nhiệm vụ giữ cho
ngôi nhà luôn vững chãi” [2, tr 166]. Nhà rông
Bahnar thường có 3 gian hay 5 gian, gồm hai
hàng cột, mỗi hàng 4-6 cột, mỗi gian rộng 2,5-3
sải tay, lòng gian dài 3-3,5 sải tay. Vách nhà (tơ
năr) được đan bằng lồ ô dày, bên ngoài vách
có các đố dọc và nẹp ngang. Nhà rông chỉ có
một cửa ra vào (măng tơm) ở chính giữa, các
cửa sổ (măng mók) thường mở phía trước nhà.
Giống như nhà ở, giữa cầu thang lên xuống
với cửa chính nhà rông có một khoảng sàn
(pra pông) lộ thiên, hai góc ngoài là 2 cột cao
(gu pra), đỉnh cột thường được đẽo khắc hình
người, hình quả bầu, hình nồi đồng hay hình
rau rớn. Không gian nhà rông được chia làm 3
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN12
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G phần theo bình diện ngang. Ngăn chính giữa
là nơi treo trống, nơi các già làng ngồi trong
các cuộc họp làng, cũng là nơi đặt cây cột cúng
(d’răng lơ yang). Cột cúng là nơi buộc ghè rượu
mỗi khi tổ chức các lễ hội tại nhà rông. Mâm
cúng được đặt trên cột cúng, là một khung tre
nhỏ, xung quanh có tua ra tết bằng phoi tre.
Ngăn bên trái là nơi đặt bếp lửa, nơi để vũ khí,
nơi ngủ của thanh niên và đàn ông chưa vợ.
Ngăn bên phải cũng có một bếp lửa, là nơi ngồi
hợp của dân làng. Vật liệu xây dựng nhà rông
đều là vật liệu tự nhiên, được cả làng chuẩn bị
trước hàng tháng và được già làng lựa chọn kỹ
càng. Nhà rông Bahnar chứa đựng nhiều chức
năng: Xã hội, tín ngưỡng và văn hóa. Nhà rông
4 làng Bahnar ở thị xã An Khê hiện nay được làm
theo kiểu mới với mái lợp tôn thay vì lợp tranh
như truyền thống do khó khăn trong việc tìm
nguyên vật liệu. So với các nhà rông của người
Bahnar ở khu vực Mang Yang hay Kon Tum thì
những nhà rông này nhỏ hơn về kích thước và
sàn nhà rông cũng thấp hơn.
Mỗi làng Bahnar ở An Khê có từ 30 - 70 nóc
nhà. Nhà cửa trong làng dựng tùy theo thế đất
và dọc theo trục đường chính của làng. Ngôi
nhà truyền thống của người Bahnar thường
chia làm 3 phần: Gian phía đông thường là
gian của vợ chồng chủ nhà; gian giữa là nơi
tiếp khách, ở đó có một bếp lửa to, là nơi ngủ
của các thiếu nữ chưa có chồng; gian phía tây là
gian của các con trai nhỏ, chưa đến tuổi ngủ nhà
rông. Nhà truyền thống của người Bahnar ở thị
xã An Khê hiện nay thường là những nhà nhỏ,
vách lợp bằng tre nứa, mái thường lợp bằng
tôn và một số ít còn được lợp bằng tranh. Trong
các làng Bahnar, bên cạnh nhà truyền thống
là một ngôi nhà cấp 4 do Nhà nước hỗ trợ xây
dựng hoặc các gia đình tự xây. Theo tìm hiểu
của chúng tôi, lớp trẻ Bahnar thích sinh hoạt ở
nhà xây trong khi lớp người lớn tuổi vẫn sinh
hoạt ở những ngôi nhà truyền thống. Ở thị xã
An Khê hiện không có nhà Bahnar truyền thống
nào 5 gian. Tuy nhiên, trong quá trình điền dã
chúng tôi nhận thấy, ở thị trấn Kông Chro hiện
vẫn còn có những ngôi nhà sàn 5 gian. Trong
đó, gian chính giữa là nơi đặt cột cúng của gia
đình và nơi ngủ của con trai chưa đến tuổi ngủ
nhà rông; gian ngoài cùng bên phải là gian của
vợ chồng chủ nhà (tơm hnam), gian ngoài cùng
bên trái dành cho các thiếu nữ Bahnar chưa
chồng (minh chơ găn drụ); các gian còn lại dành
cho các cặp vợ chồng cùng các thành viên của
họ. Tất cả các gian đều có đặt bếp lửa nhưng
bếp lửa đặt trong gian của chủ nhà (uynh tơm
hnam) được xem là bếp lửa chính của gia đình.
Theo nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn
thì xưa kia, “Các làng đều có một hàng rào
phòng thủ kiên cố bao quanh, nay không còn
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 13
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19thấy hoặc nếu thấy có cũng chỉ là những hàng
rào dậu tượng trưng nhằm ngăn cản gia súc.
Các nhà trong làng bao quanh nhà rông ở
phía trong hàng rào. Kho thóc của từng nhà
được xây cất tập trung hay rải rác xa các nhà
ở phòng tránh hỏa hoạn. Nhiều nơi, hiện nay
(thời điểm 1981) kho vẫn để trên rẫy như ở
vùng An Khê” [3, tr 128-129]. Nguồn nước (có
nơi gọi là giọt nước) của từng làng có thể ở
trong hay ngoài hàng rào làng. Nghĩa địa làng
thì cố định ở phía tây ngoài hàng rào. Các làng
Bahnar thường được bao quanh bởi nương rẫy
hoặc những cánh đồng rộng. Ranh giới giữa hai
làng Bahnar nếu liền kề nhau thường được quy
định đại khái.
3. Đặc điểm xã hội của người Bahnar ở
An Khê
Chung sống trong làng là những gia đình
mẫu hệ hoặc phụ hệ. Gia đình Bahnar nghiêng
theo dòng họ cha nhưng không hiếm trường
hợp người con rể có thể sang ở bên phía vợ.
Hầu hết người Bahnar ở thị xã An Khê hiện nay
đều mang họ Đinh hoặc họ Hồ.
Những người sống trong một làng không
nhất thiết phải có quan hệ huyết thống, tính
chất của một công xã láng giềng trong các làng
Bahnar đã rất rõ nét. “Đó là những công xã láng
giềng, tụ tập những gia đình tự nguyện cùng
chung sống với nhau” [3, tr 130].
Tuy nhiên, những người lạ mới đến sinh cơ
lập nghiệp (thường là người Kinh, trừ trường
hợp do kết hôn với người trong làng) dù đã
được sự đồng ý của làng cũng không được
phép ở giữa làng mà phải làm nhà ở bìa rừng
gần hàng rào của làng. Chỉ sau 2 hoặc 3 năm,
nếu sự có mặt của họ không ảnh hưởng gì
đến mọi hoạt động của làng thì họ mới hoàn
toàn được thừa nhận là dân làng một cách
đúng nghĩa theo phong tục của người Bahnar.
Những hộ dân sống trong một làng có quan hệ
chặt chẽ với nhau cả trong đời sống vật chất
và tinh thần.
Đứng đầu làng là tổ chức tự quản: Những
người đàn ông chủ các nóc nhà, có uy tín với
dân làng. Họ đảm nhiệm chức năng điều hòa,
tập hợp các gia đình thành khối cộng cư thống
nhất. Một trong số những người này sẽ được
chọn làm già làng (kră pơlei). Già làng đại diện
cho hội đồng già làng lãnh đạo những công
việc chung của cả cộng đồng: Dời làng, đặt tên
làng, dựng nhà rông, dựng nhà cho dân làng,
tổ chức lễ hội, phân xử các vụ việc trong làng
theo luật tục... Hội đồng già làng của các làng
Bahnar có số lượng không giống nhau. Tùy
theo quan niệm về hệ thống thần linh của từng
làng mà dân làng cắt cử số người tương xứng
để đảm đương công việc: 8 người; được phân
công cụ thể như sau: 3 già làng phụ trách việc
cúng tại nhà rông Yang gọi là kră Yang Rông, 3
già làng phụ trách việc cúng bến nước được
gọi là Kră chruih Đak, 2 già làng phụ trách việc
cúng ngoài đường (ngã 3 đầu làng) gọi là kră Tơ
Tha Trong Sơlăh. Có thể nói, đối với cộng đồng
người Bahnar truyền thống, “Ý thức làm chủ tập
thể ở đây tuy còn dạng sơ khai nhưng đã được
quán triệt. Một khi công việc đã được bàn bạc
dẫn đến quyết định, cả làng tự giác hoàn thành
dưới sự điều khiển của các già làng” [3, tr 131].
Từ sau năm 1975, kết cấu tổ chức làng
Bahnar ở An Khê có nhiều biến chuyển. Làng
không còn là cộng đồng sở hữu về lãnh thổ như
trước, mà sở hữu Nhà nước đã thay thế cho sở
hữu của các buôn làng. Quan hệ làng xóm của
người Bahnar hiện nay là quan hệ bình đẳng.
Mặc dù tính tự quản với vai trò của già làng vẫn
còn nhưng đã có sự tác động mạnh mẽ của các
tổ chức chính quyền cấp xã, thôn trong việc
điều hành mọi hoạt động của làng. Nhà rông
không còn là nơi tụ tập để phòng thủ hay bàn
việc tấn công các làng khác khi chiến tranh xảy
ra giữa các làng nữa mà là nơi hội họp dân làng
mỗi khi có dịp lễ, tết hay bàn việc sản xuất, vui
chơi, giải trí.
Có thể nói, ở 4 làng Bahnar ở An Khê, từ
15 năm trở lại đây, loại hình nhà ống xây bằng
vật liệu mới như xi măng, sắt, gạch, tôn, ngói
đã tăng lên với số lượng lớn bên cạnh các nhà
sàn truyền thống. Đó là thành quả của việc
người Bahnar đã xóa bỏ các tập quán sản xuất
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN14
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G lạc hậu, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi, đưa các giống, cây trồng cho năng suất
cao như mía, mì, bắp lai, lúa nước, keo, bạch đàn
vào canh tác. Nhờ đó, thu nhập các hộ dân tăng
lên nhiều so với trước kia, đời sống vật chất của
người dân trong các làng Bahnar được cải thiện
rõ rệt. Nhà ống của người Bahnar được ngăn ra
thành nhiều phòng để “đảm bảo sự riêng tư”.
Từ khi người Bahnar có nhiều nhà ống, nhà sàn
chỉ còn là nơi yên tĩnh của người cao tuổi, nó
không còn phản ánh mối quan hệ và sự kiểm
soát đa chiều, liên thế hệ nữa.
4. Kết luận
Có thể nói, cộng đồng người Bahnar ở
vùng An Khê có một nền văn hóa bản địa phong
phú và đa dạng, với văn hóa chữ viết, trang
phục, nhà sàn truyền thống, âm nhạc dân gian,
văn hóa ẩm thực độc đáo.
Hiện nay, người Bahnar ở An Khê là nơi
còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể, vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá
trị thẩm mỹ độc đáo như: Nhà rông, nhà sàn,
cồng chiêng, tượng nhà mồ, các lễ hội và kho
tàng văn học dân gian với những bản trường ca,
truyện cổ, truyện ngụ ngôn, lời nói vần, những
làn điệu dân ca đậm đà bản sắc lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Điều cấp thiết lúc này là nhà nước
và chính quyền địa phương phải xây dựng các
thiết chế văn hóa phù hợp để nhân dân sống
với văn hóa của minh và hưởng thụ các giá trị
văn hóa với sự giúp đỡ của nhà nước. Có như
vậy, chúng ta mới bảo tồn và phát huy được các
giá trị văn hóa truyền thống trong cộng đồng
người Bahnar nói riêng và các dân tộc tại chỗ
trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói chung./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. UBND thị xã An Khê, Lịch sử và văn hóa vùng đất An
Khê - Gia Lai. Nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh năm 2017.
2. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê (2010), Lịch
sử Đảng bộ thị xã An Khê (1945-2005), NXB Chính trị quốc gia.
3. Bùi Minh Đạo (cb) (2006), Dân tộc Bahnar ở Việt Nam,
NXB Khoa học Xã hội.
4. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1981), Các dân tộc tỉnh
Gia Lai - Công Tum, NXB Khoa học Xã hội.
5. Lưu Hùng (1996), Làng buôn cổ truyền xứ Thượng, NXB
Văn hoá Dân tộc Hà Nội.
6. Nguyễn Khắc Tụng (1991), Nhà rông các dân tộc Bắc
Tây Nguyên, NXB Khoa học xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33_7021_2207539.pdf